Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị Đại
sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà bất cứ đệ tử nào của đức
Phật cũng đều hướng tâm kính lễ, cầu nguyện Ngài, tại sao Bồ Tát Quan Âm
đạt được quả đức như vậy?
Đức Phật nhắc đến công đức của Quan Âm rất nhiều, nhưng có thể
nói ba bộ Kinh: Bát Nhã, Đại Bi và Pháp Hoa gồm đủ nhân, hạnh, quả, đức của
Quan Âm. Kinh Bát Nhã nói về nhân địa tu hành, Kinh Đại Bi nói về sự cứu
độ và Kinh Pháp Hoa chỉ rõ năng lực bất tư nghìcủa Ngài.
Từ thuở nhỏ, tôi có niềm tin mãnh liệt với Bồ Tát Quan Âm. Khi
xuất gia được phước duyên hậu cần cố HòaThượng Thiện Hoa. Tôi thấy sáng nào
Ngài cũng tụng Đại Bi, Phổ Môn và kết thúc Bát Nhã.
Hòa Thượng dạy tôi rằng tụng như vậy nhằm tin nhân hạnh của Quan
Âm, để lập hạnh tu nhân theo Ngài. Nhờ lời dạy đó, tôi suy nghĩ và thực hành
pháp tu giống vậy, và đạt được nhiều kết quả mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn.
Nhưng nếu tu sai chúng ta chỉ cung kính, van xin, nhưng tâm niệm,
hành động ác độc, chắc chắn không được Ngài che chở, còn chuốc lấy quả báo
cũng không lường được. Tu nhân giống Quan Âm, có hạnh đồng với Ngài, dù không
cầu, Ngài cũng gia bị. Điều này dễ hiểu, như thực tế. Tôi tu Pháp Hoa,người
nào phát tâm tu Pháp Hoa, có tâm nguyện, ý chí hành đạo như tôi, tôi sẵn
lòng giúp đỡ ngay, không đợi họ cầu xin.
Nhân địa tu hành của Quan Thế Âm thể hiện rõ nét qua kinh Bát
Nhã, thu gọn lại là Bát Nhã tâm kinh. Kinh dạy rằng: Bồ Tát Quan Âm quán
chiếu ngũ uẩn giai không, tức phá ý thức chấp hữu của ngũ uẩn, không cố chấp,
nhưng tùy duyên hóa độ, không phải phá bỏ tất cả. Có người tu thường ưa lý
luận ngũ uẩn giai không, đến khi có vấn đề là họ sân si không ai bằng. "Không"
của họ chỉ là không trên đầu môi chót lưỡi, tâm còn đầy rẫy phiền não. Tu
như vậy Quan Âm không cứu được. Quan Âm chỉ đến với ta tong lúc vô tâm, thí
dụ như khi tâm của Đường Huyền Trang hoàn toàn lắng yên, đồng với đức Quan
Âm, thì Ngài xuất hiện, trao cho tích trượng và y Như Lai, để vững tiến và
thoát được tai ách trên đường thỉnh kinh. Vô tâm mới được Phật, Bồ Tát giúp
đỡ, còn tham cầu chỉ tương ứng với ma quỷ, bị chúng nhiếp trì, lạc vào đường
tà, tội lỗi.
Từ quán chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, đó là
khởi đầu và cũng là chung cuộc của Bát Nhã, thấy ngũ uẩn không, rời chấp
trước, tâm lắng yên, trí tuệ phát sanh là Bát Nhã. Như vậy, Quan Âm khởi
tu Tâm kinh và chứng Bát Nhã đó là nhân hạnh của Ngài. Ngày nay, chúng ta
muốn tu nhân hạnh của Quan Âm, tất yếu phải thực hiện pháp đó trước tiên.
Chúng ta dùng vô số phương tiện như tụng kinh, lễ sám, niệm Phật, trì chú,
nghe pháp, tham thiền... để trụ tâm. Tâm đứng yên thì huệ phát sanh, dùng
trí tuệ ấy quán sát trần thế, thấy rõ khổ vui của từng người, thấy được ngũ
uẩn luôn biến động, không thực.
Từ đó, dưới mắt người tu, cuộc đời không khác gì cái sân khấu
lớn, ta là diễn viên đang đóng từng vai khác nhau trong mỗi kiếp, nhưng chơn
tâm vẫn một màu thanh tịnh. Đạt đến đỉnh cao ấy, chứng đắc đại Bát Nhã, thấy
được con người thực từ chân lý xuất hiện trên cuộc đời và từ cuộc đời trở
về Tịch Quang chơn cảnh. Đó là dấu vết đi về của Bồ Tát Quan Âm, chúng ta
lần theo đó sẽ gặp Ngài, nói khác, chúng ta nhập đạo qua cửa Bát Nhã, tâm
định tĩnh, trí tuệ phát sanh. Tùy theo trí tuệ lớn hay nhỏ, mà từng bước,
ta thấy được Quan Âm khác nhau, không đạt được kết quả này, công phu tu tập
chỉ là dã tràng xe cát.
Từ Bát Nhã Tâm kinh, chúng ta tiến tu, gặp Bồ Tát Quan Âm tỏa
sáng tâm đại bi.Ngài có lòng thương người bao la, nhất là người đau khổ,
hoạn nạn, hễ khóc than, kêu cứu là Ngài đến liền, nghĩa là tấm chân tình
của chúng ta đạt đến cao độ, truyền đến tâm từ của Ngài. Bồ Tát nhận được
tín hiệu khổ đau ấy, tức khắc xuất hiện giúp đỡ, từ đó, chúng ta có thêm
hạnh đức của Quan Âm trong kinh Đại Bi. Lẽ sống của Bồ Tát Quan Âm được kết
hợp bằng trí tuệ và từ bi. Mà không có mãnh đất nào tốt để Ngài gieo trồng
hạnh đức bi trí cho bằng cõi Ta bà, nơi phức tạp nhất, phiền lu?hất, khổ
đau nhất, với đầy đủ loại hình chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh
phiền não. Trên tinh thần ấy, một trong 12 lời nguyện của Quan Âm là trụ
Ta Bà u minh giới, tầm thinh cứu khổ nguyện. Vì tâm đại bi, Quan Âm đến Ta
Bà, tìm người khổ đau cứu vớt và ta cũng cứu người, nên đồng hạnh với Ngài,
chúng ta sẽ gặp Ngài ngay. Ta cứu người, Quan Âm cứu ta.
Khi hạnh nguyện phần nào giống Quan Âm, chúng ta được sống gần
Ngài, đồng hành với Ngài, chúng ta quan sát xem Ngài làm gì để tập làm theo.
Năng lực bất tư nghì của Quan Âm. được Phật dạy rõ trong phẩm Phổ Môn, kinh
Pháp Hoa.
Trọn Phổ Môn thị hiện, nổi bật tinh thần vị tha vô ngã của Bồ Tát Quan Âm.
Nơi nào cần cứu, Ngài xuất hiện giúp đỡ, không vì quyền lợi riêng, nhưng
vì quyền lợi số đông. Học hạnh Phổ Môn của Quan Âm chúng ta chỉ đến đáp ứng
yêu cầu cho người không đến nhờ vả.
Trên tinh thần vô ngã, Bồ Tát Quan Âm thị hiện tùy lúc tùy chỗ, tùy yêu cầu
dưới nhiều dạng hình khác nhau, thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng, kinh ghi là
33 ứng hiện thân. Về điểm này, nhiều người thường lầm tưởng rằng Quan Âm
từ trong hư không hiện ra ở một chỗ nào đó để cứu chúng ta và rủ nhau đến
đó cầu nguyện, cúng dường. Điều đó không đúng với chánh pháp. Chúng ta không
cần tìm chỗ có Quan Âm hiện, vì chúng ta biết rõ Ngài hiện được tất cả mọi
nơi. Tuy nhiên, người có niềm tin, lòng thành, mới thấy Ngài. Giáo sư Suzuki
cụ thể hóa bằng ví dụ đài truyền hình tải âm thanh và hình ảnh khắp nơi,
nhưng chỗ nào có máy tivi, mới bắt được hình ảnh, âm thanh, và nhiều khi
máy còn bị nhiễu sóng, phải có antenne, hình mới rõ.
Niềm tin, lòng thành ví như máy truyền hình là điều kiện để Quan
Âm hiện. Chúng ta thấy rõ Ngài hay không, còn tuỳ ở sự chi phối của nghiệp
lực, ví như máy bị nhiểu sóng nhiều, ít. Vì vậy, có người thấy Phật, Bồ Tát
lờ mờ hay có lúc thấy, lúc không. Trên bước đường tu, hạn chế nhiễu sóng,
tức hạn chế nghiệp của chúng ta, tâm lắng yên, phiền não ít, mới có thể diện
kiến Phật, Bồ Tát . Người nhiều tham vọng, lắm phiền muộn, khó bước vào thế
giới thánh thiện. Hạn chế tính toán phiền não, để tâm hồn thanh thản và thân
thể khoẻ mạnh, cầu nguyện nhất định kết quả. Khi cơ thể khoẻ âm hồn trong
sáng, giống như máy tốt, có thể tiếp nhận lực Quan Âm. Lực Ngài truyền vô
thân người nào , người đó biến thành Quan Âm.
Nếu là người nữ có tánh hiền hậu, hay giúp đỡ kẻ hoạn nạn, người
đó được coi là hiện thân của Quan Âm. Trên thực tế có Ỷ Lan thứ phi hết lòng
chăm sóc, thương yêu dân nên được dân Việt Nam tôn sùng là Phật Bà Quan Âm.
Nếu người đó là vị tu hành, có tình thương rộng lớn, che chở giáo dưỡng người
như cố HòaThượng Khánh Hòa, Hòa Thượng Trí Thủ... người ta nghĩ các vị này
là Bồ Tát Quan Âm hiện thân Tỳ kheo. Nói chung, năng lực bất tư nghì của
Bồ Tát Quan Âm được cụ thể hóa thành 32 ứng hiện thân (cộng thêm một thân
chính của Ngài là 33), từ hiện thân Phật cho đến thân bình thường nhất trên
cuộc đời, như thân trẻ con. Một ông Vua nhân từ, một thầy thuốc cứu người,
một bà phi giỏi, dịu hiền, một nông dân chất phác, một ông quan thanh liêm,
một dũng sĩ can thiệp những chuyện bất công, một anh công nhân hiền lành
tốt bụng, một người giàu có hay làm việc nghĩa... đều là Quan Âm. Tất cả
nhữn hình ảnh tốt lành, đạo đức, tài giỏi đều gợi cho người nghĩ đến hạnh
Quan Âm. Ta không tìm Ngài trong hư không, nhưng tìm trong hạnh của những
người tu.
Người có tâm niệm từ bi, việc làm giúp đời như Quan Âm thì Quan
Âm hiện hữu nơi họ. Hội đủ điều kiện để tiếp nhận gia trì lực của Ngài không
đơn giản và giữ cho lực Quan Âm tồn tại trong ta lâu dài lạ càng khó hơn.
Vì vậy, đánh mất lực gia bị của Quan Âm thì lại rất dễ, chỉ một niệm tâm
vọng tưởng điên đảo khởi lên, tất cả những gì siêu tuyệt của ta tức thì tan
thành mây khói, chẳng khác gì cúp điện, hình chẳng thể có được.
Tóm lại, kỹ niệm ngày vía Bồ Tát Quan Âm, chúng ta cung kính
đảnh lễ Ngài, lưu giữ hình ảnh thánh thiện Ngài trong tâm ta, thể hiện thành
lời nói vui đẹp lòng người và việc làm mang an lạc, giải thoát cho người.
--o0o--