|
BỒ TÁT HẠNH
Lý Tưởng
Của Bồ-Tát
hay Bồ-Tát Đạo
Hòa Thượng Narada
Phạm Kim Khánh
dịch
--o0o--
Trong giáo lý
của Đức Phật, có ba phương cách, hay ba con đường để thành đạt tuệ
giác (bodhi). Người có chú nguyện đạt cho kỳ được mục tiêu phải --
tùy bản tánh mình chọn một trong ba đường ấy là:
Thinh Văn Giác
(Savaka Bodhi),
Độc Giác
(Pacceka Bodhi), và
Toàn Giác
(Samma Sambodhi).
1. Thinh Văn
Giác (Savaka Bodhi) là sự giác ngộ của một đệ tử, cũng được xem là
lý tưởng A-La-Hán hay A-La-Hán Đạo. Người có nguyện vọng đi theo
đường A-La-Hán thường phải đi tìm sự dẫn dắt của một đạo sư cao
thượng đã chứng ngộ đạo quả. Đối với người đệ tử có trình độ tinh
thần tiến bộ đầy đủ, chỉ một lời chỉ giáo đơn sơ của vị chơn sư
cũng có thể khai thông trí tuệ và đưa vào dòng thánh đạo. Như Đức
Xá-Lợi-Phất (Sariputta) chẳng hạn, chỉ nghe được nửa bài kệ của vị
A-La-Hán Assaji là đã đắc từng thánh đầu tiên. Bà Patacara trong
một cơn suy sụp tinh thần vì chồng, con, cha, mẹ và em bị tử nạn
thê thảm, được duyên lành đưa đến Đức Phật và đắc quả A-La-Hán
trong khi đi rửa chơn dưới bờ suối, bà nhìn những giọt nước từ
chơn gieo điểm xuống dòng. Kisagotami là một người phụ nữ khác,
tánh tình chơn chất, đến van nài Đức Phật cứu sống cho đứa con bà
vừa mới chết; cũng đắc quả thánh trong lúc quan sát ngọn đèn đang
lụn dần. Vị tỳ-khưu Cula Panthaka, không thể học thuộc một câu kệ
trong bốn tháng, cũng đắc quả A-La-Hán khi quán tưởng đến bản chất
vô thường của một cái khăn lau tay sạch.
Sau khi đã thành tựu nguyện vọng,
vị A-La-Hán giao trọn khoảng thời gian còn lại của đời mình để tế
độ những ai muốn tìm tịch tịnh, bằng gương lành và lời giáo huấn.
Trước tiên Ngài tự thanh lọc, và sau đó, cố gắng giúp người khác
gội rửa bợn nhơ, bằng cách giảng dạy giáo lý mà chính Ngài đã thực
hành. Một vị A-La-Hán có đủ tư cách để truyền dạy Giáo Pháp hơn
các vị đạo sư phàm tục thường, chưa chứng ngộ Chơn Lý, vì Ngài dạy
với kinh nghiệm bản thân.
Trong lý tưởng
cao quí của bực Thanh Văn, A-La-Hán không có chi là vị kỷ bởi vì
đạo quả A-La-Hán chỉ được thành đạt sau khi hành giả tuyệt trừ mọi
hình thức ngã chấp. ảo kiến về tự ngã và lòng vị kỷ là những dây
trói buộc mà người có chủ nguyện theo con đường A-La-Hán phải cắt
đứt cho kỳ được để tiến đến mục tiêu cứu cánh. Những bực thiện
tri, nam cũng như nữ, trong thời Đức Phật và về sau, đã được duyên
lành gặp cơ hội vàng son khai thông trí tuệ trong kiếp sống hiện
tiền.
2. Độc Giác
Phật (Pacceka Bodhi) là sự khai minh giác ngộ đơn độc của một
người tự lực cố gắng tiến đến đạo quả, không nhờ một ai dạy dỗ hay
giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác không
dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ bằng lối độc đơn giác ngộ được. Các
Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng.
Hơn nữa, chư
Phật Độc Giác chỉ ra đời giữa lúc không có Phật Pháp. Số Phật Độc
Giác không phải chỉ có một, trong một thời kỳ riêng biệt, như
trường hợp của bực Toàn-Giác (Samma Sambuddho), như Đức Phật
Gotama (Cồ Đàm), mặc dầu đã viên tịch lâu đời, nhưng bao giờ
Giáo-Pháp của Ngài còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ, thì
không thể có một vị Phật Độc Giác nào ra đời trên thế gian nầy.
Trong bài
Khaggavisana Sutta của Kinh Tập (Sutta Nipata) có những lời dạy
của chư Phật Độc Giác như sau:
Sống giữa chúng
sanh, hãy dẹp lại một bên, gươm đao và các loại khí giới. Không
gây tổn thương cho bất luận ai. Không làm cho ai phải xót đau vì
một đứa con hay một người bạn. Nhưng, hãy mạnh dạn tiến bước, như
chúa sơn lâm, đơn độc một mình.
Thân mật sanh trìu mến. Do trìu
mến có ưu phiền. Hãy nhận chơn niềm bất hạnh phát sanh do trìu mến
và, như chúa sơn lâm, hãy mạnh tiến, đơn độc một mình.
Chúng ta hãy
chắc chắn tán dương giá trị của tình bằng hữu. Hãy thân cận với
bực cao nhơn hoặc ngang bằng ta. Nếu không được vậy, hãy sống đời
trong sạch, không đáng bị khiển trách và như chúa sơn lâm, hãy đơn
độc mạnh tiến.
Khoái lạc vật
chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa êm dịu vừa ngọt ngào và
quyến rũ. Dưới đủ hình thức, dục lạc làm cho lòng người say đắm.
Hãy nhận chơn hiểm họa của nó và một mình, đơn độc, hãy vững tiến
như chúa sơn lâm.
Trong sương
tuyết lạnh lùng và nắng chan nóng bức, khi đói, lúc khát, nào gió,
nào mặt trời, nào muổi mòng, rắn rít. Hãy khắc phục tất cả và, như
chúa sơn lâm, một mình, đơn độc, hãy mạnh dạn vững bước.
Như loài hùm,
loài sư tử, không bị tiếng động làm giật mình run sợ. Như gió
thoảng qua, không dính mắc trong màn lưới. Như hoa sen, từ bùn nhơ
nước đụt, vượt lên, nhưng không vướng bợn nhơ của bùn của nước,
hãy mạnh dạn tiến bước, đơn độc một mình.
Rồi đúng lúc, đúng thời cơ, hãy
trau dồi tâm Từ, tâm Xả, tâm Bi, tâm Xuất Gia, tâm Hỉ và, không để
thế gian làm hư hỏng, hãy mạnh dạn, như chúa sơn lâm, đơn độc tiến
bước.
3. Toàn Giác
(Samma Sambodhi) là đỉnh giác ngộ tối cao của một bực đã hoàn toàn
tự tiến đến cực độ mở mang sáng suốt, vô lượng từ bi, thông suốt
mọi lẽ. Bực đã chứng đạo quả tối thượng siêu việt nầy gọi là Toàn
Giác Phật hay Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc Chánh Biến Tri. Phạn ngữ
"Samma Sambuddho" có nghĩa là người tự mình trở nên hoàn toàn giác
ngộ. Tự lực cố gắng, khai thông tuệ giác, không thầy chỉ dạy, các
Đấng Toàn Giác, sau khi chứng quả vô thượng bồ đề liền đem ra phổ
cập trong quần sanh, tận tụy hướng dẫn chư Thiên và nhơn loại đến
nơi hoàn toàn trong sạch, giải thoát khỏi vòng quanh vô tận của
định luật tử-sanh, sanh-tử. Toàn Giác Phật chỉ là đấng duy nhứt ra
đời trong một chu kỹ, như một đóa hoa duy nhứt được trổ sanh trên
một loại cây hi hữu.
Ai cố gắng tư
dưỡng tâm tính với chí nguyện đạt cho kỳ được đạo quả Chánh Giác,
người ấy được gọi là Bồ-Tát. Trong cõi trần thế dẫy đầy ngã chấp
và ích kỷ nầy, thử nghĩ có cái chi quí đẹp thanh cao bằng hy sinh
tất cả để trau dồi đời mình cho trong sạch, hầu mưu cầu hạnh phúc
cho tha nhơn?
Trong cuộc đi
bất định trong vòng luân hồi, những ai phát tâm muốn phục vụ thế
gian và tiến đến mức toàn thiện đều được hoàn toàn tự do đi theo
con đường Bồ-Tát, nhưng không có sự ép buộc, thúc đẩy tất cả mọi
người phải cố gắng thành đạt cho kỳ đưọc đạo quả Phật. Vả lại,
trên thực tế, đó là điều không thể làm được.
Cũng có lời phê
bình rằng Bồ-Tát Đạo là con đường có khuynh hướng đưa hành giả ra
khỏi nếp sống gò bó chật hẹp, bình thản, êm đềm và bất động của
những tu viện. Luận như vậy chỉ tỏ ra mình kém hiểu biết Giáo Pháp
thuần túy của Đức Phật.
Sách
Abhisamayalankara-Aloka, một tác phẩm Bắc Phạn (Sanskrit) và là
một án chú giải phê bình Kinh Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa (Prajna
Paramita) có ghi:
"Những vị đại
đệ tử (Sravakas) đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác (là Thinh
Văn-Giác, Sravaka; và Độc Giác, Pratyeka Buddha) trong khi còn và
sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt, vẫn còn tâm sợ sệt, bởi vì các Ngài
chưa đạt được Đại Bi và Trí Tuệ Cao Thượng (Uru karuna prajna
vaikalyena, Vô Thượng Bác-Nhã Đại Bi). Do sự chấm dứt sinh lực,
tạo nên bởi những năng lực trong quá khứ, các Ngài có thể đắc
Niết-Bàn. Tuy nhiên trong thực tế, (các vị Thánh tiểu thừa) chỉ
thành đạt cái gì mường tượng như Niết-Bàn, gọi là Niết-Bàn, giống
như ánh sáng bị dập tắt. Không còn trở lại tam giới nữa, nhưng sau
kiếp sống trần gian nầy, chư vị A-La-Hán sẽ tái sanh vào cõi thanh
tịnh nhứt trong cảnh giới hoàn toàn tinh khiết (anasravadhatu), ở
trong một trạng thái xuất thần nhập hóa, mơ mơ màng màng, bên
trong những cánh hoa sen (Padmaphutesu jayante). Sau đó, Đức Phật
A-Di-Đà (Amitabha) và các vị Phật khác giống như vừng thái dương,
sẽ đem các Ngài lên gội rửa cho trí tuệ được trong sáng (akilishta
nana). Từ đó chư vị A-La-Hán tận lực tiến đến Giác Ngộ Tối Thượng,
và mặc dầu đã đạt thành trạng thái giải thoát, các Ngài hoạt động
(trong thế gian hữu vi), cũng giống như các Ngài đi xuống địa
ngục. Rồi, tích trử dần dần những yếu tố cần thiết của đạo quả
Chánh Đẳng Chánh Giác, các Ngài trở thành đạo sư của tất cả chúng
sanh."
Trên đây là một
lý luận hết sức lạ lùng, xa hẳn tinh thần của Phật Giáo!
Ngưỡi ta còn
luận rằng quả A-La-Hán là vị ngã, ích kỷ, và khuyên mỗi người phải
cố gắng tu hành cho đến quả vị Phật, để cứu độ chúng sanh. Luận
như vậy cũng hữu lý, nhưng thử hỏi mục tiêu của Đức Phật là gì?
Phải chăng là dắt dẫn người khác đến đạo quả A-La-Hán và cứu vớt
họ? Nếu quả thật vậy, thì ta phải mặc nhiên kết luận rằng chính
Đức Phật nuôi dưỡng tinh thần ích kỷ nữa sao? Không thể được!
Trong ba con
đường, dĩ nhiên quả Phật là cao siêu hơn cả, nhưng không phải ai
ai cũng nhứt định thành Phật được tất cả, cũng như không phải mỗi
nhà khoa học đều được trở thành Einstein hay Newton. Nhưng, mỗi
khoa học gia đều có thể tùy khả năng của mình mà phục vụ nhơn
loại.
Danh từ Nam
Phạn (Pali) "Bodhisatta", Bồ-Tát, gồm hai phần. "Bodhi" là trí
tuệ, hay giác tuệ, và "Satta" là gia công để... hay chuyên chú
để... Vậy, Bodhisatta, Bồ-Tát, là người gia công, hay chuyên chú,
để thành đạt trí tuệ hay giác tuệ. Đúng ra, hình thức Bắc Phạn
(Sanskrit) của danh từ Bodhisatta phải là Bodishakta, nhưng thường
người ta dùng một danh từ phổ thông là Bodhisattva, "trí tuệ chúng
sanh", nghĩa là chúng sanh có nguyện vọng trở thành Phật. Danh từ
nầy thường dùng để chỉ bất luận ai, cố gắng thành đạt tuệ giác,
nhưng theo đúng nghĩa của nó, Bodhisatva là người có lập lời chú
nguyện đi theo con đường Chánh Đẳng Chánh Giác và đã có được thọ
ký.
Hiểu theo một
lối, tất cả mọi chúng sanh đều có khả năng thành Phật, bởi vì đạo
quả Phật không phải là một đặc ân dành riêng cho hạng người tốt số
nào.
Người Phật tử
không tin rằng bên trong tất cả mọi người đều có một điểm linh
quang, được thần linh phú cho, mà ta cần phải trau dồi để trở
thành Phật. Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một Thần Linh Tạo
Hóa hay một tha lực bí ẩn nào có thể đạt cái điểm linh quang ấy
vào bên trong ta. Tuy nhiên, người Phật tử thấu hiểu và tin tưởng
vào những khả năng cố hữu và năng lực sáng tạo của con người.
Phật Giáo cũng
phủ nhận một linh hồn trường cửu chuyển sinh mãi mãi, từ kiếp này
sanh kiếp sống khác và, mãi mãi thâu nhận kinh nghiệm. Thay vì một
linh hồn bất biến, cái được gọi là tinh hoa của con người, Phật
Giáo chủ trương có một luồng sinh lực luôn luôn cuộn chảy, không
ngừng đổi thay. Chỉ có tiến trình diễn biến là đồng nhứt, trước
cũng như sau.
Thái tử
Sĩ-Đạt-Đa (Siddhattha) là một người. Nhờ ý chí dũng mãnh, trí tuệ
cao siêu và từ bi vô lượng, thái tử đắc quả Phật, trạng thái toàn
thiện đến mức cùng tột, và Ngài đã vạch ra cho nhơn loại con đường
duy nhứt dẫn đến nơi chí thiện ấy. Một đặc điểm của Phật Giáo là
bất luận ai cũng có thể có nguyện vọng chính mình trở nên chí
thiện, nếu kiên trì và cố gắng đúng mức. Đức Phật không bao giờ
dành độc quyền thành Phật. Mọi người đều có khả năng thành đạt,
nhưng quả Phật phải được thành tựu bằng chí lực, bằng tinh tấn của
chính mình chớ không phải nhờ sự hổ trợ nào từ bên ngoài. Đức Phật
không bao giờ lên án, gọi ai là tội lỗi đáng thương hại, phải mãi
mãi ở trong khổ cảnh. Thay vì làm nản lòng hay tạo mặc cảm tự ti
cho tín đồ và giữ riêng cho mình đạo quả Phật, Đức Phật vạch ra
con đường và khuyến khích tất cả những ai hoan hỉ lắng tai nghe,
theo dấu chơn Ngài để làm được như Ngài, thành đạt quả Vô Thượng,
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ-Tát không
nhứt thiết phải là Phật Tử. Trong hiện tại ta có thể gặp nhiều vị
Bồ-Tát đầy lòng từ bi, bác ái, mặc dầu có thể các Ngài không hay
biết gì về lời chủ nguyện thành Phật của mình. Các vị ấy có thể ở
trong hàng Phật tử, cũng có thể không.
Ba hạng Bồ-Tát
Theo Phật Giáo,
có ba hạng Bồ-Tát là:
Trí Tuệ Bồ-Tát
(Pannadhika),
Tín Đức Bồ-Tát
(Saddhadhika) và
Tinh Tấn Bồ-Tát
(Viriyadhika).
Ba hạng trên
đây tuần tự tương đương với ba hạng du-dà (yoga) trong Ấn-Độ-Giáo:
Nana yogi, Bhakti yogi, và Karina yogi.
1. Trí Tuệ
Bồ-Tát ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng mạnh dạn hơn
trên đường tinh tấn phát triển minh tuệ giải thoát. Tín Đức Bồ-Tát
giàu lòng sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng mà ít chú trọng
về việc trau dồi tâm trí và bồi đắp công đức vị tha. Tinh Tấn
Bồ-Tát thì tập trung năng lực vào tinh thần phục vụ. Thật hi hữu,
nếu là không bao giờ, ba đặc điểm trên điều hòa kết tụ vào một
người. Đức Phật Cồ-Đàm (Gotama) được xem là thuộc về hạng trí tuệ.
Theo kinh sách, con đường của bực
Trí Tuệ Bồ-Đát ngắn nhứt. Tín Đức Bồ-Tát phải trải qua một thời
gian dài hơn và Tinh Tấn Bồ-Tát, còn dài hơn nữa.
Trí Tuệ Bồ-Tát
chú trọng phát triển trí tuệ và thực hành thiền định nhiều hơn là
nhiệt thành với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các
Ngài luôn tuôn đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp nhận
điều gì một cách mù quáng. Không tự bó tay qui hàng một lý thuyết
nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ kinh, hay một
cá nhơn nào. Trí Tuệ Bồ-Tát thích trầm tĩnh yên lặng để trau dồi
thiền định. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch ấy Ngài rải những tư tưởng an
lành tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại
sự hổ trợ tinh thần cho nhơn loại đau khổ.
2. Tín Đức
Bồ-Tát đặt trọn niềm tin tưởng nơi hiệu lực của tâm thành. Saddha
hay niềm tin chơn thành là đặc điểm chánh yếu của Ngài. Cùng với
saddha (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung tín,
Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả hình thức cụ thể về lễ bái, thờ
phượng bụt tượng, là sở trường của Tín Đức Bồ-Tát. Tượng Phật là
một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài.
Nên hiểu rằng
người Phật tử không sùng bái pho tượng vì chính cái pho tượng bằng
đồng hay bằng gỗ ấy. Người Phật tử bày tỏ lòng tôn kính tinh thần
cao cả mà pho tượng tượng trưng, và suy niệm về phẩm hạnh và ơn
đức của Đức Từ Tôn. Càng suy tưởng đến Đức Phật, càng kỉnh mộ
Ngài. Đó là lý do tại sao Phật Giáo không khi nào phủ nhận các
hình thức ngưỡng mộ bề ngoài (amisa puja) mặc dầu các qui tắc thực
hành (patipatti puja) đáng được khuyến khích hơn và chắc chắn là
bổ ích hơn. Vả lại để đi đến những kết quả thỏa đáng, đôi khi trí
thức khô khan cũng cần được hưởng chút hương vị của Bhakti (đức
tin). Cũng như Bhakti (đức tin) quá đáng, lắm lúc cũng phải nhờ
trí tuệ kềm hảm để khỏi phải sa vào cuồng tín.
3. Tinh Tấn
Bồ-Tát thì luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có gì
làm cho vị Tinh Tấn Bồ-Tát hoan hỉ bằng tích cực phục vụ. Đối với
Ngài, "làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm việc". Không tích
cực hoạt động thì các Ngài không có hạnh phúc. Như đức vua
Sanghabodhi xứ Lanka nói: "Ta mang tấm thân bằng máu và thịt nầy
là để đem lại tốt đẹp và hạnh phúc cho thế gian."
Bồ-Tát không
chỉ sống riêng cho mình mà còn sống cho kẻ khác nữa. Tinh thần
phục vụ vị tha là đức tánh căn bản của tất cả chư vị Bồ-Tát.
Luôn luôn hoạt
động, luôn luôn làm việc, không ngừng, không biết mệt, không chán,
không phải làm việc như người nô lệ, mà như một chủ nhơn. Các Ngài
không ham muốn, không bám víu vào danh thơm tiếng tốt. Các Ngài
chỉ chú trọng đến việc làm, đến sự phục vụ. Ai biết, ai không biết
mình làm gì, điều ấy không quan trọng. Chẳng màng được khen, không
sợ bị chê, Bồ-Tát thản nhiên trước lời tán dương hay khiển trách.
Bồ-Tát quên
mình trong khi phục vụ kẻ khác, có khi hi sinh đến cả mạng sống để
cứu khỏi chết chúng sanh khác, những người bạn đồng hành trên bước
đường dài dẳng của vòng luân hồi.
Muốn quên mình
để hiến thân cứu mạng cho một chúng sanh khác, Bồ-Tát phải hành
tâm Bi (Karunà) và tâm Từ (Metta) đến mức đặc biệt cao độ. Bồ-Tát
ước mong sự tốt đẹp và an lành của thế gian. Ngài thương tất cả
chúng sanh như một bà từ mẫu thương đứa con duy nhứt của bà.
Bồ-Tát hòa mình với tất cả mọi người và rất hoan hỉ xem tất cả mọi
người như anh, như chị. Thương yêu tất cả như mẹ, như cha, như
bạn, như thầy.
"Tâm Bi của
Bồ-Tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác
(para atma samata) và cũng đặt mình trong kẻ khác (para atma
parivartana)." Trong khi thực hành như vậy Bồ-Tát mất dần ý niệm
về cái "Ta" và không còn thấy sự khác biệt giữa Ngài và người
khác. Ngài tự đồng hóa với tất cả, lấy tốt trả xấu, thiện trả ác,
lành trả dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những người chủ tâm hại mình,
bởi vì Bồ-Tát hiểu rằng "lực lượng của người dẫn đạo là pháp
nhẫn."
"Bị nhục mạ,
nhưng không nhục mạ; bị đánh đập nhưng không đánh đập; bị làm
phiền nhưng không gây phiền não. Bồ-Tát một mực giữ đức khoan
hồng. Tựa hồ như đất mẹ trầm lặng, Bồ-Tát âm thầm chịu đựng tất cả
những lỗi lầm của kẻ khác."
Trích "Đức Phật
và Phật Pháp",
Phạm Kim Khánh
chuyển dịch,
Sài gòn, 1970
-
--o0o--
|
|