THIỀN MINH SÁT TRONG ỨNG DỤNG
Ian Hetherington
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Trích dịch từ Realizing Change,Vipassana Research
Publications)
---o0o---
Thiền Minh Sát rất được nhiều người Tây phương
tu tập. Trong quyển Realizing Change-Vipassana Meditation
in Action (tạm dịch Sự Chuyển Hóa Chứng Thực – Thiền Minh
Sát Trong Ứng Dụng) Ian Hetherington đã giới thiệu cho độc
giả một vài điển hình của những người đã đến với thiền Minh
Sát (Vipassana); những suy tư, quá trình tu tập của họ;
thiền minh sát đã thay đổi cuộc đời họ như thế nào, những sự
chuyển hoá nào họ đã chứng nghiệm được trong cuộc sống.
Chúng tôi xin trích dịch để giới thiệu với bạn đọc.
Jenni Parker, Chicago, USA
Năm hai mươi lăm tuổi khi tôi bắt đầu hành
thiền, tôi đã trải qua những giai đoạn khó khăn trong cuộc
đời: sử dụng các loại ma túy như là cần sa, cocaine, và các
loại thuốc gây hoang tưởng khác. Tôi đã bị cảnh sát bắt năm
tôi mười sáu tuổi vì tội tàng trữ ma túy, và cha mẹ tôi rất
khổ đau khi biết được điều này. Tôi cũng đã trải qua thời
gian đi ăn cắp đồ trong các cửa tiệm, hay của người khác;
người ta có cảm giác rằng tôi có thể lấy bất cứ thứ gì ở
quanh tôi! Tôi bị các cửa tiệm bắt nhiều lần và cha mẹ tôi
cũng được thông báo. Cũng đáng ngạc nhiên vì tôi được trưởng
thành trong một môi trường rất bền vững về tài chánh và tình
cảm. Tôi lớn lên ở thành thị; cha tôi là một giáo sư thành
đạt. Cả hai cha mẹ tôi đều thương yêu nhau và đều chăm lo
cho tôi. Tôi có được những cơ hội về học vấn, xã hội, thể
thao mà nhiều người mong muốn –được học trường tư, có nhà ở
khu trượt tuyết, nhà nghỉ hè cạnh bờ biển; sau giờ học được
tham gia vào các chương trình về thể thao, văn hóa nghệ
thuật. Hành động mê muội nhất của tôi là đắm chìm trong
những cuộc tình bừa bãi, không mệt mỏi, đến nỗi nó đã thành
một thói quen khó bỏ, ngay cả sau khi tôi đã bắt đầu hành
thiền.
David Crutcher tham dự khóa thiền lần đầu tiên
vào năm 1982 tại San Francisco’s Boy Club Camp, USA
Anh trai tôi đã dự một khóa tu thiền Minh Sát
năm trước đó. Tôi là chủ một doanh nghiệp. Anh ấy thấy cuộc
sống của tôi quá nhiều căng thẳng, vì thế anh đã khuyên tôi
nên đi dự một khóa tu thiền để được nhiều lợi ích. Tôi đã
lên chương trình để đến nghỉ ngơi ở một bãi biển nào đó ở
Caribbean. Đó là điều tôi luôn mơ ước. Trong suốt hai năm
trường, tôi đã làm việc liên tục, gần như chưa có ngày nghỉ
nào và rất cần một kỳ nghỉ hè. Vì thế khi anh đề nghị tôi đi
học thiền, tôi đã nghĩ trong đầu là sẽ không bao giờ làm
việc đó. Tôi cần một thứ gì đó trong đời như là thư giãn
trên bãi biển. Nhưng những gì anh nói vẫn lẩn quẩn trong đầu
tôi, rằng nếu đi nghỉ ở một nơi nào đó như là bãi biển, tôi
có thể được vài tuần nghỉ ngơi; nhưng đi học thiền, tôi có
thể được một điều gì đó ích lợi cho tôi cả đời. Và tôi biết
rằng mình đang ở trong một hoàn cảnh rất căng thẳng, vì thế
cuối cùng tôi bỏ ý định đi nghỉ hè mà mua vé máy bay đến
trung tâm thiền này.
Ray Gross, Phát Thanh Viên Thể Thao ở
Pennsylvania, USA
Nền tảng tôn giáo và giáo dục mà tôi được hấp
thụ luôn nhấn mạnh rằng tôi phải làm chủ cuộc đời mình. Nói
một cách khác, về tri thức, tôi biết mình phải sống như thế
nào trong cuộc sống, nhưng có một cái gì trong tôi không
phải lúc nào cũng nghe theo tôi. Tôi không thể nhớ từ lúc
nào, tôi đã bắt đầu đi tìm một điều gì đó để thay đổi con
người bên trong. Để tôi có thể hành động theo lương tâm, mà
không phải luôn dằn vặt tranh đấu nội tâm để khỏi buông trôi
theo sự dễ dãi, sự thõa mản nhất thời.
Đầu năm 1988 trong kỳ nghỉ hè cùng với với vợ
tại bãi biển Myrtle, Nam Carolina, tôi rảo quanh các tiệm
bán sách cũ và vô tình cầm lên quyển sách “Nghệ thuật sống”
(The Art of Living) của William Hart. Vì là sách cũ, giá chỉ
$2.95 đô la, nên tôi đã mua, nghĩ rằng tôi sẽ có dịp đọc
nó. Một vài tháng sau khi đã có dịp đọc sách, tôi cảm thấy
rằng tôi phải dự một khóa thiền Minh Sát 10 ngày. Ngay cả
trước khi dự khóa thiền, tôi đã biết đây chính là điều mà
tôi luôn tìm kiếm. Một trong những điều thật sự gây ấn tượng
cho tôi là tham dự khóa thiền không phải trả chút lệ phí
nào. Tất cả đều tùy theo lòng hảo tâm của thiền sinh sau
khóa thiền. Với một khóa học như thế thì còn cần đến động
lực bên ngoài nào nữa?
Tôi đã dự khóa thiền đầu tiên vào tháng 3, 1989
ở Shelburne Falls, bang Massachusetts và đó là điều quan
trọng nhất mà tôi đã làm được trong đời tôi.
Dimitri Topitzes, Wisconsin USA, tham dự khóa
thiền Minh Sát đầu tiên vào năm 1996.
Mang thai con ngoài giá thú trong một ngôi làng
nhỏ ở ven một bờ biển ở Hy Lạp vào khoảng năm 1965, mẹ tôi
không thể giữ và nuôi tôi trong hoàn cảnh văn hóa của thời
đó và ở nơi đó. Vì thế, tôi bị đưa vào một cô nhi viện ở gần
đó, sau khi được sanh ra trên một chuyến xe buýt đi ra khỏi
làng. Đó là những bắt đầu không được tốt đẹp của đời tôi.
Tuy nhiên lúc 6 tháng tuổi, tôi lại được một gia đình người
Mỹ gốc Hy Lạp nhận làm con nuôi và đem về Mỹ, đến một thành
phố lớn ở miền trung tây. Gia đình cha mẹ nuôi đã hết lòng
chăm sóc, thương yêu tôi để bù đắp cho những bất hạnh của
tôi trong những năm đầu đời.
Tuy nhiên, những vết thương của việc nhận con
nuôi, đối với gia đình cũng như đối với đứa con đã không bao
giờ được trao đổi một cách thẳng thắng, để chúng bưng kín
rồi dần dần bung mủ ra. Ngoài ra còn có một số xung đột lạ
lùng trong gia đình tựa như xát thêm muối vào vết thương.
Và tôi có cảm giác mình là người phải giải mã tất cả những
lo lắng và thương yêu của gia đình song song với những trăn
trở, bức xúc trong nội tâm tôi. Thời thơ ấu, tôi đối mặt với
sự thử thách này giống như nhiều đứa trẻ khác đã làm, bằng
cách lôi mẹ chúng vào trong những câu chuyện đầy triết lý.
Cho đến ngày nay tôi vẫn còn nhớ chúng, mà chủ đề xoay quanh
sự quan tâm, thắc mắc của tôi về nguồn gốc của cuộc đời, sự
chấm dứt của cuộc đời, và những khổ đau của con người.
Sau khi đã có được một căn bản giáo dục cao cấp
và một bằng cấp thạc sĩ về tâm linh, tôi trở về quê nhà và
làm việc trong một nhà sách “thuộc thời đại tiến bộ” (“New
Age”) ở địa phương để có thể đọc tất cả những gì đã viết về
số phận con người. Giáo dục ở nhà trường không giúp tôi giải
tỏa những thắc mắc từ niên thiếu, nên ý định của tôi khi
nhận công việc này, ngoài việc có một ít tiền, là để khám
phá ra những nghịch lý trong các điều kiện vũ trụ, cũng như
trong chính câu chuyện đời tôi. Tôi đọc các sách về những
phương pháp hàn gắn, về xung đột gia đình, về con nuôi, khổ
đau, về “nền khoa học mới”, vân vân. … cuối cùng tôi tìm
đến phần sách về Phật giáo. Và tôi đã đọc được từ một tác
giả rằng đặc biệt là để chuyển hóa khổ đau, trước hết người
ta phải chuyển hóa cách suy nghĩ và cách sử dụng lời nói.
Lúc đó, người ta sẽ đạt đến một cái nhìn nhất nguyên, ở đó
cả hai: vẻ đẹp và sự điên rồ của cuộc sống biến mất vào
trong một bí mật không thể nói thành lời. Theo tác giả này,
chỉ đọc và hiểu không thôi, không thể giải quyết được điều
nghịch lý đó; chỉ có hành thiền mới có thể làm được điều đó.
Vậy là tôi chọn hành thiền, và từ đó tôi tiếp
tục tu tập theo con đường vượt thoát khổ đau.
Ben Turner, điều dưỡng, đã có thời gian 5 năm
làm việc trong Ban Chăm Sóc Sức Khỏe ở một nhà tù ở Mỹ.
Nghĩ lại đó là một may mắn khi tôi được sinh ra
với tâm trạng của một đứa trẻ khá trầm cảm. Những ký ức xa
xưa nhất của tôi là về các cảm giác cô đơn, bị những đứa trẻ
khác xa lánh, xua đuổi.
Ở trường học, đã có thời gian tôi bị cho là
không phát triển bình thường, hay “bại não” như là thuật ngữ
được dùng trong những ngày này. Khi lớn lên, tôi càng trở
nên không hòa hợp với cuộc sống, có rất ít bạn, phần lớn
thời gian chỉ ở một mình, bị học lại lớp 7.
Khi tôi bước vào tuổi thiếu niên, trước khi trở
thành người lớn, mặc cảm về sự yếu kém, không ra gì của tôi
càng tăng lên và ý nghĩ muốn tự tử thường chiếm lĩnh tôi.
Tôi tìm sự giúp đỡ qua những buổi tư vấn phân tích tâm lý
của các nhà tâm lý, các nhà sinh lý, các nhà tư vấn và các
nhân viên xã hội. Họ cũng không giúp tôi được nhiều. Tôi
luôn ý thức cảm giác bị dồn nén vào trong một loại hộp đóng
kín bởi một lý thuyết này hay lý thuyết kia, thường thì tôi
cảm thấy bản ngã của người tư vấn ảnh hưởng nhiều trong quá
trình chữa trị đến nỗi tôi cảm thấy tôi bị lạc vào trong
hoặc là chính sự ngạo mạn của họ hay sự tự nghi ngờ bản thân
của họ.
Vào thời điểm đó, những năm bắt đầu tuổi hai
mươi, tôi cảm thấy mình đã đi đến tận cùng sự tuyệt vọng.
Các nhà chuyên nghiệp về sức khỏe tinh thần không thể làm gì
để có thể giúp tôi thấy rằng tôi phải đi đến tận cùng những
khổ đau của mình, thì tôi mới có thể tự tìm được câu trả lời
của mình. Tôi bắt đầu suy nghĩ về những vấn đề tâm linh và
tôn giáo. Suy cho cùng, nếu có hàng tỷ người khắp trên thế
giới đều quan tâm đến vấn đề này, thì hẳn là phải có ích lợi
gì, và họ có cùng những kinh nghiệm gì.
Tôi bắt đầu đọc từ Kito giáo, Lão Tử, Khổng Tử,
đến thiền, Phật giáo Tây Tạng, phong thủy và rất nhiều những
tài liệu về “thời đại mới” (New Age). Dần dần tôi thử thực
hành một số. Tôi đã hy vọng rằng có thể qua đó tôi sẽ tìm
được một giải pháp. Hình như cũng có một số điểm chung về
nguyên tắc. Nhưng khi thực hành, tôi không thể tìm ra nó.
Dường như tất cả đều ẩn dấu trong những nghi thức, hình
tượng, những bê bối tài chánh và cả sự vô đạo đức của học
viên hay đôi khi của vị thầy. Tuy nhiên hạt giống hy vọng
vẫn còn trong tôi, và tôi dần dần phát triển bốn điều để
giúp tôi tiếp tục tìm kiếm:
1- Khóa tu phải hoàn toàn miễn phí. Nếu có một
phương cách, một sự hiểu biết nào có thể đưa đến hạnh phúc
và giải thoát, thì bất cứ ai khi đã tìm được điều đó, bất cứ
ai đang giảng dạy những điều này, cũng nên chia sẻ với người
khác, cũng phải nhận thấy rằng không nên tìm nguốn lợi riêng
cho mình, bằng cách không chia sẻ với những người không có
khả năng trả lệ phí.
2- Không đòi hỏi phải có một bước ngoặt trong
lòng tin, không cần có một vị Thượng đế khuất mặt nào, không
có sự tôn sùng mù quáng nào. Mỗi bước cần phải rõ ràng và
chấp nhận được ngay từ lúc ban đầu.
3- Không được loại trừ một ai, và không có sự
kết án đối với những người đi con đường khác.
4- Vị thầy phải thực hành những điều mình giảng
dạy và không bị uế nhiễm vì những hành động bất thiện.
Những điều kiện này được đặt ra để giúp tôi dễ
dàng hơn trong việc tìm kiếm chân lý của mình, nhưng chúng
gần như loại trừ tất cả những gì mà tôi đã tiếp cận được từ
trước đến lúc bấy giờ. Nhưng cuối cùng tôi được gặp một
người đã tham dự một khóa thiền Minh Sát ở Ấn độ.
Sau khi đã dự khóa thiền đầu tiên với ngài
Goenka, tôi biết rằng tôi đã tìm được một công cụ thỏa mãn
tất cả bốn điều kiện trên. Tôi nhận thấy rằng, không có phép
lạ nào, nhưng từ khóa tu này sang khóa tu khác, từ năm này
sang năm khác, dần dần căn bịnh trầm cảm cả đời của tôi đã
thuyên giảm nhiều. Nói đúng hơn tôi đã trở nên ít phản ứng
lại với những đau khổ vốn là bản chất của cuộc đời. Dĩ
nhiên, các trạng thái trầm cảm của tôi vẫn còn. Nhưng chúng
giống như khi ta nhìn ngắm một đám mây đi ngang qua mặt trời
hơn là cảm giác bị chôn vùi dưới đám bùn.