Trong tháng 7 âm lịch, đạo Phật
không chỉ có ngày đại lễ "Vu lan" mà còn có lễ tiết lớn khác, đó là ngày
"Địa tạng Bồ Tát thành đạo" vào ngày 30-7.
Ngày lễ này thường được gọi chung là "Địa Tạng Vương Bồ TÁt Tiết
Nhật". Theo kinh Phật, đức địa tạng Bồ Tát đã đản sinh sau khi đức Thích
Ca nhập Niết bàn và trước khi đức Di Lặc giáng thế. Hai từ "Địa Tạng" : "Địa"
nghĩa là "đất", "Tạng" còn đọc là "tàng" nghĩa là " cất giấu, ẩn chứa", Phật
hiệu của đức Bồ Tát hàm ý ví ngài với đại địa bao la, nơi ẩn chứa vô vàn
thiện căn. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là hiện thân của sự cứu khổ, Ngài được
đức Thích Ca uỷ cho trọng trách "Giáo hóa lục đạo chúng sinh" để muôn loài
khỏi rơi vào chốn trầm luân khổ hải và cử làm "U Minh giáo chủ", cai quản
âm gian , Ngài đã nguyện trước Phật Tổ : "Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma,
quyết không thành Phật!". Do đó, Ngài thường xuất hiện ở chốn nhân gian và
nơi âm giới để tìm phương cách tế độ chúng sinh, không chịu an hưởng ở nơi
Cực Lạc thế giới, dù rằng với công đức vô lượng của Ngài, Ngài đã được đức
Phật Tổ ban cho Phật hiệu.
Cũng theo sách Phật, đức Địa Tạng Bồ Tát từng giáng sinh tại
nước Tân La (nay là Triều Tiên) vào năm thứ 4 thời Hiếu Chiếu vương trị vì
(năm 695 Tây lịch) là con em của vương thất nước này. Như các sách "Cửu Hoa
sơn chí", "Thần Tăng truyện"...đã chép, đức Địa Tạng Bồ Tát họ Kim, tên là
Kiều Giác, Ngài thông minh đỉnh ngộ, lòng dạ thiện lương ngay từ khi còn
tấm bé, năm lên 5 tuổi Ngài đã thích đi chùa lễ Phật và rất mộ đạo. Năm Ngài
25 tuổi, Ngài có một học vấn cao, trí tuệ siêu phàm, được mọi người yêu quí,
nể vì, đường công danh rộng mở trước mắt, nhưng Ngài không màng tới , quyết
xin cha mẹ cho được xuất gia, tu hành tại nơi cửa Phật. Do một lòng tu tập,
đạo học của Ngài rất mau tịnh tiến, được sư trụ trì và các sư thầy vô cùng
yêu mến, nhưng Ngài không cho như thế là đủ, vẫn miệt mài học tập, sách không
mấy khi rời tay. Vào năm thứ 28 đời vua Thánh Đức nước Tân La (729 Tây lịch),
một hôm, Ngài tình cờ nghe thấy mấy thương nhân vào chùa lễ Phật, nói với
Đại sư trụ trì, ta5i bên nước Trung Hoa từng có một vị Hòa thượng là Đường
Tam Tạng,vượt bao gian hiểm sang Thiên Trúc thỉnh về rất nhiều kinh Phật
và dịch ra chữ Hán, nhờ đó mà đạo Phật ở nước này rất hưng vượng, Ngài bèn
tha thiết cầu xin Đại sư trụ trì cho được rời chùa, vượt biển sang Trung
Hoa để tu học, nghiên cứu kinh Phật.
Ngài lìa nước triều tiên, trãi qua vô vàn sóng gió nguy hiểm,
tới nước Trung Hoa vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730 Tây lịch) đời Đường Minh
Hoàng (tức Đường Huyền Tông). Tại Trung Hoa, Ngài nghe đồn ở huyện Thanh
Dương, tỉnh An Huy có ngọn Cửu Hỏa Sơn, cảnh sắc rất đẹp, nổi tiếng với những
truyền thuyết về Phật giáo, bèn tìm tới, quả nhiên thấy đúng như lời thiên
hạ đồn đại; lại thấy ở ngõ Cửu Hoa, dưới ngọn Phù Dung phong thuộc núi Cửu
Hoa có một tòa cổ am, tương truyền do một nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ)
là Hoà thượng Bôi Độ xây dựng lên vào năm Long An thứ 5 nhà Đông Tấn (401
Tây lịch) để tu hành, hiện vị lão tăng trụ trì ở am này vừa mới viên tịch,
am còn bỏ trống, Ngài liền đến xin quan huyện Thanh Dương cho được cư ngụ
tại am ấy để tu hành. Tại am này, Ngài chịu đói chịu lạnh, đọc và nghiền
ngẫm kinh Phật,đạo học của Ngài tinh tiến vượt bậc, Ngài trở thành nhà sư
rất uyên bác về Phật học, danh tiếng vang dội khắp cõi Trung Nguyên, được
nhiều tín đồ mến mộ, tìm tới nghe Ngài giảng kinh.
Năm Chí Đức thứ 2 đời Đường Túc Tông (757 Tây lịch), một vị thân
sĩ giàu có ở huyện Thanh Dương là Gia Cát Tiết, vì mến mộ Ngài, đã bỏ tiền
của ra xây dựng chùa. Năm Kiến Trung thứ 2 đời Đường Đức Tông (781 Tây lịch),
viên thái thú Trì Châu là Trương Nham Hậu, thấy Ngài đạo hạnh cao sâu, đem
lòng cảm mến, lại thấy khách thập phương đổ tới hành hương ngày một thêm
đông, mà chùa thì nhỏ không đủ cho khách lui tới, bèn dâng sớ về triều đình
cho dùng công quĩ để xây dựng lại chùa cho to, đẹp hơn. Chùa xây dựng xong,
vô cùng to rô5ng, đẹp đẽ. Quan thái thú họ Trương lại xin Ngài đặt tên mới
cho chùa. Ngài dựa vào một điển cố trong kinh Pháp Hoa: "Một hôm, đức Thích
Ca cùng một đệ tử đi truyền đạo, trên đường bỗng bị núi cao chắn lối. Bấy
giờ, người đệ tử đang bị đói lả, ý muốn quay về, đức Thích Ca thấy vậy, bèn
chỉ tay về phía trước nói: "Ở kia có một toà thành, chúng ta có thể tới đó
hóa trai"; đặt tên chùa là "Hoá Thành" và tên này được dùng mãi tới ngày
nay.
Từ khi lên ngôi đại tự Hóa Thành xây dựng xong, song song với
bề thế to lớn, nguy nga của ngôi chùa, số lượng khách thâp phương càng thêm
đông đảo,ngôi chùa trở thành một trong bốn danh thắng lớn của Trung Hoa thời
ấy.
Năm Trinh Nguyên thứ 10 đời Đường Đức Tông (794 Tây lịch), Ngài
đã 99 tuổi, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào, tinh thần minh mẫn. Một hôm, đang
ngồi thiền định, Ngài bổng mơ hồ nghe thấy có tiếng vời gọi thiêng liêng
từ cõi xa thẳm vọng tới Nam đài ở phía Nam núi Cửu Hoa, nói cho hay rồi vui
vẽ dặn dò hậu sự, truyền y bát, tích trượng cho ngườ kế tục, đoạn bảo đệ
tử đặt vào một cái chum lớn,ngồi ung dung mà viên tịch. Ba năm sau,theo lời
dặn của Ngài, các đệ tử-trước sự chứng kiến của rất đông thiện nam, tín nữ-
đã khui mở nắp chum để rước nhục thân Ngài ra nhập tháp. khi nắp chum mở
ra, nhục thân của Ngài rất mềm, sắc diện vẫn tươi như sống, thoang thoảng
mùi thơm, không hề hư rữa. Lúc các đệ tử nhấc nhục thân Ngài ra khỏi chum,
các khớp xương Ngài vẫn không cứng lại, chuyển động nghe phát ra tiếng kêu
"rổn rảng" tựa chuỗi xích vàng rung chuyển. Căn cứ vào điều đã ghi chép trong
kinh Phật, mọi người đều hiểu rằng, sau khi đức Thích Ca viên tịch 1500 năm,
đây là hiện tượng "Bồ Tát chuyển thể", bèn rước nhục thân của Ngài vào tháp.Ngọn
tháp tàng giữ nhục thân Ngài là một ngọn tháp bằng đá ba tầng, cất trên "kim
địa". Đêm ấy, đúng vào giờ tý, tháp bỗng tỏa hào quang, sáng rực một vùng,
người dân thời ấy gọi là "viên quang" (ánh sáng của sự viên mãn), còn các
Tăng, Ni thì gọi đó là "thần quang thể", (ánh sáng thần kì, màu sắc rực rỡ).
Vì vậy, khu Nam Đài (không rõ vì sao gọi là "Tây đài") được gọi là "Thần
Quang Linh", ngọn tháp đó được gọi lá "Nhục Thân bảo tháp".
Năm Trinh Nguyên thứ 13, đời Đường Đức Tông (797 Tây lịch) sau
khi nhục thân của đức Bồ Tát giáng thế được nhập tháp đá, hoàng đế Đức Tông,
do cảm mếnđức sáng của Ngài, đã đích thân ban chiếu truyềnxuất công quĩ,
xây trùm lên "Nhục Thân bảo tháp" một ngôi điện, đặt tên là "nhục Thân bảo
diện". Kể từ đó "Nhục Thân bảo điện" được các triều đại kế tiếp nhau tu sữa
nhiều lần. Đặc biệt trong hai triều Minh, Thanh, "Nhục Thân bảo điện" đã
được tu sữa và xây dựng với một quy mô lớn hơn nhiều. Vào khoảng những năm
Vạn Lịch đời Minh (1573-1619 Tây lịch), triều đình đã cấp kinh phí cho xây
dựng lại "Nhục Thân bảo điện" thật nguy nga, tráng lệ và ban danh hiệu "Hộ
Quốc Nhục Thân bảo điện". Năm Hàm Phong thứ 7 triều Thanh (1857 Tây lịch),
tòa điện này vì nằm trong vùng giao tranh ác liệt giữa quân nhà Mãn Thanh
và nghỉa quân Thái Bình Thiên Quốc, đã bị tàn phá nặng nề.Phải đến những
năm thuộc niên hiệu Đông Trị nhà Thanh (1862-1874) mới được triều đình cho
trùng tu lại, đây là tòa "Nhục Thân bảo điện" hiện có.
Tòa đại điện nổi danh này nằm trong cảnh giới của ngôi cổ tự
"Hoá Thành", toạ lạc giữa một vùng núi non hùng vĩ của "Thần Quang Lĩnh"
thuộc rặng "Cứu Hỏa Sơn" là một trong bốn đại danh thắng của Phật giáo Trung
Hoa nói riêng và của đất nước Trung hoa nói chung, gồm: Cửu Hoa Sơn, Ngũ
Đài Sơn, Nga Mi sơn và Phổ Đà sơn. Để lên tới "Nhục thân bảo điện" phải vượt
qua 84 bậc thềm đá từ thấp lên cao ở trước điện, dọc theo hai bên các bậc
thềm đá có đóng cọc sắt, giăng dây xích sắt để bảo vệ khách lên điện và giúp
khách có chỗ vịnh tay.
Tòa "Nhục Thân bảo điện" toạ lạc trên một mặt bằng vuông vức,
mỗi cạnh dài 15m, điện cao 18m. Đỉnh điện lợp ngói đúc bă2ng sắt. Các hành
lang ở quanh điện được chống đỡ bởi 24 cây cột đá, tăng thêm vẻ uy nghi cho
tòa đại điện. các lường đỡ những đầu cao hình cánh phượng cong vút lên của
mái điện và các cột kèo...của điện đều được chạm, khắc, vẽ hình các hoa văn
thật tinh xảo, sơn son thiếp vàng hoặc tô màu rất là lộng lẫy. Ở cửa trước
của điện có treo một tấm biển lớn bằmg sứ màu xanh, nổi bật 4 chữ Hán đại
tự : "Nhục Thân Bảo Điện". Tại bên hồi lang của điện có treo một tấm biển
màu nhủ, khắc 5 chữ lớn :"Đông Nam Đệ Nhất Sơn". Cửa sau của đuện cũng treo
một tấm biển giống y tấm biển treo ở trước điện. Bên trong tòa "Nhục Thân
bảo điện" được lát bằng đá bạch ngọc. Chính giữa điện là ngọn tháp gỗ đặt
trên nền cũng là đá bạch ngọc, tháp gỗ nà gồm có 7 tầng, tháp cao 17m, hình
bát giác. Mặt ngoài của tháp gỗ, mỗi tầng 8 mặt đều có khám thờ, trong khám
có tượng đức Địa Tạng Bồ Tát thếp kim nhũ trông rất sống động. Bên trong
các tầng tháp gỗ đều có ghép bộ "Địa Tạng Bản Nguyện kính" bằng mực kim nhũ
, nét chữ vô cùng tinh luyện. Tại tầng dưới cùng của ngọn tháp gỗ là ngọn
tháp đá 3 tầng,nơi đặt nhục thân của đửc Bồ Tát giáng thế Kim Kiều Giác,
ở mặt chính của tháp đá có treo một ngọn đèn lưu ly hình bát giác chạm trỗ
rất tinh mĩ, vốn là một cổ vật hiếm có. Ngoài ra, bên trong "Nhục Thân bảo
điện" còn trưng bày rất nhiều bảo vật quí giá, do các vua chúa nhiều đời
ban tặng như: "Si Long kim ẩn" đúc vào đời Đường, niên hiệu Chí Đức, do Đường
Túc Tông ban tặng; "Long ẩn" đúc vào niên hiệu Vạn Lịch, do Minh Thần Tông
ban tặng v.v...và rất nhiều cổ vật được đặt chế bằng vàng, ngọc, đá quí,
đồng...cùng các cổ bản kinh sách.
Ở bên ngoài "Nhục Thân bảo điện" còn có nhiều công trình kiến
trúc phụ như: các dãy Tăng phòng, khách phòng, thiền phòng và các phòng "Triển
lãm văn vật" ...Tại phía sau điện có một tòa "dao đài" bằng đá, hình bán
nguyệt, trên đài đặt 3 cái đỉnh sắt rất lớn, chạm khẳc vô cùng khéo đẹp:
bên đài còn một toà "Cổ Hoa viên" nơi này được gọi là "Bố Kim Thắng địa",
tương truyền xưa kia vào các ngaỳ "Địa Tạng Bồ Tát đản sinh","Địa Tạng Bồ
Tát thành đạo", thiện nam, tín nữ thập phương thường tụ tập lại đây dâng
hương lễ Phật và cúng dường phẩm vật vô cùng tấp nập.
Theo sách "Địa Tạng Bồ Tát hành trạng', như đã phát lời nguyện
trước đức Phật Tổ, đức địa tạng Bồ Tát không ngừng hóa thân để cứu độ chúng
sinh, Ngài thân dư vạn biến , nhưng tâm bất biến, trong lòng không lúc nào
ngơi nghĩ tới khổ đau của chúng sinh.Hôm nay, trước 2 ngày lễ lớn kỷ niệm
ngày "đản sinh" và "thành đạo" của Ngài, hướng tưởng tới công đức vô lượng
của đấng Bồ Tát, chúng ta nguyện theo ý hướng của Ngài thiết tha làm lành
tránh dữ, trải rộng tấm lòng Bồ Tát Của Ngài rộng khắp muôn nơi, đó mới chính
là những
--o0o--