|
- TỪ 16 VỊ LA HÁN DIỄN BIẾN THÀNH 18 VỊ
- Thích
Phước Sơn
- --- o0o ---
-
-
Sự tích 16 vị La Hán
được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A La Hán
Nan Đề Mật Đa La trước thuật và tam tạng Pháp sư Huyền Trang
(600-664) dịch ra chữ Hán.
Ngài Nan Đề Mật Đa La (cò có tên là Khánh Hữu) người
Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp
Trụ Ký thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật
thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ
mệnh của 16 vị La Hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông
và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ
mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm
lợi lạc quần sanh. Mỗi khi các tự viện tổ?hức lễ hội khánh
thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các Ngài cùng với quyền
thuộc thường vận dụng thần thông đến để chứng minh, tham dự,
nhưng chúng ta không thể nào thấy được. Hiện nay tuổi thọ trung
bình của loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này - theo Pháp Trụ Ký
- sẽ giảm dần còn 10 tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp giảm.
Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng, tuổi thọ con người từ 10 tuổi
tăng dần đến 70000 tuổi, bấy giờ các Ngài sẽ chấm dứt nhiệm vụ
và nhập Niết bàn. (Bởi vì khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi
thì đức Phật Di Lạc sẽ ra đời).
- Danh tánh và trú xứ
của các Ngài như sau:
- 1. Tân Đâu Lô
Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000
vị A La Hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu.
- 2. Ca Nặc Ca
Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A La
Hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La.
- 3. Ca Nặc Ca
Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị
A La Hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu.
- 4. Tô Tân Đà
(S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A La Hán, phần lớn
cư trú tại Bắc Cu Lô châu.
- 5. Nặc Cự La
(S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A La Hán phần lớn cư trú
tại Nam Thiệm Bộ châu.
- 6. Bạt Đa La
(S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A La Hán, phần lớn cư
trú tại Đam Một La châu.
- 7. Ca Lý Ca
(S: Kàilika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A La Hán, phần lớn
cư trú tại Tăng Già Trà châu.
- 8. Phạt Xà La
Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A La
Hán , phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu.
- 9. Thú Bát Ca
(S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A La Hán, phần lớn
cư trú tại trong núi Hương Túy.
- 10. Bán Thác
Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A La Hán cư
trú tại cõi trời 33. 11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này
cùng với 1100 vị A La Hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù
châu.
- 12. Ma Già Tê
Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A La Hán, phần
lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.
- 13. Nhân Yết
Đà ( S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần
lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp. 14. Phạt Na Bà Tư (S:
Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A La Hán, phần lớn cư trú
tại trong núi Khả Trụ.
- 15. A Thị Đa
(S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A La Hán, phần lớn
cư trú tại trong núi Thứu Phong.
- 16. Chú Trà
Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A
La Hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục.
- Sau khi Pháp
Trụ ký được dịch sang chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn
là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A La Hán. Tương
truyền, nhân Thiền sư nằm mơ cảm ứng thấy được hình ảnh của các
Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này ngày nay người ta còn tìm
thấy tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật đọng tại Đôn Hoàng thuộc
tỉnh Cam Túc trung Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ
Pháp Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La
Hán.
- VÌ SAO 16 VỊ
LA HÁN TRỞ THÀNH 18 VỊ ?
- Từ khi có
hình ảnh 16 vị La Hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các
Ngài, và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17
và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả
đầu tiên của con số 18 này). Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên dịch
nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La (tên phiên âm từ chữ
Phạn), người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu Lô
chính là Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xa2, vị La Hán thứ nhất trong 16
vị. Do khômg am tường kinh điển và không hiểu tiếng Phạn mà
thành lầm lẫn như thế. Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào
Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài
văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La Hán . Rồi họa sĩ
Trương Huyền lại dựa vào 18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc
tượng 18 vị La Hán, nhưng lại thay hai vị 17 và 18 bằng tôn giả
Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Do thế mà từ con số 16 lần hồi trở
thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như
Việt Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công
nhận, con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng,
tại Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Đa La, Bố
Đại Hòa Thượng, hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long, Phục Hổ, hoặc
thêm Ma da Phu nhân, Di Lặc để thành ra 18 vị.
- NGOÀI RA CÒN
CÓ HAI SỰ TÍCH KHÁC NÓI VỀ 18 VỊ LA HÁN.
- 1. Sự tích
thứ nhất được kể trong tập sách viết bằng chữ hán của thầy Giao
thọ Hoằng
- Khai, trụ trì
chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851). Theo
sách này thì nước Triệu có nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất
chí thành mộ đạo, nàng chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà.
Năm 15 tuổi, nàng ăn một đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6
năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan
Âm hóa độ và thọ ký đe73 họ trở thành 18 vị La Hán.
- Nội dung sự
tích này khá lý thú, tương đối có giá trị về mặt văn chương,
nhưng cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật, Khổng, Lão nên ít
có giá trị về mặt lịch sử.
- 2. Sự tích
thứ hai: tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 ttên tướng
cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh , nương
theo Phật pháp tu hành và đắc quả A La Hán.
- Sự tích này
tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách huyền thoại, do đó
ít được người ta chấp nhận.
- (Xem: Phật
Quang Đại Tư Điển, tr.359, 394, 4791, 6787; Phật học Đại Tư
Điển, tr. 2844-2845; Pháp Trụ Ký, Hán tạng tập 49 tr.12;Phật Tổ
Thống Kỷ, quyển 33, Hán tạng tập 49, tr. 319; Phật Thuyết Di Lặc
Hạ Sanh Kinh, Hán tạng tập 14, tr.421 - )
- --o0o--
|
|