- Khi mùa Xuân tới
Cây lá đâm chồi
Hoa nở thắm tươi
Nhưng những trẻ thơ
Như lá rụng rơi
Trong mùa Thu qua
Không hề trở lại
RYOKAN (1)
(Cho các bé thơ đã bỏ mình trong bệnh dịch đậu mùa)
1- Theo Dấu Chân của Bồ Tát Ðịa Tạng.
Từ trước đến nay, một số khuynh hướng bài bác Ðại Thừa -cả trong
lẫn ngoài Phật giáo- khi cho rằng kinh điển Ðại Thừa là ngụy tạo, họ cũng
hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn
thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Ðịa Tạng- coi đó như là những nhân vật
hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy
nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Ðộ hồi gần đây đã xác định
rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Ðịa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh
tại Ấn Ðộ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ
hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh
hướng Phật giáo Ðại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Ðịa Tạng và
những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên
cứu tại Ðại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Ðà.
Khi Phật giáo bắt đầu được du nhập vào vùng Trung Á, vào khoảng
năm 140 C.E., và trạm dừng chân đầu tiên của bánh xe Pháp là Turkestan, tín
ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Ðịa Tạng cũng theo bước chân của những tăng đoàn truyền
giáo du nhập vào vùng này thông qua “Con Ðường Lụa” nổi tiếng trong lịch
sử. “Con Ðường Lụa” như mọi người đều biết, dài trên hai ngàn dặm từ Ấn Ðộ
vào Trung Hoa đi xuyên qua những địa thế rất gian nan hiểm trở, với những
vùng khí hậu khắc nghiệt của cả núi cao lẫn sa mạc, thêm vào đó những vùng
biên địa giữa những tiểu quốc lại đầy rẩy những thú dữ và những băng đảng
cướp của giết người cũng như những bộ lạc còn rất dã man. Rất nhiều những
kẻ lữ hành -kể cả các tăng sĩ truyền giáo- đã phải bỏ mạng trên đoạn đường
này, đến độ theo du ký của những khách hành hương trong tinh thần “Nhập Trúc
cầu Pháp” còn để lại, những bộ xương khô rải rác ở bên đường dọc theo sa
mạc đã được dùng như là những dấu mốc cho kẻ lữ hành cho biết là họ đang
đi đúng hướng. Ðối diện với những nỗi hiểm nguy lớn lao như thế, việc tôn
thờ Bồ Tát Ðịa Tạng như là vị Bồ Tát bảo vệ kẻ lữ hành là một điều dễ hiểu
nếu không nói là một nhu cầu hiện thực, vì như trong Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát
Bổn Nguyện, Phật thuyết:
- “Lại vầy nữa, nầy Quán Thế AÂm Bồ Tát! Về đời sau nếu có người
thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư,
hoặc nhơn sự sanh cùng tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi,
hay là qua sông vượt biển, hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm
trở. Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của ngài Ðịa Tạng Bồ Tát một
muôn biến, được thế thời đi qua nơi chốn nào cũng có các vị quỉ thần hộ vệ,
lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài
hùm sói sư tử... nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó
được.” (3)
Hàng ngàn hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng được tôn thờ trong những
hang động tại vùng Lung-Men và Tun-huang, Turkestan trong khu vực được gọi
là Vạn Phật đã nói lên niềm tin tưởng của dân chúng địa phương về sự hộ trì
của Bồ Tát Ðịa Tạng đối với khách lữ hành và là một bằng chứng sống động
cho thấy rằng Bồ Tát Ðịa Tạng không phải là sản phẩm hư cấu của người Trung
Hoa.
- Từ cửa ngỏ Turkestan, Phật giáo được du nhập vào Trung quốc
và chỉ trong vòng vài thế kỷ sau, khoảng năm 400 C.E ,Phật giáo coi như đã
hoàn toàn hội nhập vào vùng đất mới. Tại đây cây Bồ Ðề đã bắt đầu bám rễ
một cách vững chắc góp phần vào việc phát triển một nền văn hoá Trung Hoa
đa dạng, phong phú và rực rỡ. Ðồng thời tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Ðịa Tạng
cũng đã bộc phát mạnh mẽ trong khoảng thời gian từ giữa cho đến cuối niên
kỷ 500 C.E. do niềm tin của một giáo phái Phật giáo, “Tam Giai Giáo” (4),
cho rằng, theo kinh Phật, đây là thời kỳ Mạt Pháp, và trong giai đoạn này
việc thờ phượng Bồ Tát Ðịa Tạng là thích hợp nhất. Tín ngưỡng tôn thờ Bồ
Tát Ðịa Tạng đạt lên đến đỉnh cao khi người Trung Hoa chọn ngọn núi Cửu Hoa
Sơn làm nơi trụ tích của Bồ Tát mà theo truyện tích còn để lại thì Bồ Tát
đã hóa thân thành một nhà sư Triều Tiên đến Trung Hoa hoằng pháp và liễu
đạo tại đây.
Từ Trung Hoa, Phật giáo cùng với tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Ðịa
Tạng bắt đầu du nhập vào Nhật Bản thông qua cửa ngỏ Triều Tiên vào khoảng
thế kỷ thứ Năm hoặc thứ Sáu C.E. Nhật Bản lúc bấy giờ so với Trung Hoa và
ngay cả Triều Tiên, là một quốc gia còn ở trong tình trạng bán khai, lạc
hậu. Bị hăm dọa thường trực bởi nạn động đất và núi lửa, dân chúng Nhật Bản
đa phần sống dưới những túp lều tranh đơn sơ trong những ngôi làng bé nhỏ
nghèo nàn, cai quản bởi những lãnh chúa địa phương. Họ chưa có thành thị,
hệ thống tiền tệ, chữ viết, không trường học và bất cứ một nghi thức tôn
giáo nào. Tuy nhiên Phật giáo đến với Nhật Bản không phải là để lấp chỗ trống
tôn giáo này, vì dân Nhật vẫn có những tín ngưỡng đa thần cổ sơ, thờ cúng
ông bà và tôn sùng Thần Ðạo. Ngược lại, Phật giáo đến với Nhật Bản như là
biểu trưng của một nền văn minh Trung Hoa đã chín mùi, đầy sức thu hút và
quyến rũ. Hơn thế nữa Phật giáo còn mang đến cho Nhật Bản những vị Bồ Tát
rất gần gũi với những nhu cầu của cuộc sống đời thường, mà cụ thể là Bồ Tát
Ðịa Tạng. Nếu như người Nhật trước đây tôn sùng Thần Ðạo, đã từng quen thuộc
với những ông thần Núi, thần Sông, thì nay, Bồ Tát Ðịa Tạng -như tên gọi
của Ngài- trong cảm quan người Nhật chẳng khác gì một ông thần Ðất thiết
thân và gắn bó. Trong một sớm một chiều, hình ảnh của Bồ Tát Ðịa Tạng đã
lần hồi chiếm chỗ của những vị thần đã ngự trị trước đây trong lòng dân
Nhật. Người nông dân gặp khó khăn trong công việc đồng áng ư? Họ kêu cầu
đến Bồ Tát Ðịa Tạng. Gặp lúc trời hạn hán không mưa? Lại phải nhờ đến oai
lực của Bồ Tát Ðịa Tạng. Thậm chí gặp lúc đau mắt, nhức răng không biết chạy
đi đâu người ta cũng phải chạy đến cầu sự giúp đỡ của Ngài. Ngài trở thành
vị Bồ Tát bảo vệ thôn làng trước họa binh đao, nước lửa; là người bảo vệ
cho sản phụ mẹ tròn con vuông, kẻ bảo hộ cho những chiến sĩ được bình an
trong trận mạc. Chưa hết, đến phút lâm chung, cũng chính Bồ Tát Ðịa Tạng
là người đến tiếp dẫn họ đến cõi Tây phương Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà, và
chẳng may nếu một người nào đó gây nên những ác nghiệp xấu xa phải rơi vào
chốn địa ngục, nếu biết ăn năn sám hối kêu cầu đến Ngài, Ngài cũng sẽ sẵn
sàng lăn xả vào chốn địa ngục để đưa họ ra khỏi chỗ tối tăm...
Ðể tán thán công năng cứu độ chúng sanh không thể nghĩ bàn của
Bồ Tát Ðịa Tạng, người dân Nhật đã tạo ra không biết bao nhiêu những truyện
tích, huyền thoại để nói về Ngài. Với khuôn mặt dịu hiền khả ái và trên môi
như luôn luôn điểm một nụ cười, hình ảnh của Ngài đã hoà nhập vào tất cả
mọi nền nếp suy nghĩ, những lo âu trong cuộc sống đời thường của dân chúng
Nhật Bản. Hình ảnh của Ngài làm người ta liên tưởng đến hình ảnh của một
vị y sĩ vùng quê sẵn sàng có mặt bất cứ lúc nào cho bất cứ ai cần đến trong
cơn đau đớn, sợ hãi, âu lo, hoạn nạn dù lớn hay nhỏ. Cho đến bây giờ, không
phải chỉ ở vùng quê mà ngay tại những thành phố, kể cả những thành phố lớn
đông đúc rộn rịp như Ðông Kinh hay cố đô Kyoto, nếu bạn cần đến sự giúp đỡ
của Bồ Tát Ðịa Tạng, có lẽ bạn cũng không cần phải đi đâu xa, bởi vì chỉ
cách một vài góc phố, vài ngả tư đường người Nhật lại dựng lên một bàn thờ
nhỏ thờ Bồ Tát Ðịa Tạng, mà trên đó là những bó hoa tươi thắm, những phẩm
vật cúng dường đơn sơ nhưng chan chứa những tình cảm trân trọng: vài viên
kẹo, dăm trái quýt, và đôi khi cả những chén rượu sake... Những bàn thờ này
luôn luôn được chăm sóc sạch sẽ bởi cư dân địa phương, điều này đã nói lên
những tình cảm tin tưởng trân quý của người Phật tử Nhật Bản luôn luôn hướng
về Ngài. Ở những nơi thờ phượng lớn hơn, người ta còn thấy Phật tử dâng cúng
lên Ngài những bộ áo quần trẻ con, những đôi giày, dép Nhật Bản, vì người
ta tin tưởng rằng Bồ Tát Ðịa Tạng đã phải đi mòn không biết bao nhiêu là
gót giày, tất bật tới lui không ngừng trên khắp nước Nhật để an ủi, săn sóc
bất cứ những ai cần đến Ngài giúp đỡ. Ðặc biệt khi người ta dâng cúng đến
Ngài những bộ áo quần trẻ con là vì do niềm tin theo truyền thuyết, Ngài
là người rất yêu thích trẻ con, là vị thần hộ mệnh của những trẻ thơ bất
hạnh. Ðây có thể nói là một trong những nét độc đáo, đầy ý nghĩa của Phật
giáo Nhật Bản.
2- Bồ Tát Ðịa Tạng, Người Bảo Vệ Trẻ Con.
Theo niềm tin tưởng rất lâu đời của Phật tử Nhật Bản kể từ thời
Trung cổ thì Bồ Tát Ðịa Tạng rất thương yêu trẻ con và vì thế Ngài là vị
Bồ Tát có một sứ mệnh rất đặc biệt là bảo vệ trẻ con. Chính vì vậy mà đa
phần những hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng tại Nhật Bản đều mang một khuôn mặt
trẻ thơ rất đáng yêu. Trong các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Ðại
thừa như Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, v.v.. chỉ có Nhật Bản là có truyền
thống độc đáo này. Người ta không biết rõ niềm tin này được phát xuất từ
đâu, có thể là bắt nguồn từ cuốn Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện. Theo một phẩm
ở trong cuốn Kinh này thì vị quỉ thần trách nhiệm về sinh mệnh và tuổi thọ
của con người, Chủ Mạng Quỉ Vương, cũng là một vị Bồ Tát do lòng từ hóa hiện,
trong khi cùng với các vua Diêm La câu hội về cung trời Ðao Lợi để nghe Phật
thuyết pháp, đã bạch Phật:
“Người trong cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh, không luận là con
trai hay con gái, khi sắp sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi
ích cho nhà cửa, thời Thổ Ðịa vui mừng khôn xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều
đặng nhiều sự an vui, hàng thân quyến cũng được phước lợi. Hoặc khi đã hạ
sanh rồi, nên cẩn thận chớ có giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon
cung cấp cho người sản mẫu ăn, cùng nhóm họp cả cả hàng quyến thuộc lại để
uống rượu ăn thịt, ca xang đờn sáo, nếu làm những việc trên đó có thể làm
cho người mẹ đứa con chẳng đặng an vui.” (5)
Trong một đoạn kinh khác, khi tán thán về công năng và oai lực
của Bồ Tát Ðịa Tạng, Phật đã tuyên thuyết cùng Bồ tát Phổ Quảng:
“Lại vầy nữa, nầy Phổ Quảng! Về trong thuở về sau này , nơi cõi
Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả
các hạng người, và những dân tộc giòng họ khác, như có người nào mới sanh
đẻ hoặc con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sanh
đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh
hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát đủ một muôn biến. Ðược vậy thời đứa trẻ hoặc
trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây ra tội vạ chi cũng
đặng thóat khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn
như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó càng được an vui
hơn cùng sống lâu hơn.” (6)
Chăm lo cho hạnh phúc trẻ thơ chưa đủ, Bồ Tát Ðịa Tạng còn chăm
lo đến số phận của những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu,
hoặc vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ.
Chết yểu, theo quan niệm của người Á Ðông là một điều bất hạnh. Càng bất
hạnh hơn nữa theo quan điểm Phật giáo là vì trẻ thơ chưa có ý niệm về sự
sống, chết; thế nên trong giai đoạn thân trung ấm, thần thức của chúng vẫn
còn lảng vảng chung quanh những người thân yêu như cha mẹ anh chị em, không
chịu rời bỏ căn phòng và ngôi nhà mà chúng đã từng sinh sống. Hàng ngày chúng
tiếp xúc với họ, nói chuyện với họ và cảm thấy rất đau khổ vì những người
thân yêu này hầu như không ai nghe lời chúng, không có vẻ gì quan tâm đến
chúng cả. Chúng thật là cô đơn, buồn tủi và rất đáng tội nghiệp. Chúng ta
đừng vội nghĩ một cách đơn giản rằng vì trẻ con ngây thơ trong trắng, trong
đời chúng chưa hề gây ra một ác nghiệp nào nên khi chết là có thể được sanh
về những cảnh giới tốt đẹp. Sự thật không phải như vậy. Ðiều này đã được
Ðức Thế Tôn giải thích một cách khá rõ ràng khi phản bác lập luận của một
người ngoại đạo cho rằng, nếu một người nào đó, thân không làm những điều
xấu ác, miệng không thốt những lời cay độc, không có những tác ý xấu xa,
không kiếm sống bằng những nghề bất lương, người đó như thế đã hoàn tất
những nỗ lực tu tập tinh thần cần thiết và trở thành một bậc thánh, một bậc
giác ngộ trong kiếp sống này. Ðức Thế tôn đã phản bác rằng:
“Một hài nhi còn nằm ngữa chưa hề có ý niệm thế nào là “thân”
làm sao chúng có thể có những hành động xấu ác khi thân chỉ biết bò và lật?
Một hài nhi còn nằm ngữa ngay cả còn chưa biết “nói chuyện” thì làm sao có
thể thốt ra được những lời cay độc khi miệng chỉ biết khóc nhè?... [Chúng]
không hề có ý niệm thế nào là “tác ý” thì làm sao có thể có những tác ý xấu
xa? [Chúng] không hề có ý niệm thế nào là “nghề nghiệp sinh sống” thì làm
sao chúng có thể hành nghề bất lương để kiếm sống ngoại trừ rúc vào vú mẹ?
Nếu [tất cả những gì mà ông nói] như thế, thì một đứa hài nhi còn nằm ngữa
là một bậc thánh, và là [một bậc giác ngộ]. (7)
Như thế những linh hồn trẻ thơ này sẽ đi về đâu trong và sau
giai đoạn thân trung ấm và Bồ Tát Ðịa Tạng làm thế nào để cứu giúp chúng?
Bên bờ sông Nại Hà
Theo sự tin tưởng của người Phật tử Nhật Bản, lứa tuổi trẻ con
vì trí óc còn non nớt chưa phát triển nên không thể phân biệt được phải trái
cũng như không thể thấu hiểu được những giáo lý của đạo Phật. Dĩ nhiên vì
không thông hiểu giáo lý, chúng không thể tu tập để đạt đến giác ngộ -như
đoạn kinh Phật đã giải thích ở trên- vì thế nên tuy ngây thơ vô tội, sau
khi từ giả cõi đời chúng không thể sanh vào cảnh giới Phật, kể cả cảnh giới
Tịnh Ðộ. Ngược lại chúng bị rơi vào cõi u minh mờ mịt. Huyền thoại Á Ðông
thường đề cập đến một giòng sông mà người chết trong giai đoạn thân trung
ấm cần phải vượt qua, đó là sông Nại hà.
Theo truyền thuyết của Nhật Bản, những trẻ con yểu tử sau khi
chết đều tụ tập ở bên bờ sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những
người thân yêu, tại đây chúng nhặt những hòn đá cuội sắp xếp thành những
ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em. Khi hoàn tất xong một cái,
chúng bảo rằng: “Cái nhà này là của mẹ, người bảo bọc tôi. Cái nhà này là
của cha, người nắm tay tôi dẫn dắt tôi trên đường đời. Cái này là của anh,
chị, em tôi...”
Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ Tát Ðịa Tạng
đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích, tiếp tay xây dựng những ngôi
nhà trẻ con này hầu giúp chúng tích lũy công đức để nhờ đó có thể vượt qua
giòng sông Nại hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán
để có thể đi đầu thai sang kiếp khác. Tuy nhiên trong số những truyền thuyết
này, cũng có chuyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện
mô tả là không khí bên bờ sông Nại hà rất là đìu hiu và thê lương, trẻ con
thì không ngớt khóc than vì không còn cha mẹ để nương tựa, bám víu. Trong
lúc này một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung
dữ hiện ra, lột hết áo quần của tất cả bọn chúng treo lên cành cây. Mụ không
ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận
của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Ðể bù lại,
mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như
là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà
đã sắp hoàn thành xong thì một bầy quỉ hung ác khác, đầu sừng răng nanh hiện
ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ,
miệng không ngừng la lối nạt nộ: “Khốn nạn cho tụi bây chết trước cha mẹ!
Tụi bây đâu đã biết cầu nguyện là gì!!”
Chính lúc này thì Bồ Tát Ðịa Tạng hiện ra và bọn trẻ trong lúc
đang kinh hoàng vội vàng chạy đến chui vào tăng bào của Ngài để tìm chỗ ẩn
trốn. Những đứa nhỏ hơn vì chạy không kịp đến trễ thì vội đeo vào cánh tay
hay thiền trượng của Ngài. Bồ Tát Ðịa Tạng liền an ủi vỗ về chúng: “Không
có gì các con phải sợ hãi cả. Từ đây ta là Mẹ là Cha của các con.” Bọn quỉ
đã xúm lại đòi Bồ Tát Ðịa Tạng phải trao đám trẻ con lại cho chúng, nhưng
Ngài đã dùng uy lực của mình phóng ra những vầng hào quang rực rỡ khiến bọn
chúng đều khiếp sợ bỏ đi. Huyền thoại này của người Nhật đã mô tả lại những
nỗi khổ đau mà ngay cả một đứa trẻ nhỏ bé ngây thơ vô tội cũng phải gánh
chịu ở thế giới bên kia và chỉ có Bồ Tát Ðịa Tạng là người duy nhất đã cứu
vớt những linh hồn bé nhỏ đó.
Người ta không biết nguồn gốc của huyền thoại về giòng sông Nại
hà được phát xuất từ đâu. Có thể là bắt nguồn từ truyện Thập Ðiện Diêm Vương
trong các cuốn kinh Ngọc Lịch Minh Kinh của người Trung Hoa, xuất hiện vào
khoảng thế kỷ thứ Tám, nói rõ chi tiết cuộc hành trình về bên kia cỏi chết
mà mỗi người phải trải qua. Theo niềm tin của người Trung Hoa thì trong tuần
lễ thứ hai của giai đoạn thân trung ấm, mỗi linh hồn đều phải vượt qua giòng
sông Nại hà này. Có ba cách để đi qua sông. Người nhiều công đức thì thong
dong đi qua cầu. Kẻ ít công đức hơn thì được phép lội qua ở chỗ cạn. Kẻ không
có chút công đức nào lại mang nhiều tội ác thì phải lội qua con sông với
giòng cuồng lưu chảy xiết đầy sóng to gió lớn. Ða số đều bị chết đuối. Những
người vượt thoát qua được giòng sông Nại hà đều lần lượt tùy theo tội ác
nặng nhẹ sẽ được Thập Ðiện Diêm vương phân xử, kết án và tống vào các cửa
ngục. Ðến cửa ngục thứ mười tức là cửa ngục cuối cùng, cũng là nơi mà tội
nhân phải gánh chịu những hình phạt nặng nề nhất, Bồ Tát Ðịa Tạng xuất hiện
xin với Diêm Vương cho tội nhân được giảm khinh. Bởi vì các vua Diêm Vương
đều kính nễ Bồ Tát Ðịa Tạng, thế nên nếu chỉ cần tìm ra một điểm tốt nhỏ
nhất của tội nhân, vua Diêm Vương cũng nễ lời Bồ Tát Ðịa Tạng sẵn sàng cho
họ được hưởng án giảm khinh.
Chính vì tin tưởng vào giòng sông Nại hà này cũng như vào Bồ
Tát Ðịa Tạng mà người Nhật Bản trong hàng thế kỷ qua đã xây dựng lên rất
nhiều đền đài, lăng tẩm để thờ phượng Ngài dọc theo các bờ sông hay các ghềnh
đá bên cạnh bờ biển, mà một địa điểm nổi tiếng là “Sai (Nại hà) no kawara
of Numa no Uchi” được xây dựng từ thời Edo (Uế Thổ). Tại đây những người
cha mẹ đau khổ vì mất con đã đến sắp xếp những mộ tháp bằng đá cuội, hoặc
đặt vào đó những viên đá nhằm tưởng niệm những đứa con đã qua đời trước bức
tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng. Có nơi người ta sắp xếp hàng trăm bức tượng nhỏ
khuôn mặt của Bồ Tát Ðịa Tạng cùng với đồ chơi trẻ con xen kẻ bên cạnh những
hòn đá tưởng niệm. Lâu ngày, những mộ tháp càng lớn dần lên do những người
tin tưởng đến viếng thăm bỏ thêm vào những viên đá, không phải chỉ để tưởng
nhớ đến những đứa con thân yêu của mình mà cho cả những linh hồn của những
trẻ thơ bất hạnh đã đi qua cõi đời này kể cả những trẻ đã chết ngay từ lúc
chưa sinh.
Bồ Tát Ðịa Tạng, như đã nói ở trên, không phải chỉ là vị Bồ Tát
bảo vệ trẻ con mà theo truyền thuyết của Nhật Bản, đặc biệt là dưới thời
đại Hean, đã xuất hiện dưới hình dạng của một đứa trẻ. Triều đại Hean có
thể được coi như là một triều đại đen tối trong lịch sử Nhật bản. Chiến tranh,
xã hội rối loạn, tai ương và dịch bệnh lan tràn khắp nơi tạo nên bao thảm
cảnh đau thương khốn khổ cho mọi người. Những tín đồ Phật tử thuần thành
tin rằng đây là giai đoạn mạt pháp đã đến và trước những thảm cảnh này, may
ra chỉ có những năng lực thần linh mới có thể cứu vãn được. Thế là người
ta dốc lòng tin tưởng vào năng lực cứu độ của Bồ Tát Ðịa Tạng, và câu chuyện
đã được truyền tụng như sau:
Dưới triều đại của Hoàng đế Go-Ichido, bệnh đậu mùa bộc phát
và lan tràn nhanh chóng. Lưỡi hái của tử thần đã cuốn đi không biết bao nhiêu
là sinh mạng. Nó không chừa bỏ bất cứ ai, bất kể quan hay dân, người qúy
tộc hay kẻ bần hàn. Trước nỗi khổ đau lớn lao này của nhân sinh, với lòng
từ bi vô lượng, một nhà sư tên Ninko không biết làm cách gì khác hơn là cầu
nguyện đến sự giúp đỡ của Bồ Tát Ðịa Tạng. Ðêm đó trong giấc mơ nhà sư Ninko
trông thấy một đứa trẻ với khuôn mặt thanh tú xuất hiện, nói với ngài: “Nay
thì nhà ngươi đã thấy rõ sự vô thường của kiếp sống”. “Vâng, những người
tôi vừa mới gặp mới nói chuyện với họ hồi sáng đây, tối lại đã mất rồi. Ngay
cả chúng ta đang hạnh phúc hôm nay nhưng ngày mai những khổ đau, thương tâm
sẽ xảy đến. Không có gì là vĩnh cửu”, sư Ninko trả lời.
Ðứa trẻ mĩm cười: “Không có gì để phải than trách trước những
đau thương của kiếp sống. Có lúc nào mà con người lại không có những khổ
đau? Nếu một người muốn giải thoát khỏi những nỗi khổ đau, họ nên nghe theo
những lời dạy của Bồ Tát Ðịa Tạng”.
Sư Ninko tỉnh giấc và vội vàng chạy đến tìm Kojo, nhà điêu khắc
tượng nổi tiếng ở địa phương và nhờ ông ta đúc một pho tượng Bồ Tát Ðịa Tạng.
Khi bức tượng hoàn thành, sư Ninko tổ chức một buổi lễ khánh thành và thuyết
giảng một thời pháp về giáo lý và công năng của Bồ Tát Ðịa Tạng. Tăng chúng
và quần chúng Phật tử hoàn toàn chuyển động bởi thời pháp này và hết lòng
quy ngưỡng vào Bồ Tát Ðịa Tạng. Tất cả những người có mặt tại ngôi chùa,
và tất cả những ai đến tham dự buổi lễ khánh thành này đều thoát qua khỏi
kiếp nạn đậu mùa. Những kẻ kiêu hảnh, không tin tưởng đều bị cuốn đi trong
cơn dịch bệnh này. Bệnh đậu mùa cũng đã chấm dứt không lâu sau đó, nhưng
cư dân do lòng tin tưởng vì được cứu thoát trong tai ương vừa qua vẫn tiếp
tục tôn sùng và thờ phượng Bồ Tát Ðịa Tạng.
Một câu chuyện nổi tiếng khác kể lại nỗi bất hạnh của một đứa
trẻ lâm vào tình trạng mẹ ghẻ con chồng:
Nếu như trong kho tàng truyện cổ của Việt Nam, ta có chuyện Phạm
Công - Cúc Hoa với bà kế mẫu Tào Thị như là một khuôn mẫu điễn hình của những
bà mẹ ghẻ độc ác nhất ở trên thế gian này thì Nhật Bản cũng có một câu chuyện
tương tự như thế nhưng được lồng trong bối cảnh hành hoạt của vị Bồ Tát chuyên
cứu độ những trẻ thơ bất hạnh, Ðịa Tạng. Truyện kể rằng khoảng một ngàn năm
trước đây, tại một ngôi làng nhỏ tên là Anwa có một người phụ nữ rất hiền
lương mộ đạo, hết lòng sùng kính Bồ Tát Ðịa Tạng. Vì nhà nghèo cho nên bà
luôn luôn ao ước và vẫn thường cầu nguyện làm sao có được một pho tượng Bồ
Tát Ðịa Tạng để thờ phượng ở trong nhà. Một ngày nọ, trong khi đang giặt
dủ ở giòng sông trước mặt nhà, bà nhặt được một pho tượng Ðịa Tạng bằng gỗ
trôi tấp vào chỗ mình đang đứng. Xiết đổi vui mừng, bà vội vàng mang pho
tượng về nhà và từ đó ngày hai buổi sớm tối công phu thờ lạy Ngài rất nghiêm
chỉnh. Vì chưa có con thế nên mỗi lần cúng lạy bà cũng không quên khấn vái
cùng với Bồ Tát Ðịa Tạng giúp cho bà có một đứa con trai. Không bao lâu quả
nhiên bà thọ thai và sanh được một đứa con trai. Nhưng bất hạnh thay, khi
đứa bé tròn bốn tuổi thì người mẹ lâm bạo bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu
sau đó thì người cha tục huyền với một người đàn bà khác. Bà này là một người
rất hung dữ và độc ác và đứa con chồng thường xuyên là nạn nhân cho những
cơn thịnh nộ của bà kế mẫu hung ác này.
Ðứa bé ngay từ hồi nhỏ do đã chịu ảnh hưởng của mẹ trong việc
thờ cúng Bồ Tát Ðịa Tạng, cho nên khi mẹ mất đi cũng không hề quên và xao
lảng nghi lễ này, tuy nhiên do sợ bà mẹ ghẻ đánh chữi, nó đã phải làm trong
âm thầm lén lút. Một hôm trong khi người cha có việc phải rời khỏi nhà đi
ra tỉnh, nhân lúc bà mẹ ghẻ đang ngủ trưa, đứa bé vào bếp kiếm được một ít
cơm nguội vội vàng đem dâng cúng lên bàn thờ của Bồ Tát Ðịa Tạng và mẹ mình.
Quỳ trước bàn thờ, lòng nhớ thương mẹ không nguôi đã làm đứa bé bật khóc
lên nức nở. Tiếng khóc của đứa trẻ làm bà mẹ ghẻ tỉnh giấc và khi trông
thấy đứa trẻ đang cúng lạy mẹ nó, bà liền nổi cơn thịnh nộ và trong khi điên
tiết lên vì giận dữ, bà đã túm lấy nó quẳng vào nồi cháo heo đang sôi sùng
sục trên bếp lửa.
Trong lúc này người cha đang đi đường bỗng dưng cảm thấy lòng
dạ bồn chồn nóng lên như lửa đốt khiến ông không thể cất bước được nữa và
như có điều gì thúc dục buộc ông phải quay trở về nhà. Ðến đầu làng, ông
bỗng gặp một nhà sư cõng một đứa bé ở sau lưng đang than khóc thảm thiết,
tiếng khóc nghe rất quen thuộc. Không nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng khóc của
chính con ông! Tuy vậy người cha vì chưa thấy mặt nên còn bán tín bán nghi
hỏi nhà sư: “Thầy ơi, đứa trẻ nào đang khóc vậy?” Nhà sư trả lời: “Ta đã
đổi mạng ta cho đứa trẻ này khi người mẹ ghẻ của nó đang tìm cách giết nó.
Ngươi hãy tìm kẻ nào đáng tin cậy để nuôi dưỡng và giáo dục đứa bé này.”
Nói xong nhà sư trao đứa bé vào tay của người cha đang kinh hoàng run rẩy.
Mang ơn nhà sư, người cha vội hỏi “Thưa Thầy, Thầy đang trú trì ở chùa nào?”
Nhà sư trả lời “Ta ở gần đền thờ vua Thập Ðiện”, xong biến mất. Sau khi đem
con gởi nhờ ở nhà ông bà nội, người cha quay trở về nhà và thấy bà vợ đang
ra sức đun củi vào bếp, trên đó là một nồi nước đậy nắp đang sôi. Thấy chồng
xuất hiện bất ngờ, bà ta có vẻ bối rối và tìm cách dập tắt ngọn lửa. Anh
ta liền hỏi vợ: “Thằng con tôi đâu rồi sao không thấy?” Bà vợ gian hùng lúc
này bèn giả bộ đau thương, sụt sùi kể lể : “Thấy không có ông ở nhà, thằng
nhỏ bỏ chạy ra chơi ở cạnh bờ sông không may sẩy chân rớt xuống sông, nước
cuốn mất xác rồi.” Người chồng không nói gì vội tiến đến cạnh nồi nước và
mở nắp ra. Nổi ở trên mặt nồi cháo heo đang sôi sùng sục là pho tượng của
Bồ Tát Ðịa Tạng, pho tượng ở trên bàn thờ mà người vợ trước của ông đã thờ
cúng hằng ngày! Bây giờ thì anh ta mới hiểu hết ý nghĩa lời của nhà sư nói
“Ta đã đổi mạng ta” và biết rằng nhà sư mà ông vừa mới gặp không ai khác
hơn chính là Bồ Tát Ðịa Tạng đã hóa hiện ra để cứu con mình. Chán nản trước
tình đời, cảm động trước sự linh ứng nhiệm mầu của Bồ Tát Ðịa Tạng, người
đàn ông xuống tóc đi tu và trở thành một nhà sư suốt đời tận tụy thờ phượng
Bồ Tát Ðịa Tạng.
3- Bồ Tát Ðịa Tạng: Vì Hạnh Phúc Của Trẻ Thơ!
Tháng Bảy là tháng của Bồ Tát Ðịa Tạng. Truyền thống Phật giáo
Trung Hoa và Việt Nam đã chọn ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan và theo
niềm tin tưởng của Phật tử Á Ðông, đây cũng là ngày “Xá Tội Vong Nhân” ‘
tức là ngày các vua Diêm vương mở cửa ngục cho các hồn ma được thong thả
rong chơi, hoặc những hồn ma đói khát có cơ hội được đi kiếm ăn sau một năm
trời bị dày vò thiêu đốt bởi đói khát trong địa ngục. Trong khi đó Phật giáo
Nhật Bản chọn ngày 24 tháng Bảy AÂm lịch là ngày vía của Bồ Tát Ðịa Tạng
và cũng là ngày lễ hội truyền thống của trẻ thơ. Ðây là ngày hội dành cho
trẻ em dưới mười ba tuổi cùng với những người lớn cùng tham dự để bày tỏ
lòng biết ơn đến Bồ Tát Ðịa Tạng, cũng như nhắc nhở đến sứ mệnh thiêng liêng
của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người.
Theo thông lệ, sáng ngày 24 một cái rạp được dựng lên trước
đền thờ hay bức tượng của Bồ tát Ðịa Tạng. Nếu là một nơi dân cư đông đúc,
ngôi nhà gần nhất cạnh đó sẽ được tăng cường thêm để có đủ chỗ cho lễ hội.
Trong ngày này, bàn thờ và tôn tượng của Bồ Tát được lau chùi sạch sẽ, sau
đó người ta quấn những lá cờ hai màu đỏ trắng chung quanh tôn tượng của Ngài.
Trước mỗi nhà, người ta treo những lồng đèn màu đỏ trên đó ghi giòng họ của
mỗi gia đình. Những lồng đèn này sẽ được thắp sáng vào buổi tối tạo nên một
màu hồng lung linh huyền ảo trong suốt các ngả đường trong đêm lễ hội.
Từ sáng sớm tinh mơ, dân chúng địa phương mang hoa quả, trà
bánh, và nhang đèn đến để cúng lễ Bồ tát Ðịa Tạng. Sau đó trẻ con tụ hội
và vui chơi ăn uống suốt ngày. Tối đến người ta tham dự những cuộc đốt
pháo và ăn dưa hấu. Cha mẹ và trẻ con trong những bộ y phục kimono sặc sỡ
cổ truyền cùng tham dự vui chơi và đây cũng là dịp giao tế làm nẩy nở tình
thân giữa bà con xóm giềng ở trong vùng. Lễ hội “Jizo (Ðịa Tạng) bon” này
cũng là dịp mà con trẻ tận hưởng những ngày hè tươi đẹp cuối cùng vì sau
đó chúng bắt đầu trở lại trường học.
Tuy là một ngày hội dành cho thiếu nhi vui chơi nhưng Phật tử
Nhật Bản đã biến dịp này thành một ngày lễ hội thắm đượm ý nghĩa tích cực
của tôn giáo. Ðây là một tập tục rất hay mà người Phật tử Việt Nam không
thể không học tập. Ta đã có sẵn ngày Tết Nhi Ðồng -tức là lễ Trung Thu- nhưng
từ trước đến nay đây chỉ là ngày để cho trẻ con vui chơi thuần túy. Nhưng
đâu có phải bất cứ trẻ thơ nào trên cõi đời này cũng có những diễm phúc được
vui chơi như thế? Trong xã hội chúng ta, và trên thế giới này vẫn còn rất
nhiều những trẻ thơ thiếu ăn thiếu mặc, sống lăn lóc ở đầu đường xó chợ,
suốt đời không hề được diễm phúc cắp sách đến trường. Có không biết bao nhiêu
những trẻ thơ bị hành hạ, sách nhiễu (child abuse) đến thương tật hay mất
mạng. Có những bé gái bất hạnh bị cha mẹ bán tiết trinh hay xô đẩy vào chốn
lầu xanh để kiếm chút tiền nhỏ sống qua ngày. Và còn biết bao nhiêu thân
phận của trẻ thơ bị vùi dập trong những cuộc chiến tang thương. Thế nên ngày
Tết Trung Thu đối với người Phật tử Việt Nam, đặc biệt đối với những tổ chức
thanh thiếu niên Phật tử, nên là ngày giáo dục cho trẻ thơ tinh thần Ðịa
Tạng, nghĩa là dạy cho trẻ con tinh thần vị tha biết yêu thương, đùm bọc
và chia xẻ, nhờ vậy khi lớn lên, hiểu được ý nghĩa của yêu thương, chúng
sẽ không thể nào trở thành những người gieo rắc tai ương cho xã hội.
Chăm lo cho hạnh phúc của trẻ thơ chưa đủ, người Phật tử mang
tinh thần Ðịa Tạng, mang sứ mệnh Ðịa Tạng còn phải biết cách chăm lo cho
những linh hồn những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc
vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ. Một
trong những cách chăm lo tích cực nhất là ngăn ngừa tình trạng phá thai vì
phá thai cũng là một tệ trạng xã hội. Ðể ngăn ngừa tình trạng nhân mãn,
trên thế giới -đặc biệt là tại Trung quốc và Việt Nam- hàng năm đã có đến
hàng triệu sinh mạng đã bị bóp chết ngay từ khi còn là một cái bào thai.
Thế nhưng, đạo đức Phật giáo quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Trong dịp viếng thăm AÂu Châu hồi gần đây của Ðức Ðạt Lai Lạt
Ma, khi tiếp xúc với những nhà trí thức phương Tây, một số nhà khoa học Pháp
đã nêu lên câu hỏi: “Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm
nào trong quá trình thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt mầm
tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?”
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã trả lời rằng:
- “Phật giáo quan niệm rằng ý thức xâm nhập vào sinh vật ngay
từ phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi
như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống
như việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải là
một việc làm chánh đáng. (8)
Quan niệm này đã được Ngài khẳng định lại một lần nữa khi người
ta nêu lên câu hỏi về vấn đề kiểm soát dân số:
Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh
sản và Ngài có ý kiến gì về việc phá thai?
Ngài đã trả lời như sau: “Ðể trả lời cho câu hỏi này tôi thường
giải thích theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời sống của
tất cả mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người,
đều rất qúy giá. Nếu nhìn vấn đề như thế thì tất cả mọi hình thứckiểm soát
sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên những sinh mạng qúy giá đó
nay đã đạt đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta không thể không khẩn
thiết kêu gọi mọi người phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh sản một cách
nghiêm túc, vì đó là phương cách duy nhất để hạn chế tình trạngï gia tăng
dân số. Như tôi đã từng đề cập, khi mà tài nguyên của trái đất đang khô kiệt
dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh sản một cách bất bạo động.
Còn phá thai là một chuyện khác, đó là một hành động sát nhân.
Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rõ rằng ta không được giết hại con người,
cho dù đó là một bào thai. (9)
Trong tinh thần đó, cái chết của một bào thai vẫn được xem như
là cái chết của một con người và cần có những nghi lễ xứng đáng. Ðối với
những người đã chết, Phật giáo chúng ta có nghi thức cầu siêu, nhưng nghi
thức cầu siêu chưa nói lên hết ý nghĩa đặc biệt của những người chết trẻ,
là đối tượng đặc biệt quan tâm của Bồ Tát Ðịa Tạng theo truyền thống Phật
giáo Nhật Bản. Ðể tưởng niệm những trẻ thơ chết khi còn ở trong bụng mẹ (sẩy
thai, phá thai,...) hoặc chỉ trải qua một vài năm ngắn ngủi của đời người,
Phật giáo Nhật Bản có nghi lễ tôn thờ Ðịa Tạng Mizuko (Ấu Thủy) -mà hình
tượng là một nhà sư bồng một đứa trẻ ở trên tay và một hoặc hai đứa trẻ đang
quấn quít dưới chân Ngài- vốn rất phổ thông trong đại chúng. Theo niềm tin
tưởng từ lâu đời, người Nhật cho rằng mọi sinh vật đều được sinh ra từ lòng
biển cả, kể cả đảo quốc và cư dân của đất Phù Tang, Ấu Thủy (Mizuko) vì thế
được dùng để diễn tả phôi bào của những sinh vật đang trôi nổi bình bồng
trong một thế giới đầy nước, chờ đợi được sinh ra đời. Trước thế kỷ thứ
20, tỉ lệ tử suất của trẻ con ở Nhật Bản ở một mức độ rất cao, có không đến
50% trẻ em sống sót đến 5 - 7 tuổi. Tuy nhiên đây không phải là lý do chính
để người Nhật tạo ra biểu tượng Ðịa Tạng Mizuko mà truyền thống nghi lễ này
chỉ mới hình thành trong khoảng thập niên 1960, khi dân Nhật trãi qua một
thời kỳ khó khăn về kinh tế, hậu quả của Ðệ Nhị Thế Chiến. Trong điều kiện
này, chính phủ Nhật Bản khuyến khích mỗi gia đình lý tưởng chỉ nên có hai
con và phá thai vì thế là một trong những biện pháp được sử dụng hợp pháp
để đạt đến chỉ tiêu này.
Nghi lễ tưởng niệm trẻ thơ phối hợp với tín ngưỡng tôn thờ Bồ
Tát Ðịa Tạng của truyền thống Phật giáo Nhật Bản đã được Ni sư Jan Chozen
Bays Roshi (10) du nhập vào Hoa Kỳ, canh cải theo một mô thức thích hợp với
con người, thời đại và quốc độ rất đáng được cho chúng ta lưu ý. Là một Bác
sĩ Nhi Khoa, thọ Tỳ kheo giới năm 1979 theo một dòng Thiền Nhật Bản, Ni sư
Chozen là một nữ tăng sĩ tiên phong người Hoa Kỳ mang tinh thần Ðịa Tạng
thể nhập vào cuộc sống đời thường, áp dụng vào lãnh vực bảo vệ và chăm sóc
các trẻ em bị sách nhiễu (child abuse) tại Portland, bang Oregon (HK) trong
suốt hai mươi lăm năm qua, đồng thời với tư cách là một Tu viện trưởng một
Trung tâm Thiền học, Bà đã tổ chức những buổi lễ tưởng niệm cho thân nhân
những người mất mát con em của họ theo một nghi thức mà những người ngoài
Phật giáo cũng có thể tham dự được, theo một kiểu mẫu và trình tự như sau:
a- Ðịa Ðiểm
Ðịa điểm hành lễ là những khuôn viên có thờ tôn tượng của Bồ
Tát Ðịa Tạng, nơi mà hình tượng của Ngài cũng như các vật tưởng niệm được
bảo quản không bị hư hại bởi bất cứ thời tiết nào và là nơi mà sau này thân
nhân có thể dễ dàng đến thăm viếng và tỉnh tọa để tưởng nhớ đến con em mình.
b- Những Người Tham Dự
Nghi lễ chỉ dành cho thân quyến và những Phật tử tham dự buổi
lễ. Không chấp nhận phóng viên ngoại trừ họ là Phật tử và tham dự buổi lễ
từ đầu chí cuối. Tính cách tế nhị, riêng tư của người tham dự được tuyệt
đối tôn trọng và do đó không cho phép chụp hình.
c- Chủ Trì Buổi Lễ
Vì đây là lễ tang -hay là lễ tưởng niệm- theo truyền thống Phật
giáo, ít nhất phải có một Tăng sĩ Phật giáo -tốt nhất là có hai vị- chủ trì
buổi lễ. Vị tăng sĩ chủ trì này nên là người có kinh nghiệm và được huấn
luyện để có thể thích nghi với những buổi lễ đông đảo tang quyến của nhiều
gia đình khác nhau cùng tham dự.
d- Chuẩn Bị Cho Buổi Lễ
Nên có một phòng riêng để cho tang quyến chuẩn bị những gì cần
thiết trước cho buổi lễ, nơi mà thân nhân có thể an ủi lẫn nhau cũng như
hoàn tất những phẩm vật tưởng niệm. Ðây cũng là nơi mà người tham dự có thể
nghỉ ngơi, dùng trà, cà phê... sau buổi lễ.
e- Giới Thiệu Nghi Lễ
Người trách nhiệm tổ chức cũng nên thông báo một vài chi tiết
ngắn gọn về những gì sẽ xảy ra trong buổi lễ, kể cả những yêu cầu chung mà
những người tham dự nên chấp hành. Tốt hơn hết là chương trình về buổi lễ
nên được in sẵn và phát ra cho tất cả những người tham dự. Sự tích của Bồ
Tát Ðịa Tạng và ý nghĩa của buổi lễ cũng nên được giới thiệu trong chương
trình nghi lễ này.
NGHI THỨC TIẾN HÀNH TƯỞNG NIỆM
a- Vị Chủ Lễ:
Luật nhân quả không ngừng diễn tiến
Thực tại xuất hiện dưới mọi dạng thể hình
Nếu như bất cứ ai hiểu rõ định luật này
Sẽ tự giải phóng mình ra khỏi mọi khổ đau.
Tất cả chúng sanh xuất hiện trên thế gian này, vốn từ Nhất Thể
Rồi sẽ đi qua cõi đời này trong một vài giây phút hay tháng năm
ngắn ngủi
Ðể trở về lại Bản Thể Uyên Nguyên từ lúc chưa sinh
Cuộc đời chúng ta chỉ là những đợt sóng cồn
Trong đại dương của Bản Thể Chân Như
Vốn không sanh và không diệt
Hôm nay chúng ta tụ hội cùng nhau ở đây để tưởng niệm đến những
con em của chúng ta vừa mới qua đời cũng như để bày tỏ và chia xẻ niềm yêu
thương và hỗ trợ đến cha mẹ, thân quyến và bằng hữu của tất cả tang quyến.
Tất Cả Cùng Ðọc:
- Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (1 lần);
- Kinh Từ Bi (1 lần);
- Chú Ðịa Tạng: OM. HA-HA-HA-VIS-MA-YE. SVA-HA (9 lần)
Vị Chủ Lễ:
Bản Thể Chân Như bàng bạc khắp tận cùng Vũ trụ
Ðang hiện hữu cùng chúng ta tại đây, ngay tại phút giây này.
Bằng cách tụng đọc Tâm Kinh, Từ Bi Kinh và Ðịa Tạng Thần Chú
chúng ta dâng lời nguyện cầu đến:
(Tên và pháp danh những trẻ em vừa qua đời)
Cùng tất cả pháp giới chúng sanh trong lục đạo luân hồi
Cầu cho ánh sáng của đạo mầu xuyên qua bóng tối của vô minh
Cầu cho mọi nghiệp lực bị xóa tan để đóa tâm hoa bừng nở trong
mùa Xuân vĩnh cữu
Cầu cho tất cả chúng ta cùng nhau tu tập, đạo quả viên thành
Tất Cả Cùng Ðọc:
- NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRÚ TAM BẢO.
- NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MAÂU NI PHẬT.
- NAM MÔ THANH TỊNH ÐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT MA HA TÁT.
- NAM MÔ ÐẠI NGUYỆN ÐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT.
Chấm Dứt Buổi Lễ.
OM. HA-HA-HA-VIS-MA-YE. SVA-HA.
Tâm Hà Lê Công Ða
(*) Một phần nội dung của bài viết được rút ra từ tác phẩm: “Jizo
Bodhisattva, Modern Healing & Traditional Buddhist Practice”, Jan Chozens
Bays, Tutle Publishing, 2002.
CHÚ THÍCH:
(1) Thiền sư Taigu Ryokan (1758-1831) là một nhà thơ nổi tiếng
rất được yêu thích trong văn học Nhật Bản. Ông cũng là một nhà sư nghèo nổi
tiếng, sống đạm bạc trong một túp lều tại một vùng quê đầy tuyết phủ. Hàng
ngày đi vào làng khất thực, đám trẻ con trong làng thường chạy theo ông và
ông cũng đùa giỡn, chơi trò vật lộn với chúng một cách hồn nhiên. Bài thơ
sau đây đã mô tả một khung cảnh như thế:
“Trời xanh cao và nắng chói chang
Với chiếc áo màu xanh thắm tươi, tạo vật đón chào ngày Xuân mới
Ôm chiếc bình bát trên tay tôi thả bộ vào làng
Ðám trẻ đang chơi đùa trước cổng chùa dừng tay nhìn tôi mời
gọi
Tôi đứng lại cởi chiếc túi vải treo lên cành cây
Ðặt chiếc bình bát trên mỏm hòn đá trắng
Chuyến khất thực của tôi chấm dứt tại đây
Khi dừng lại và thay phiên nhau chơi trò ném banh với chúng
Khách qua đường dừng chân, cười, chỉ chỏ :
“Sao lại chơi đùa như con nít thế kia!”
Tôi im lặng cúi đầu chào họ
Bởi giải thích đâu chắc gì có ai đã hiểu
Rằng chẳng có gì ngoài phút giây đang hiện hữu này đây.”
Tất cả những thư họa, vật dụng... của nhà thơ nay còn được lưu
giữ tại Bảo tàng viện Ryokan, tại Izumozaki.
(2) Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Mười Hai, “Thấy Nghe
Ðược Lợi Ích”, Bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh.
(3) Xem “Jizo Bodhisattva, Modern Healing & Traditional
Buddhist Practice”, Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002. P. 95.
(4) Tam Giai Giáo do Ðại sư Tín Hành (540-594) khai sáng với
hoài bảo đem Phật pháp để truyền bá sâu rộng trong dân gian, phù hợp với
thời cơ và quốc độ. Gọi là Tam Giai Giáo vì ngài Tín Hành đem giáo pháp của
đạo Phật chia làm ba bậc: Nhất thừa, Tam thừa và Phả pháp. Ba bậc này tương
ứng với ba thời là Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Nay chúng sinh đang
ở trong thời Mạt pháp, phải nương nhờ vào “Phả pháp giáo” để tu hành mới
có thể thoát vòng sinh tử.
(5) Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Tám, “Các Vua Diêm La
Khen Ngợi”, Bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh.
(6) Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Sáu, “Như Lai Tán Thán”,
Bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh.
(7) Xem “Jizo Bodhisattva, Modern Healing & Traditional
Buddhist Practice”, Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002. P. 73.
(8) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama. Rupa & Co., 1996.
P. 11.
(9) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama .Rupa & Co., 1996.
P. 43.
(10) Ni sư Jan Chozen Bays Roshi tốt nghiệp Ðại học Y Khoa San
Diego, CA, 1972, hiện là Tu viện trưởng Larch Mountain Zen Center, Portland,
Oregon.
--o0o--