|
BỒ TÁT HẠNH
- Lý
Tưởng Bồ Tát
-
Một Tia Sáng Trong Bóng Tối
-
Của Thời Đại Chúng Ta
- Lama Anagarika Govinda
- Tổ dịch thuật Trúc Lâm chuyển
ngữ
- ---o0o---
-
-
Bài này là chương IV trích từ quyển
Living Buddhism for the West do Maurice Walshe dịch từ tiếng Đức
(Buddhismus fur das Abendland), NXB Shambala, Mỹ, 1991, trang
72-93. Những chú thích của tác giả sẽ được ghi là của tác giả.
Những chú thích còn lại là của Tổ dịch thuật Trúc Lâm
-
Lời giới thiệu: Tác giả Lama
Anagarika Govinda
- Lama
Anagarika Govinda là tu sĩ Phật giáo, học giả, giáo sư Phật học,
và họa sĩ người Đức. Thế danh của ông là Ernst Hoffman. Ông sinh
năm 1898 ở Waldheim (Đức) và mất 1985 ở California (Mỹ). Ông tu
theo đạo Phật lúc 18 tuổi. Năm 30 tuổi ông sang Tích Lan và Miến
Điện học đạo rồi sau đó thực hành Mật giáo Tây tạng. Ông sống ở
Darjeeling, dưới chân dãy núi Hy Mã Lạp Sơn trong nhiều năm, dạy
ở Đại học Patna và Shantiniketan, vùng Tây Bengal, Ấn Độ (Đại
học do văn hào Ấn Độ Rabindranath Tagore thành lập), dạy Phật
học tại nhiều đại học ở châu Âu, Á, Phi, và Mỹ, và thành lập đạo
tràng Arya Maitreya Mandala tại Ấn Độ, Đức và Mỹ. Ông sang Mỹ
hành đạo từ năm 1967. Ông được xem như một trong những người có
công lớn đưa Phật giáo vào phương Tây và là nhịp cầu hiện đại
nối liền văn hóa Đông Tây.
- Ông để lại
nhiều tác phẩm Phật học có giá trị và đựơc dịch ra nhiều thứ
tiếng. Tác phẩm chính của ông là Nền tảng Mật giáo Tây Tạng
(Foundations of Tibetan Mysticism, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1969),
Thái độ tâm lý trong triết học Phật giáo nguyên thủy (The
Psychological Attitude of Early Buddhist Pholosophy, NXB Rider,
Anh, 1969), Con đường mây trắng (The Way of the White Clouds,
NXB Shambala, Mỹ, 1988, được Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách dịch từ
tiếng Đức sang tiếng Việt, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999), Cấu
trúc nội tại của Kinh Dịch (The Inner Structure of The I Ching,
NXB Weatherhill, Mỹ, 1981), Biểu tượng tâm lý và vũ trụ của các
bảo tháp Phật giáo (Psycho-cosmic Symbolism of the Buddhist
Stupa, NXB Dharma, Mỹ, 1976), Thiền định sáng tạo và tâm thức đa
diện (Creative Meditation and Multi-Dimensional Consciousness,
NXB Quest, Mỹ, 1979), Suy tưởng Phật giáo (Buddhist Reflections,
NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1991), Đạo Phật đi vào cuộc sống phương
Tây (Living Buddhism for the West, NXB Shambala, Mỹ, 1990).
-
Lý tưởng khác với chủ
nghĩa giáo điều ở chỗ nó không khép kín. Lý tưởng thúc đẩy và
khuyến khích sự tự do quyết định của cá nhân, và do đó, khác với
chủ nghĩa giáo điều, nó không cần sự biện hộ của tư liệu lịch sử
hay lý luận. Lý tưởng có sức thuyết phục trực tiếp vì nó luôn
tạo niềm cảm hứng mới mẽ cho con người và giúp con người định
hướng một cách sáng tạo cho tương lai. Nhờ chính điều này mà lý
tưởng có giá trị ngay trong hiện tại và cho chính cuộc sống hiện
tại.
- Lý tưởng Bồ
tát cũng thế. Nó đã có ảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và
hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay, mà
không cần sự biện minh của triết học kinh viện, chủ thuyết giáo
điều hay các dữ kiện lịch sử tôn giáo. Lý do chính là vì nó là
sự thể hiện thường trực của một nội tâm có sức mạnh chuyển hóa
và kêu gọi con người thực hiện mục tiêu cao cả mà Đức Phật đã
soi sáng cho chúng ta bằng chính tấm gương cuộc đời Ngài.
- Đây không phải là con đường giản
dị và dễ dàng. Bất cứ ai bắt đầu đi trên con đường này sẽ cảm
thấy trách nhiệm ngày càng lớn và tự thân người đó sẽ dần dần
vượt ra khỏi cái thế giới an toàn, nhỏ bé, và dễ nhận biết của
những tình cảm vui buồn cá nhân để cống hiến tất cả năng lực của
mình cho hoạt động vì lợi ích tất cả chúng sanh. Đây không phải
là chỗ trú yên tĩnh cho những ai muốn thoát ly cuộc đời. Ở đây,
vấn đề mấu chốt là làm sao chủ động "đi qua" cuộc đời nầy. Nói
khác đi, con đường này không đưa chúng ta "ra khỏi cuộc đời" mà
"đi xuyên và vượt qua bên kia cuộc đời." Những ai đi trên con
đường này đều cảm thấy nội tâm tràn đầy hạnh phúc khi họ bắt đầu
cảm nhận là họ đã hòa nhập làm một với tất cả muôn loài. Và như
thế, ngày hôm nay và mãi về sau, lý tưởng Bồ Tát luôn kêu gọi
những tình cảm sâu kín nhất từ trong trái tim của mỗi người
chúng ta. Nó thắp lên trong lòng chúng ta ngọn lửa hiến dâng vì
một mục đích cao cả và vĩ đại, chúng ta sẵn sàng làm bất cứ hy
sinh nào mà vẫn không cảm thấy đó "là" một sự hy sinh.
- Ngày xưa khi
đức Phật còn sống bên cạnh các đệ tử của Ngài cuộc đời Ngài là
sự thể hiện sống động của lý tưởng Bồ Tát. Nên lúc đó không có
nhu cầu đặt ra những lý thuyết hay triển khai những ý kiến và
quan niệm về bản chất của Bồ Tát Đạo. Nhưng sau khi Thế Tôn nhập
diệt, lần đầu tiên trong đời, các đệ tử của Ngài mới cảm nhận
được toàn bộ sự vĩ đại của Ngài, giống như chúng ta chỉ có thể
thấy được toàn bộ bề cao và chiều rộng của một ngọn núi khi
chúng ta đứng nhìn nó từ một khoảng cách không gian nào đó. Cũng
tương tự như thế từ một khoảng cách thời gian nào đó nhìn về Đức
Phật hình ảnh đức Phật đã ngày càng hiện rõ hơn trong trái tim
của những người con Phật. Hình ảnh ấy mỗi lúc một hoàn chỉnh
hơn, để rồi cuối cùng Đức Phật đã được cảm nhận hoàn toàn như
thật rằng: Ngài là chính là người mà qua tấm gương của cuộc đời
ngài đã chỉ ra con đường mà mỗi Phật tử chân chánh phải đi—đó là
con đường lý tưởng Bồ Tát nhằm phục vụ tất cả chúng sanh, con
đường dẫn chúng ta đến một mục đích cao thượng--mục đích của sự
giác ngộ toàn thiện mà thực chất là một sự tỉnh thức vĩ đại.
- Cho nên, mặc dù sách vở viết về
Bồ Tát đạo ra đời tương đối muộn, lý tưởng Bồ Tát không phải là
"phát minh" của những thế kỷ sau khi Phật nhập Niết Bàn
(parinirvana). Trái lại, nó là một trong những tư tưởng then
chốt của Phật giáo Nguyên thủy. Điều này được thể hiện rõ ràng
qua các Chuyện Tiền Thân Đức Phật (Jàtakas) thuộc truyền thống
xưa nhất của Phật giáo và những chuyện này rõ ràng đã có ảnh
hưởng rất lớn trên toàn thể văn hóa Phật giáo qua hàng mấy ngàn
năm trên toàn Châu Á, trong văn chương, hội họa và điêu khắc ở
các vùng Nam, Trung và Đông Á. Để chứng minh điều này, chúng ta
chỉ cần nêu lên vài thí dụ như các bích họa và tượng điêu khắc ở
hang động Ajanta và những chạm trỗ kỳ diệu của thánh tích
Borobudur.
-
Ajanta là một làng
ở tỉnh Maharashtra, miền trung Ấn Độ, nổi tiếng với 29 hang động
trong một khe suối sâu. Đây là một tu viện và đền thờ Phật giáo
đuợc xây vào thế kỷ thứ II sau công nguyên với những bích họa,
tường và tuợng điêu khắc đẹp nổi tiếng thế giới. Borobudur là di
tích Phật giáo ở Java (Nam Dương), xây khoảng thế kỷ thứ VII sau
công nguyên. Trên một ngọn đồi thấp gần Jogjakarta, Borobudur có
hơn 3 km tường đá bao quanh theo hình bậc thang, được chạm trổ
tuyệt đẹp theo các chuyện trong kinh điển Phật giáo, nhất là
Kinh Hoa Nghiêm. Trên đỉnh là một bảo tháp lớn với các tháp nhỏ
bao quanh, mỗi tháp chứa một tượng Phật bên trong. Từ trên nhìn
xuống, Borobudur giống như một Mandala vĩ đại. Ajanta và
Borobudur được cơ quan Liên Hiệp Quốc UNESCO xếp hạng là Di sản
văn hóa thế giới.
- Là Phật tử,
chúng ta không nhất thiết phải tin vào những chuyện tái sinh
này, mặc dù trong các bài thuyết giảng, Đức Phật có đề cập đến
tiền kiếp của Ngài. Với tinh thần này, chúng ta không xem Phật
giáo là một giáo điều. Nhưng qua những chuyện tiền thân này,
chúng ta thấy rõ ràng và sống động cái lý tưởng nền tảng của Đạo
Phật: Đó là tinh thần vô ngã, sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì
lòng từ bi, và dẹp bỏ quyền lợi riêng của mình vì lợi ích của
người khác. Đây là con đường mà Đức Phật, qua tấm gương sinh
động của đời Ngài, đã vạch ra, và qua những bài giảng về giáo lý
và phương pháp thiền định, đã truyền đạt cho các đệ tử của Ngài.
- Rồi trên mảnh
đất Ấn, trong những thế kỷ đầu sau thời đức Phật, những tính khí
khác nhau va những tâm lý quá hướng nội hoặc quá hướng ngoại
trong hàng đệ tử Phật đã làm nẩy sinh những khác biệt trong sự
đánh giá và diễn giải một số lời giảng dạy của Đức Phật. Từ đó,
những con đường thể hiện Đạo Phật khác nhau đã ra đời và dẫn tới
sự tranh luận giữa lý tưởng A La Hán (Arahat) và lý tưởng Bồ
tát. Sự phát triển của cuộc tranh luận này về sau đã dẫn đến
niềm tin cho rằng Hệ phái Phật giáo nguyên thủy, đã từng bị biệt
lập tại Tích Lan trong nhiều thế kỷ, đem mục tiêu cao nhất của
quá trình tu tập là thực hiện (và cùng với Hệ phái nầy là toàn
bộ truyền thống kinh tạng Pali) lý tưởng A La Hán, giống như
mười tám trường phái "Tiểu thừa" mà thực chất đã biến mất từ lâu
trong lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên chính trong hệ kinh tạng
Pàli, chúng ta đã tìm thấy một trong những lời phát nguyện xưa
nhất của Bồ tát như sau:
- Qua việc
thành tựu tất cả hạnh Ba la mật: trì giới, xuất gia (từ bỏ các
dục, kiết sử…), trí tuệ và các hạnh còn lại (như bố thí, tinh
tấn, nhẫn nhục, chân thật, quyết tâm, tâm từ và tâm xả), qua
việc thực hành rốt ráo nhất các hạnh Ba la mật này, xin cho con
đạt đến quả vị Phật tối thượng.
-
Bản Pali:
Sila-nekkhamma-pannadim, puretva sabba-paramim, parami-sikkham
patva, Buddho hessam anuttaro. Trưởng lão Anagarika Dharmapala,
nguòi sáng lập Hội Đại Bồ Đề (Maha Bodhi Society) ở Tích Lan năm
1891, đã cho chư tăng của Hội tụng niệm lời phát nguyện này
trong các thời công phu (puja) mỗi ngày (tác giả chú thích). Mục
đích chính của Hội Đại Bồ Đề là khôi phục lại thách tích Bodh
Gaya và Đạo Phật ở Ấn Độ.
- Lời phát
nguyện của vị Bồ tát trên đây cho thấy chúng ta không thể hiểu
một cách đơn giản là Phật giáo Nguyên thủy là một bộ phận của
Phật giáo Tiểu thừa: Vì rằng khi có sự phân biệt về ý thức hệ
giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa, Phật giáo Nguyên Thủy đã
biến mất từ lâu trên đại lục Ấn, ngoại trừ một nhóm nhỏ biệt lập
gần Amaràvatì ở phía Nam. Cũng trong nội dung nầy, chúng ta nên
ghi nhận thêm một sự kiện là "tất cả" các hệ phái Phật
giáo đều công nhận giá trị thật sự của hệ thống kinh tạng Pali.
Dĩ nhiên Phật giáo Nguyên thủy là một trong những hệ phái xưa
nhất và nhờ sự kiện nó bị biệt lập tại Tích Lan trong một thời
gian dài, nó đã bảo lưu được toàn bộ hệ thống kinh sách hơn bất
kỳ trường phái nào. Tuy nhiên chúng ta sẽ sai lầm nếu cho rằng
chỉ những kinh sách thuộc hệ Pali mới là "lời nói thật sự của
Đức Phật” và rằng Đức Phật là người nói tiếng Pali. Sự thật là,
Đức Phật nói tiếng Ma-kiệt-đà (Màgadhì), một ngôn ngữ thuộc miền
bắc Ấn Độ, ngôn ngữ ấy về sau được dịch sang tiếng Phạn và Pali,
lúc đầu dưới dạng truyền khẩu, và sau đó, qua nhiều lần được xét
duyệt tại các kỳ kết tập kinh điển, được viết lại thành văn
(khoảng 90 năm trước công nguyên).
- Như vậy việc
sưu tầm kinh điển đã được nhiều hệ phái Phật giáo khác nhau thực
hiện cùng lúc và tiếp tục tồn tại song song nhau. Phần lớn các
bộ kinh được sưu tập hiện nay chỉ còn lại những mảng lẻ tẻ, đa
phần được dịch ra Tạng ngữ hoặc Hán ngữ. Ngay cả những người ủng
hộ Phật giáo Đại thừa nhiệt thành nhất cũng chưa bao giờ nghi
ngờ tính xác thực của kinh tạng Pàli và sự thành tâm của những
người theo hệ này. Nhưng những người theo Phật giáo Đại thừa và
các học phái khác bác bỏ ý kiến cho là chỉ có kinh tạng Pàli mới
là nguồn tài liệu xác thực duy nhất của Phật âm. Điều này cho
thấy rõ rằng, các đệ tử nghiêm túc khác của đức Thế Tôn thời ấy
cũng đã ghi chép và bảo lưu các mặt khác nhau của lời Phật dạy.
Điều này đã được chính truyền thống Phật giáo Nguyên thủy công
nhận, thể hiện ở việc họ ghi nhận sự hiện diện của trưởng lão
Phú Lâu Na (sthavira Purana) cùng 500 vị Tỳ kheo tại Kỳ
kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi các Thượng tọa đã biên
tập và đúc kết lời giảng của Đức Phật thành kinh sách. Tại Đại
hội, sau khi được nghe qua kết quả việc kết tập các kinh điển và
được Đại hội kêu gọi sự đồng ý, Trưởng Lão Phú Lâu Na khen là
việc kết tập kinh điển đã được tiến hành rất tốt nhưng ngài cho
biết là ngài vẫn thích "ghi nhớ lại những lời dạy mà bản thân
ngài được nghe từ chính kim khẩu của đức Thế Tôn" hơn. Phát biểu
xong, Ngài cùng với các vị Tỳ kheo rời Đại hội.
- Tinh thần tự
do trong việc ghi nhận và bảo tồn lời giảng dạy của Đức Phật
cũng đã được Tổ Huệ Năng (Tổ thứ sáu của dòng Thiền Trung Quốc)
xác nhận khi ngài tuyên bố: "Những kinh sách Đại thừa, Tiểu thừa
và mười hai bộ kinh đã được kết tập để thích hợp với tính khí và
nhu cầu khác nhau của nhiều người."
- Vì thế những
người có khuynh hướng suy luận trừu trượng và triết học đã đi
vào việc nghiên cứu Luận tạng (Abhidharma). Những vị
khác, với đầu óc ít triết lý hơn, thích những vấn đề đạo đức
được nêu trong các Kinh (Sutras), trong khi những
ai quan tâm đến nếp sống tu viện thì quay về với Luật tạng
(Vinaya). Nhưng những ai rung cảm sâu sắc với con người của
Đức Phật thì tập trung quán tưởng cuộc đời và công phu tu tập
đến chỗ toàn thiện xuất chúng của Đức Thế Tôn và xem những
chuyện tiền thân là những tác phẩm thể hiện hoàn hảo nhất lý
tưởng của họ.
- Trên quan
điểm lịch sử tôn giáo, chúng ta cần lưu ý rằng cái mà các hệ
phái Phật giáo gọi là ‘Tạng thứ ba’ (Abhidharma Pitaka hay
Luận tạng), cùng với những bài kinh khác thật ra chỉ là bản
tóm tắt giáo lý Phật một cách hệ thống được thực hiện sau khi
Phật nhập diệt (parinirvana). Các pháp thiền trong
Luận tạng được biên soạn một cách hệ thống kèm theo các định
nghĩa và phân loại các trạng thái tâm lý là công trình triết học
kinh viện mà về mặt lý luận và nhất quán đều dựa trên cơ sở của
những lời Phật dạy.
- Cũng giống
như thế, chính bản thân Đức Phật không chế đặt ra Lý tưởng Bồ
tát. Lý tưởng Bồ Tát đã được những vị chọn đi theo con đường của
Đức Thế tôn xiển dương, chủ yếu không phải vì những lời thuyết
giảng mà vì chính cuộc đời mẫu mực của Đức Phật—một cuộc đời thể
hiện đúng chánh Pháp. Kiên trì với lý tưởng này, các vị tu hạnh
Bồ tát lấy nếp sinh hoạt thường ngày, quá trình tu tập phát
triển tâm linh, và những hoạt động hy sinh vì lợi ích chúng sanh
của Đức Thế Tôn làm lý tưởng và ngôi sao dẫn đường cho cuộc đời
và việc tu tập của họ. Còn gì thuyết phục người đệ tử Phật hùng
hồn hơn, giữa những cuộc tranh luận của các quan điểm và dư luận
trái ngược nhau, là chính cuộc đời mẫu mực của Đức Phật? Ngay cả
những lúc thời thế thay đổi, người đời có thể diễn dịch lời dạy
của Đức Phật theo những cách khác nhau, nhưng tấm gương cuộc đời
của Đức Phật vẫn là thứ ngôn ngữ vượt thời gian mà ngày nào con
người còn sống trên trái đất này, ở bất cứ thời đại nào, cũng có
thể hiểu được. Điều này giải thích sự thành công đáng ngạc nhiên
của tác phẩm Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia) của Ngài Edwin
Arnold (1879)--tác phẩm đã thuyết phục nhiều người hướng về đạo
Phật hơn là những bài dịch các bản kinh gốc thật chính xác về
ngữ học hay những bài luận văn về triết học tôn giáo, mặc dù
những tác phẩm này rất có giá trị và cần thiết.
- Sự kiện nầy
cho chúng ta thấy rõ là đối với nhân loại, nhân cách của Đức
Phật và những biểu tượng sâu sắc, mang tính lịch sử hoặc thần
thoại, về cuộc đời Ngài mà nội dung chính là sự tu tập và phát
triển tâm linh có một giá trị vô cùng to lớn, to lớn hơn cả mọi
hệ thống triết học dựa trên lời Ngài dạy hay phương pháp phân
loại trừu tượng của văn học A tỳ đàm (Abhidhamma). Vì có sự diễn
đạt nào tế nhị và sâu sắc hơn về tinh thần vị tha, giáo lý Vô
ngã, Tứ đế, Bát thánh đạo, Duyên Khởi, và con đường giải thoát
và giác ngộ toàn thiện hơn cuộc đời của Đức Phật, một cuộc đời
bao gồm cả tầm cao và chiều sâu của vũ trụ? Phải chăng toàn bộ
cuộc đời và hoạt động của Ngài là sự thể hiện sống động cái cốt
lỏi của đại nguyện Bồ tát: ‘Xin cho con thành tựu giác ngộ vô
thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh’?
- Như một họa
sĩ chọn các bậc thầy lớn trong ngành hội họa làm mẫu mực để noi
theo mặc dù người này chưa biết khi nào mình sẽ thành đạt như
các bậc thầy mình, những ai tìm cầu sự phát triển tâm linh đều
phải hướng đến một mô hình lý tưởng cao nhất dựa trên sự hiểu
biết của họ, và điều này sẽ giúp họ nỗ lực và phấn đấu hơn để
thực hiện lý tưởng của họ. Không ai biết trước được khả năng
sáng tạo của mỗi con người. Nhưng chắc chắn sự tinh tấn mãnh
liệt và sức mạnh của lòng tận tụy vì lý tưởng sẽ quyết định năng
lực sáng tạo nầy để rồi những ai muốn tìm cầu mục tiêu tối
thượng nhất với toàn bộ năng lực tâm linh của mình sẽ tìm thấy ở
chính bản thân họ sức mạnh vĩ đại nhất và cùng với việc này,
những mặt giới hạn của họ sẽ dần tan đi trong khoảng không vô
tận.
- Đối với người
đã chọn con đường này, vấn đề có hay không một vị Phật xuất hiện
trong kiếp (kalpa) này không là điều quan trọng.
-
Kiếp được dịch từ
Phạn ngữ Kalpa, tiếng Anh là Eon, có nghĩa là một khoảng thòi
gian dài không thể nghĩ bàn được của thế giới từ lúc thành lập
đến lúc bị hủy diệt. Một Kalpa có 4 giai đoạn: hủy diệt, hỗn
loạn, tái lập, và trưởng thành. Kalpa có thể dài hay ngắn. Trong
văn chương Phật học, thông thưòng một Kalpa ngắn là 16.8 triệu
năm. Kalpa dài là 1,347 triệu năm.
- Người ấy sẽ
và phải luôn hành động với tâm niệm là công phu tu tập của họ sẽ
giúp cho vị Phật tương lai ra đời. Có một điều quan trọng hơn cả
tất cả những suy đoán về việc có bao nhiêu đức Phật xuất hiện
trong một kiếp và đã được mọi trường phái Phật giáo chấp nhận.
Đó là quan niệm cho rằng các bậc giác ngộ xuất hiện theo một chu
kỳ ẩn tàng trong vũ trụ. Điều này có nghĩa là cho dù sự xuất
hiện của bậc Chánh Đẳng Giác (samyak-sambuddha) rất hiếm khi xảy
ra, nhưng ‘chủng tử’, tiềm lực và xu hướng dẫn đến sự hiển lộ
của "tâm thức giác ngộ" (bodhicitta hay bồ đề tâm) là tiềm tàng
khắp trong vũ trụ và, do đó, tiềm tàng trong từng chúng sanh và
chỉ chờ dịp để được đánh thức mà thôi.
- Khi nguyên
tắc căn bản này đã được công nhận, vấn đề biểu số không còn quan
trọng nữa. Chẳng hạn, các trường phái Phật giáo thuộc hệ Bắc
tông (dù các trường phái nầy cho rằng các chư Phật thể hiện
những khuôn mẫu lý tưỏng và đức hạnh tâm linh khác nhau cùng ra
đời trong một kiếp) không bác bỏ sự tồn tại của vô số chư Phật
và Bồ tát khác, và họ chỉ nhấn mạnh khả năng bừng ngộ của tất cả
muôn loài ở tất cả các mức độ phát triển tâm linh khác nhau. Vì
trong một cảnh giới mà thời gian và không gian không còn tác
dụng, tất cả những quan niệm mang tính giáo điều hoặc dựa trên
các con số đều không còn ý nghĩa nữa. Nói một cách tích cực hơn,
điều này có nghĩa là: Thế giới tâm linh không có giới hạn nào
khác ngoài những giới hạn mà chính nó tự tạo ra.
- Hiểu như thế
thì trong truyền thống Đại Thừa, sự ra đời của vô số chư Phật và
Bồ tát chỉ là sự diễn đạt ý niệm cho rằng sự chứng ngộ có thể
thành tựu ở bất cứ lúc nào và tại bất cứ nơi nào, và nó không
tùy thuộc vào thiên tượng, điều kiện địa phương hoặc một số hoàn
cảnh đặc biệt nào đó. Từ đó, chúng ta suy ra rằng, trong Phật
giáo, không có hiện tượng phép mầu hiểu theo nghĩa là một thách
thức hay một sự phá vỡ trật tự đang có trong cuộc sống. Cái mà
chúng ta gọi là "những phép mầu thật ra chỉ là những biểu hiện
đột xuất từ một trạng thái tâm thức trong chúng ta. Phép mầu
không phải là những biến cố đặc biệt của thế giới tự nhiên mà là
những trạng thái tâm thức đặc biệt. Đó là lý do vì sao đức Phật
gọi sự chuyển hóa tâm là "sự chuyển hướng trong vùng sâu thẳm
nhất của tâm thức" chúng ta – nghĩa là, sự chuyển hướng từ một
thái độ chấp ngã sang thái độ vô ngã – và chỉ có sự chuyển hướng
nầy mới thật sự xứng đáng mang tên là mầu nhiệm.
- Sự mầu nhiệm
này sẽ đến khi chúng ta bắt đầu ý thức về khả năng giác ngộ ở
chính mình và khi tâm thức giác ngộ bắt đầu chỉ đạo cuộc đời
chúng ta. Tâm Bồ đề, một khi lóe lên trong ta, sẽ đem lại cho
đời ta một ý nghĩa mới và một định hướng không gì lay chuyển
được trên đường tiến đến mục tiêu vĩ đại. Sự thay đổi cơ bản
trong thái độ tinh thần và tình cảm nầy là sự kiện quan trọng
duy nhất. So với điều này, mọi cố gắng để "thống kê" số người có
khả năng thành tựu quả vị giác ngộ trong thời hạn nào đó chỉ là
những hý luận, cũng giống như một số người hời hợt nhân danh
"khoa học" phê phán lý tưởng Bồ Tát đã cố gắng tìm cách xác định
thời gian cần thiết để con người có thể thành tưụ quả vị giác
ngộ.
- Sự phi lý của
cố gắng trên đã được đề cập đến trong kinh Lăng già (Lankavatara
Sutra) trong một đối thoại sâu sắc giữa đức Phật và ngài Đại Tuệ
(Mahamati).
-
Xin xem thêm T.D.
Suzuki, Nghiên cưú Kinh Lăng Già (Tỳ Kheo Thích Chơn Thiện và Cư
Sĩ Trần Tuấn Mẫn dịch sang tiếng Việt), Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
xuất bản, TP Hồ Chi Minh, 1992
- Như phần lớn
những người hoài nghi đương thời, ngài Đại Tuệ thắc mắc không
biết làm thế nào và khi nào ngài sẽ được giải thoát và muốn biết
ngay bây giờ khả năng đạt đến Niết Bàn của một vị Bồ Tát. Ngài
thỉnh cầu "Xin Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con, làm thế nào để các
vị Bồ tát chắc chắn thành tựu quả Niết Bàn?" Phật trả lời, "Này
Đại Tuệ, cái chắc chắn này thì không phải là cái chắc chắn dựa
trên con số hay logic, cái chắc chắn này không đến từ tư duy mà
đến từ tâm thức. Cái chắc chắn [đạt đến Niết bàn] của vị Bồ Tát
đến từ sự hiển bày của trí tuệ xuất hiện khi các triền cái tham
độc được trừ khử, khi các phiền não chướng ngại được quét sang
một bên, khi tấm lòng vô ngã vị tha được mở rộng một cách trong
sáng và đón nhận trong kiên trì."
- Câu cuối của
đoạn trích trên cho thấy khá rõ ràng là Bồ Tát Đạo không khác
chút nào với Bát Chánh Đạo của Đức Phật và do đó, không có chỗ
cho những tư tưởng xằng bậy như "việc kềm giử tham dục một cách
ý thức" mà các người chống đối lý tưởng Bồ Tát thường vu khống.
Nuôi dưỡng trí tuệ sâu dày qua việc thiền định, chế ngự và khắc
phục tham dục qua việc giử gìn giới luật, khai sáng hiểu biết
qua việc học tập, đạt đến trạng thái vô ngã (nairatmya) qua tấm
lòng vị tha và tâm tỉnh giác – đây là những chỗ dựa trụ cốt của
lý tưởng Bồ Tát.
- Tư tưởng cho
rằng ta phải tự độ trước rồi mới có thể độ người khác là một sự
thật chỉ đúng một nửa và đầy nguy hại. Cuộc sống luôn cho chúng
ta thấy là chúng ta không thể nào tự giúp mình nếu cùng lúc
chúng ta không giúp người khác, vì không phải sự thành công hay
kết quả thấy được bên ngoài mà chính cái động lực, thái độ nội
tâm, nhu cầu và tinh thần sẵn sàng giúp người mới là quan trọng.
Chỉ với tấm lòng sẵn sàng giúp người thôi cũng đủ để phá vỡ bức
tường ngăn cách chúng ta với người khác và giải thoát chúng ta
khỏi sự cô đơn vốn là nét nổi bật của thời đại chúng ta và giúp
chúng ta vượt lên trên chính mình.
- Người nào
hiểu được lý tưởng Bồ Tát rồi sẽ bị thôi thúc bởi tinh thần sẵn
sàng giúp đở và hổ trợ người khác trên lộ trình của họ và giảng
dạy người khác về Bồ tát đạo—với trình độ hiểu biết lúc đó của
mình. Nhiều nhà phê bình đại diện cho tư tưởng chính thống đã
phản đối điều nầy cho dù họ đã quen thuộc với kinh tạng Pali
(Đại Phẩm Kinh Mahavagga 1.23) với câu chuyện về sự bừng ngộ của
ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) qua lời chỉ dạy giản dị mộc mạc của
ngài Mã Thắng(Assaji), người vừa mới được Đức Phật nhận làm đệ
tử. Và phải chăng có những trường hợp trong đó người đang học
đạo vẫn có thể hướng dẫn những người mới vào đạo còn gặp nhiều
khó khăn tốt hơn cả những người nghĩ rằng mình biết tất cả và vì
vậy, đã mất đi khả năng tiếp nhận và lĩnh hội cái mới? Người mới
bắt đầu học đạo thường ý thức những giới hạn của mình, và vì
thế, trong khi truyền đạt kiến thức, họ tự hạn chế ở những gì họ
hiểu rõ hay những kinh nghiệm chứng ngộ của riêng họ. Người ấy
muốn chia xẻ niềm vui và hạnh phúc đã thành tựu với những người
khác mà không chút kiêu ngạo hay tự đắc.
- Chia xẻ kiến
thức và kinh nghiệm với niềm vui và ý thức hoàn toàn về những
hiểu biết giới hạn của mình khác hẳn với sự sốt sắng và nồng
nhiệt quá độ của những nguòi có tinh thần truyền đạo cho rằng tư
tưởng mới của họ sẽ đem lại ‘lợi lạc’ cho cuộc đời. Nên việc
nhắc nhở mọi người bình tĩnh và tiết chế trong khi truyền giáo
là rất cần thiết. Chúng ta không nên bao giờ quên rằng chúng ta
chỉ có thể phục vụ con người ngày càng nhiều hơn nếu trong từng
phút từng giây chúng ta vận công tu tập, kết hợp thân khẩu y, và
biến chúng thành một công cụ ngày càng hoàn thiện hơn giúp chúng
ta mang lại hạnh phúc cho muôn loài và thành tựu quả vị Phật ‘để
cứu độ tất cả chúng sanh còn chìm đắm đau khổ’. Để thành tựu mục
đích cao thượng này, chúng ta nên xem việc hành trì Ba la mật là
điều tiên quyết không thể thiếu trên bước đường hành Bồ tát
hạnh.
-
Ba la mật
(Pàramità). Sự liệt kê theo tạng Pàli (Nguyên thủy) và tạng Đại
thừa khác nhau. Trong tạng Pàli, các Ba la mật gồm: Bố thí, trì
giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, sự thật, quyết
trạch, lòng từ và xả. Sáu Ba la mật đầu của Đại thừa về sau được
tăng dần thành mười để tương ưng với các bước mà con đường Bồ
tát vạch ra, đó là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí tuệ và 4 Ba la mật sau: thiện xảo, cương quyết, lực,
kiến thức. (Tác giả chú thích)
- Những hạnh Ba
la mật này không chỉ bao gồm việc tránh làm điều ác và bất thiện
hoặc gieo trồng việc tốt và từ thiện, mà quan trọng hơn cả, là
những hành động hy sinh đầy từ tâm và bi mẫn, được sinh ra và
tôi luyện trong ngọn lửa khổ đau chung của muôn loài, nơi đó sự
đau khổ của người khác được cảm nhận như chính nỗi khổ đau của
riêng mình.
- Vị bồ tát
không ấp ủ tham vọng luôn chỉ dạy người khác bằng những lời
thuyết giảng. Quan trọng hơn cả, vị ấy ao ước được dạy bằng
chính tấm gương của cuộc đời mình. Và vì thế, trên đường tu tập,
vị ấy không bao giờ quên được sự an lạc của những chúng sanh
quanh mình, cố gắng thành thục tâm linh trên lộ trình tiến gần
đến cứu cánh, và tạo nguồn cảm hứng để kêu gọi người khác cùng
tu tập. Trên lộ trình này không có sự hy sinh vì lợi ích chúng
sanh nào là vô ích, ngay cả nếu người khác bác bỏ hoặc lợi dụng
sự hy sinh này. Bất cứ sự hy sinh nào, dù đó là việc xuất gia
hay sự tự nguyện từ bỏ những lạc thú thế gian, cũng là một chiến
thắng vượt qua bản thân mình, và do đó, là một hành động giải
thoát. Bất kể tác động bên ngoài như thế nào, sự hy sinh đó đưa
chúng ta đến gần mục tiêu giải thoát, và biến sự hiểu biết thuần
lý của chúng ta về lý tưởng vô ngã (anatman) thành một loại tri
thức sống động và một niềm tin vững chắc dựa trên kinh nghiệm tu
chứng nội tại. Khi chúng ta càng vượt qua cái ngã hẹp hòi tầm
thường của mình và phá toang bức tường ngục tù trong tâm do
chính ta tự tạo, con người của chúng ta sẽ càng trong sáng và
niềm tin thể hiện trong cuộc sống mẫu mực của chúng ta ngày sẽ
càng vững mạnh. Chỉ bằng cách nầy, chúng ta mới giúp được người
khác—Điều này hiệu quả hơn cả những công tác từ thiện, và hơn cả
những lời nói đạo đức hay những bài giảng pháp.
- Vị nào đó
nghĩ rằng có thể đạt đến mục đích giải thoát nhanh hơn bằng cách
trốn đời và tự mình cắt tuyệt mọi giao tiếp với đời, tự họ đã
tước bỏ những dịp để được hy sinh, được thực hành sự đìều độ và
tiết chế, được tập từ bỏ những của cải lợi lộc mà họ đã cật lực
tạo ra, và tập từ chối những gì họ ham thích, hay tập tránh xa
những cám dỗ trên đời. Từ bỏ cuộc đời thế tục hoàn toàn để sống
cuộc đời xuất gia là quan điểm của những người gặp nhiều đau khổ
trong cuộc sống và chỉ quan tâm đến nỗi khổ riêng của họ đến nỗi
họ không thể cảm nhận được nỗi khổ đau lớn hơn của những người
khác, và do đó, chỉ biết lo thoát khổ cho riêng họ mà thôi. Tuy
nhiên, vẫn có những người thấy được sự đau khổ của những chúng
sanh chung quanh họ, cảm nhận sâu sắc được sự đau khổ đó, và sẵn
sàng chấp nhận tất cả đau đớn và khó khăn về phần mình để mang
lại niềm an ủi cho những chúng sanh đang đau khỗ.
- Những người
thuộc nhóm thứ nhất là những người chỉ thấy nỗi khổ của riêng họ
và chỉ lo đi tìm sự giải thoát cho riêng họ. Họ bị kẹt và giam
hãm trong bản ngã và trở thành cứng nhắc một cách ích kỷ. Họ cần
khắc phục điều này vì, như lời Phật dạy, đây là nguồn gốc của
tất cả sự đau khổ. Nếu chúng ta xuất phát từ quan điểm hạn hẹp
này và hành trì những phương pháp quán sát thuần phân tích (để
hiểu những đau khổ của riêng mình) thì tầm nhìn trong tâm thức
chúng ta sẽ bị thu hẹp về một điểm duy nhất, đó là sự hiểu biết
thuần lý và dựa trên bản ngã. Cuối cùng, chính tư duy hữu ngã
nầy sẽ làm cho những gì đang xảy ra trong cuộc sống thành vô
nghĩa và từ đó, trở thành hư vô. Chỉ khi nào sự quán sát mang
tính phân tích này được bổ xung bằng cái nhìn trí tuệ xuyên
thẳng vào bản chất sự vật nhằm dung nạp và hòa hợp tất cả, khi
đó chúng ta mới thật sự tiến bộ về tâm linh.
-
Đây cũng chính là
sự hiểu biết bằng trực giác tính duyên khởi và tùy thuộc lẫn
nhau của các pháp.
- Vì vậy, người
tu tập thiền định phải tập quán sát mọi việc từ một quan điểm
chung mà không đưa vào cái bản ngã đã bị tách rời khỏi toàn bộ
những sự kiện. Và chỉ bằng cách đó, người đó mới quán sát được
tính tùy thuộc lẫn nhau (duyên khởi) của mọi hiện tượng. Chỉ khi
thành tựu được điều này, cái bản ngã sẽ tự động không còn cứng
nhắc và trở nên trong suốt, mà người đó không cần làm một cố
gắng đặc biệt nào để tiêu hủy nó. Điều nầy khẳng định lại một sự
thật. Đó là "thực tại" huyễn ảo của cái ngã. Cũng trên cùng quan
điểm, nếu có ai đó cho là không có sự tồn tại tương đối của bản
ngã, người đó thật ra đang tự lừa dối mình. Vì ngày nào mà tất
cả hành động của chúng ta đều hướng về việc duy trì bản thân
chúng ta, và ngày nào mà mỗi tư tưởng của chúng ta đều chỉ để
chăm lo quyền lợi riêng của chúng ta, thì mọi cố gắng nhằm đả
phá sự tồn tại của cái ngã là hoàn toàn vô ích. Có những hoàn
cảnh mà trong đó chúng ta nên chân thành chấp nhận là mình vẫn
còn cái ngã, hay đúng hơn, là vẫn còn bị cái ngã chi phối, giống
như những nhà tư tưởng còn bị kẹt trong những thành kiến hay
những suy nghĩ hoang tưởng của họ, và chúng ta chỉ thành thật
mong là một ngày nào đó, chúng ta sẽ thoát ra khỏi những ràng
buộc nầy.
- Nhưng để đạt
đến mục tiêu này, trước nhất chúng ta phải xác định cái nhìn của
mình, nghĩa là chúng ta phải thấy thật rõ chúng ta trong quan hệ
với vạn hữu. Cảnh quan như thật đó sẽ hiển bày ra trước mắt khi
tâm chúng ta phủ trùm và vượt lên trên vạn hữu như Thế Tôn đã
dạy qua các pháp thoại và qua chính cuộc đời mẫu mực và đầy sức
truyền cảm của ngài. Ngày nào mà chúng ta còn mang cái nhìn hạn
hẹp và giới hạn của cuộc sống hàng ngày, cuộc sống chúng ta sẽ
không có ý nghĩa gì hết. Nhưng người mà có được cái nhìn bao
trùm và xuyên suốt vạn hữu sẽ hiểu được cái vạn hữu phản ánh
trong tâm các vị đã chứng đắc và sẽ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc
đời này. Nhưng cái biết ưu việt thù thắng nhất nầy không thể
diễn đạt bằng ngôn ngữ bình thường của con người, ngoại trừ
những danh hiệu như Chánh Đẳng Giác (Samyaksambodhi) hay Niết
bàn mà đức Phật đã định nghĩa rất rõ là "không tham, sân và si,"
tương phản với lời giải thích trong Phạm thư của Ấn giáo, trong
đó khái niệm toàn giác hay Niết bàn chỉ là một thực thể siêu
hình và mờ ảo.
- Trong đạo
Phật, chúng ta không bao giờ đặt câu hỏi "Cuộc đời này tự nó có
ý nghĩa hay không?": Theo quan điểm Phật pháp, đây là một câu
hỏi vô nghĩa. Điều quan trọng trong việc thực hành chánh Pháp là
mỗi người chúng ta nên tạo cho cuộc đời mình một ý nghĩa riêng
biệt. Như qua bàn tay của một nghệ nhân giàu cảm hứng, khối đất
sét vô dụng có thể trở thành tác phẩm nghệ thuật vô giá, cũng
vậy, chúng ta có thể làm tương tự để biến khối "đất sét" của
cuộc đời mình thành một cái gì đó có giá trị, thay vì cứ than
vãn là cuộc đời nầy không có giá trị gì hết. Cuộc sống và thế
giới của chúng ta sẽ mang đúng cái "ý nghĩa" mà chúng ta gán cho
chúng và gửi gắm vào trong đó.
- "Con người
cũng bất tử như lý tưởng của họ và con người cũng thật như chính
năng lựơng mà họ dùng để phục vụ lý tưởng của họ.” Câu nói nầy
của triết gia người Đức Keyserling đã vạch ra đúng hướng.
-
Herman Keyserling
là triết gia Đức (1880-1946), nổi tiếng với tác phẩm Nhật ký du
lịch của một triết gia (1911). Ông nhấn mạnh nhu cầu phục hưng
đời sống tâm linh con người và xem nhẹ giá trị kinh viện trong
triêt học phương Tây.
- Những vấn đề
thuộc về giá trị và thực tại đều tùy thuộc vào thái độ và việc
thực hiện sáng tạo những lý tưởng của chúng ta chứ không phải
tùy vào cái"khách quan" [mà thật ra vẫn phải] dựa trên suy luận
nào cả.
- Do đó, nếu
chúng ta tôn kính những bậc giác ngộ và xem mục tiêu giác ngộ là
mục tiêu cao đẹp nhất của cuộc đời mình, chúng ta sẽ chủ động và
đem hết năng lực của mình sống theo gương các bậc giác ngộ trên
con đường Bồ Tát hạnh. Chúng ta sẽ ý thức ngay từ đầu là trên
đường Bồ Tát hạnh, chúng ta sẽ không có cơ hội để chạy trốn hay
tránh né các khó khăn và đau khổ. Con đường nầy đòi hỏi chúng ta
dốc toàn bộ năng lực tâm linh của mình, và sẵn sàng nhận lãnh sự
đau khổ của tất cả chúng sanh. Nhưng gánh vác đau khổ của chúng
sanh ở đây không có nghĩa là chúng ta cam chịu khổ đau để được
tiếng khen hay chịu kham khổ như một hình thức sám hối mà một số
nhà tu khổ hạnh của một số tôn giáo đã làm và đang làm. Đây là
một thái cực chúng ta cần phải tránh cũng như chúng ta cần phải
tránh một thái cực khác trong đó con người chỉ biết lo cho hạnh
phúc riêng của họ và chìm đắm trong dục lạc.
- Ở đây chúng
ta chỉ cần làm một việc. Đó là tập sống hòa nhập với tất cả
chúng sinh (Khái niệm này đồng nghĩa với Thể nhập thực tại trong
Thiền tông). Thái độ này không những giúp chúng ta tránh được
bịnh chỉ xem sự đau khổ của mình là quan trọng và cứ bám víu vào
nó (mà đìều này chỉ làm tăng trưởng bản ngã và bịnh tự ám ảnh
của chúng ta mà thôi); Thái độ sống hòa nhập với tất cả chúng
sanh còn giúp chúng ta khắc phục được tâm lý ngã mạn và làm nhẹ
đi nỗi đau khổ của mình trước cái khổ đau của người khác. Bằng
cách này một thời đức Phật đã chỉ dạy cho bà Kisà-Gotamì, người
bị điên loạn vì không thể chấp nhận cái chết của đứa con duy
nhất của bà. Để bà vượt qua khổ đau, đức Phật đã giúp bà thấy và
kinh nghiệm rằng cái chết là kinh nghiệm chung, mà tất cả chúng
sinh đều phải đi qua. Và qua đó, Ngài chỉ cho bà thấy là bà
không phải là người duy nhất hứng chịu nỗi đau khổ nầy, và những
ai có thể mở rộng tâm mình và chấp nhận nỗi đau đó, nỗi đau của
người đó tự nó đã vơi đi một nửa nếu không phải là toàn bộ.
- Khi đức Phật
dạy về sự diệt khổ, Ngài không hề nói đến việc ‘chạy trốn khổ
đau’. Theo truyền thống Phật giáo, nếu trốn tránh khổ đau là mục
đích của Đức Phật, thì Ngài có thể chọn con đường tắt đi đến
giải thoát, nằm trong khả năng của Ngài trong thời Ngài là đức
Phật Nhiên Đăng: Ngài không cần phải trãi qua vô số kiếp tái
sanh đầy đau khổ. Nhưng với trí tuệ, Ngài biết rằng chỉ những ai
đi qua sự thanh lọc của ngọn lửa khổ đau, vị ấy sẽ thành tựu quả
vị giác ngộ cao nhất trên con đường phục vụ chúng sanh. Con
đường của Ngài không phải để trốn tránh mà là để vượt qua và
chinh phục khổ đau. Đây là lý do vì sao Ngài cũng như các đức
Phật ra đời trước Ngài được mệnh danh là những "bậc chiến thắng"
(jina).
- Ngài và các
bậc đi trước Ngài đã khắc phục khổ đau bằng cách anh dũng đối
đầu với nó. Đối với người đang đi trên đường tiến đến quả vị
toàn giác, sự đau khổ không còn là sự lo buồn cá nhân và trăn
trở về hạnh phúc của riêng mình; sự đau khổ riêng của vị đó sẽ
ngày càng trở thành sự đau khổ chung và thuộc về bản chất của
tất cả chúng sanh. Chính trong tinh thần nầy mà tất cả những ai
muốn đi theo con đường thánh thiện của đức Phật đều phát lời thệ
nguyện Bồ Tát : ‘Với tất cả thành quả tâm linh được chứng
đắc, con nguyện xoa dịu khổ đau cho tất cả chúng sinh hữu tình.
Với tất cả thành quả tâm linh được chứng đắc trên cuộc đời, thể
hiện qua thân, khẩu, ý, con xin quên mình, hiến dâng tất cả,
nhằm mang lại sự an lạc và giải thoát cho tất cả chúng sanh.
Niết Bàn là từ bỏ tất cả, và tâm con thành khẩn mong đạt đến
Niết Bàn. Vì con phải từ bỏ tất cả, có phải tốt hơn chăng nếu
con cống hiến tất cả cho tất cả chúng sinh? – Con xin hiến dâng
cuộc đời mình cho hạnh phúc của tất cả chúng sanh. Hãy để họ phỉ
báng con, ném đất cát dơ bẩn vào con, và biến con thành đối
tượng chế nhạo của họ. Hãy để họ giết chết con theo ý của họ.
Con đã hiến dâng thân xác của con cho họ, thì tại sao con phải
lo âu về điều đó? Những người mắng chửi con, hãm hại con hay
nhạo báng con – con mong tất cả đều sẽ đạt quả vị giác ngộ.’
(Sàntideva, Bodhicaryàvatàra ,Tác giả chú thích)
- Việc thực
hiện lý tưởng Bồ Tát đòi hỏi chúng ta phải vượt qua tất cả giới
hạn hẹp hòi riêng của mình và thừa nhận những thực tại vượt khỏi
giới hạn cá nhân (và qua đó, thừa nhận những quyền năng vượt
khỏi giới hạn cá nhân) trong tâm thức của chúng ta. Như thế
những ai mong muốn thực hành bồ tát đạo, ngay từ lúc đầu cần
phải có một thái độ– đó là thái độ thoát khỏi sự ràng buộc của
bản ngã và hướng về cái chung phủ trùm vạn hữu. Những người chỉ
tìm cầu sự giải thoát cho riêng mình hay muốn trốn tránh khổ đau
bằng con đường ngắn nhất mà không quan tâm đến khổ đau của người
đồng loại, tự họ đã tước lấy khỏi tầm tay của họ nhũng phương
tiện cơ bản và cần thiết nhất để đạt đến mục tiêu giác ngộ. Chỉ
cần từ bỏ được những hoạt động nhỏ nhiệm và tinh tế nhất của bản
ngã và tu tập Tứ vô lượng tâm (brahmavihàras), Bồ Tát Đạo sẽ mở
ra thêng thang trước mắt chúng ta.
- Có hay không
một khả năng thật sự và khách quan để giải thoát toàn bộ thế
gian nầy? Đây không phải là vấn đề cần bàn cải. Ngay cả trong
suốt cuộc đời của Đức Phật, Ngài cũng đã không thành tựu được
điều này. Nhưng tư tưởng mang tính chung nhất và siêu việt nhất
của Ngài đã có tác động lâu dài khiến cho ngay ngày hôm nay nhân
loại vẫn cảm nhận sự có mặt của Ngài và tiến trình giải thoát
giác ngộ mà Ngài thuyết giảng cách đây 2,500 năm đã tiếp tục và
sẽ tiếp tục tác động đến thế gian này cho đến ngày nào mà vẫn
còn có người cần đến. Trong lãnh vực này, không phải vấn đề
thành tựu hay chứng đắc là quan trọng mà điều quan trọng là thái
độ tâm linh thấm nhuần lý tưởng Bồ tát, thể hiện ở việc mỗi cá
nhân sống với tất cả kiến thức và năng lực của mình, mà không
một chút dè dặt hay kiềm chế, trên đường đạt đến quả vị vô
thượng. Người đó luôn luôn ý thức là mỗi một cố gắng của họ là
phải nhằm đem lại an lạc cho tất cả chúng sanh. Và ngay cả lúc
mà chúng ta đạt đến cảnh giới hỷ lạc cao nhất (trong thiền
định), chúng ta cũng không ngừng làm việc vì lợi lạc tất cả
chúng sanh, vẫn tiếp tục chia xẻ niềm vui và nỗi buồn của họ, và
vạch ra con đường dẫn đến giải thoát cho họ.
- Kinh tạng
Phật giáo có ghi là ngay cả sự nhập diệt thầm lặng của một vị La
hán cũng mang lại phước lành cho đời và điều này quả là đúng
thật. Nhưng vì sao đức Phật đã từ giả cội cây Bồ đề [nơi Ngài đã
chứng đắc] để trở lại với cuộc đời và tự nguyện đón nhận những
phiền muộn, sống đời một tu sĩ khổ hạnh không nhà, nếu sự chứng
đắc tâm linh tối thượng của Ngài tự nó cũng đủ để Ngài tận dụng
tất cả khả năng phục vụ nhân loại? Phải chăng sự hy sinh vĩ đại
và tối thượng này của Đức Phật cho thấy Niết bàn tự nó vẫn không
được xem như là lý tưởng cao nhất trong đạo Phật?
- Khi thế giới
tâm linh của đạo Phật càng phát triển với những thành quả về các
mặt thực tiển, lý luận, và siêu hình của nó, dựa trên những
nguyên tắc nền tảng của Phật pháp, thì tư tưởng Niết bàn càng
lùi lại và nhường chỗ cho lý tưởng Bồ tát. Bởi vì Niết bàn là –
nếu chúng ta đi xa hơn định nghĩa Niết bàn là sự tận diệt của
tham, sân và si – một mục tiêu mà Phật giáo và các tôn giáo
hướng đến sự giải thoát ở Ấn độ thời đó đều nhắm tới. Nhưng lý
tưởng Bồ tát đã mang lại cho Phật giáo nét đặc trưng khác hẳn
với các hệ phái Ấn giáo khác và đã giúp đạo Phật vẽ vang vượt xa
khỏi biên cương Ấn quốc và trở thành một trong những sức mạnh
văn hóa và tinh thần lớn nhất của loài người.
- Sức mạnh của
lý tưởng Bồ tát – sức mạnh đã chinh phục vùng đất trên thế giới
mang tên Á Châu bằng con đường hòa bình chưa từng có trong lịch
sử loài người—bắt nguồn ở sức mạnh tổng hợp của tâm từ và tâm bi
mẫn vô biên dành cho vạn hữu và ý chí tầm cầu giác ngộ đã kêu
gọi và thôi thúc khối óc và con tim của mỗi con người biết suy
nghĩ độc lập. Trong bối cảnh này, cái kinh nghiệm mà chúng ta
gọi là Niết Bàn chỉ là một bộ phận của quá trình tiến tới giác
ngộ hoàn toàn, và vì thế nó nằm trong cái chung nhất của tất cả
kinh nghiệm giác ngộ. Bởi vì bản chất của sự toàn giác
(Samyak-sambodhi) không cho phép tính độc quyền, không phải là
sự thành đạt và cũng không phải là sự chiếm hữu. Nó tỏa sáng vô
biên và vô tận ở mọi phương, để tất cả chúng sanh đếu thọ hưởng
ánh sáng và sự ấm áp của nó, giống như mặt trời tỏa sức sáng và
ấm vô hạn tới tất cả những ai có thể thấy được ánh sáng, cảm
nhận được độ ấm và tiếp thu được năng lực đem lại sự sống của
mặt trời.
- Giống như mặt
trời tỏa sáng không phân biệt trên thế gian nhưng lại có tác
động khác nhau trên từng con người tùy mức độ tiếp thu và cởi mở
của mỗi người, tác năng diệu dụng của một đấng giác ngộ cũng
thế. Mặc dù tâm của vị ấy dung nạp không phân biệt tất cả chúng
sanh, nhưng vị ấy biết rằng không phải tất cả mọi người đềụ có
thể được giải thoát cùng một lúc: Hạt giống giải thoát mà vị ấy
gieo sẽ mang lại kết quả sớm hơn cho người này và muộn hơn cho
người khác tùy theo sự tiếp nhận hay thuần thục của những chúng
sanh khác nhau. Tuy nhiên, vì trong kinh nghiệm giải thoát không
có khái niệm thời gian và không gian, nên sự thành tựu của một
đấng giác ngộ cũng hàm chứa sự giải thoát của tất cả chúng sanh
đang trụ trong kinh nghiệm toàn giác (samyak-sambhodi) Điều này
bao gồm ý nghĩa là Phật tánh nằm trong tâm của tất cả chúng sanh
và đây chính là con đường hành trì lời phát nguyện của Bồ tát.
- Nhưng đối với
người chịu ảnh hưởng sâu sắc của bồ đề tâm, quyết tâm thệ nguyện
và chọn con đường lý tưởng Bồ tát, hình ảnh của đức Phật sẽ là
trọng tâm trong đời sống tôn giáo của vị ấy. Đối với vị này,
hình ảnh này là hiện thân của mục đích cao thượng mà mỗi người
đệ tử Phật có tránh nhiệm phải thực hiện.
- Nơi đây,
chúng ta sẽ không tìm thấy nội dung sâu thẵm của đạo Phật trong
khuôn khổ phi thời gian và phi không gian của tư duy trừu tượng
và cũng sẽ không tìm thấy đạo Phật như một giáo thuyết được
thiêng liêng hóa từ ngàn xưa. Trái lại, chúng ta sẽ tìm thấy đạo
Phật trong một mặt bằng cùng với nhịp độ phát triển và mở rộng
về không gian và thời gian của nó. Đìều này có nghĩa là chúng ta
sẽ tìm thấy đạo Phật trong sức sống ngày càng lớn mạnh về tư
tưởng, tình cảm, và trong sự trực diện của nó đối với cuộc đời –
nói ngắn gọn là chúng ta sẽ tìm thấy đạo Phật trong cái thể phổ
biến nhất của nó. Ở đây chúng ta không quan tâm đến những điều
mà các nhà biện tài triết học thường khuyến khích bàn cải như
vấn đề thế giới này có thật hay không có thật, thế giới bên
ngoài quan hệ với kinh nghiệm nội tâm như thế nào, hay có hay
không một ‘cảnh giới’ giải thoát hay ‘vô dư Niết bàn’. Cái hệ
quả duy nhất mà người đệ tử Phật trên con đường Bồ Tát hạnh có
được là nhận ra được sự thật rằng những gì mà chúng ta tìm cầu
để nắm bắt bằng trực giác qua các tên gọi như ‘Ba la mật’, ‘Giác
ngộ’ hay ‘Phật tánh’… thật ra đã một thời, có một người thật sự
thành tựu--Người đó là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và do
đó, bất cứ ai cố gắng đạt đến cùng một mục tiêu cao thượng này
ắt sẽ có ngày thành tựu.
- Nhưng, như
chúng ta đã thấy, con đường này không phải là một trong những
con đường trốn đời, mà trái lại, nó là con đường vượt lên trên
cuộc đời bằng cách phát huy sự hiểu biết và trí tuệ (prajna),
thực hành từ tâm (maitri), chia xẻ sâu sắc nỗi đau khổ và niềm
vui của người khác (karuna, mudita), đồng thời xả tâm đối với
những bất hạnh và hạnh phúc riêng của mỗi người. Người chỉ đường
và tấm gương để chúng ta noi theo trên con đường này chính là
đức Phật. Cho nên, dù giáo chủ của các trường phái khác nhau có
bàn cãi và tranh luận đến đâu đi nữa, còn gì chắc chắn đối với
chúng ta hơn là việc noi theo tấm gương của Bậc Đại Giác? Từ
cuộc đời mẫu mực của Ngài, chúng ta sẽ càng tin tưởng chắc chắn
là chúng ta cũng phát tâm và cũng sẽ thành tựu giác ngộ vô
thượng, nếu chúng ta biết phá vỡ những rào chắn chấp ngã cứng
chắc do chính mình tạo dựng và qua đó, giải thoát chúng ta ra
khỏi tất cả những sợ hãi. Tinh thần vô úy là đặc điểm nổi bật
nhất của tất cả các vị Bồ Tát và những ai đang đi trên Bồ tát
đạo. Đối với họ, cuộc sống không còn bị khủng bố đe dọa và nỗi
đau khổ cũng không còn gay gắt. Thay vì nguyền rủa cuộc sống
trần gian này hay lên án những "thíếu sót" của nó, họ đưa vào
cuộc đời một ý nghĩa mới.
- Họ đã ý thức
rằng lên án cuộc đời là xấu xa và từ bỏ nó, bác bỏ những khả
năng vươn đến những lý tưởng cao đẹp của con người, trước khi
con người có thể hiểu biết thấu đáo về cuộc đời, và trước khi
con người có thể phát huy trọn vẹn những khả năng nhận thức cao
nhất của mình và đạt đến sự khai ngộ, mà thực chất là hoa trái
và là sự thành tựu cao nhất của cuộc sống, là một hành động
không những kiêu mạn mà còn điên rồ nữa. Những ai đi ngược lại
con đường này giống như người cắn vào một trái cây chưa chín. Họ
quăng bỏ trái cây chưa chín đó rồi tuyên bố rằng tất cả các trái
cây loại này là không thể ăn được, thay vì chờ đến ngày trái
chín.
- Một nguy hiểm khác cần lưu ý. Do
diễn giải sai về giáo lý vô ngã, nhất là trong giới Phật tử ở
phương Tây, cá tính thường bị xem như một chướng ngại trên đường
hành Pháp, vì người ta thường đồng nghĩa sự phát triển của cá
tính với sự chấp thủ bản ngã. Ngoài sự kiện đức Phật được các
người đương thời tôn vinh là Mahàpurusa, nghĩa là một nhân vật
vĩ đại, có cá tính riêng, không thể nhầm lẩn với ai hết, và đứng
cao vượt lên trên những người cùng thời, các đại đệ tử và tín đồ
lớn của Ngài - những người đã chứng đạt quả vị giác ngộ cao
nhất, là những người đã phát huy cá tính của mình qua việc chứng
ngộ nội tâm. Dưới mắt chúng ta, họ là những thể hiện độc đáo của
kinh nghiệm tu chứng nội tại đầy sáng tạo.
- Trên con
đường Bồ tát hạnh, chúng ta phải tránh tất cả cực đoan và phụng
hành giáo lý của bậc Đạo sư bằng cách đi theo Trung Đạo. Do đó,
những người tìm cách đè nén những hoạt động và chức năng tự
nhiên của các giác quan thay vì cố gắng sử dụng chúng đúng đắn
cũng giống hệt như những người chìm đắm không biết kiềm chế
trong nhục dục. Họ sẽ không thành tựu quả vị thánh được. Người
chìm đắm trong nhục dục sống thấp hèn hơn con người, trong khi
người sống ức chế tình cảm chỉ là gỗ đá. Sự thánh thiện chỉ dựa
trên những đạo đức tiêu cực, trên sự tránh né hoặc ức chế, có
thể tạo ấn tượng trên người khác rằng đây là một mẫu mực về sự
tự tại và sức mạnh nội tâm. Nó có thể làm thân xác chúng ta tan
biến đi, nhưng sẽ không đưa chúng ta đến bờ giác ngộ, vì nó là
con đường dẫn đến sự chết và bế tắt về tâm linh. Đó là việc đánh
đổi con đường thoát khổ bằng chính giá trị cuộc sống và tia sáng
sống động nằm ngay trong tâm giác ngộ của mỗi người chúng ta.
- Lúc chúng ta
bắt đầu nhận ra tia sáng Bồ đề tâm này cũng là lúc chúng ta bắt
đầu con đường Bồ tát hạnh. Con đường nầy giải thoát chúng ta
khỏi khổ đau và những kềm kẹp của tự ngã và không buộc chúng ta
phải khước từ cuộc sống. Trái lại chúng ta sẽ thoát ly khổ đau
qua việc phục vụ người bạn sống bên cạnh chúng ta, cùng lúc với
việc tu tập để thành tựu quả vị giác ngộ tối thượng, bởi vì khi
tia sáng Bồ đề tâm bắt đầu chiếu rọi từ sâu thẳm tâm thức chúng
ta, nó sẽ khai mở một quá trình giác ngộ bằng cách chuyển hóa
những năng lực tiềm tàng và ẩn dấu bên trong chúng ta thành
những năng lực sống động, thẩm thấu và xuyên suốt. Từ đó, cuộc
đời chúng ta không còn là một cuộc chạy đua loanh quanh vô
nghĩa. Nhưng để chúng ta có thể đi sâu vào và tiếp xúc với những
tiềm lực đó, Đức Phật và các đại đệ tử của ngài đã chỉ con đường
giúp chúng ta nhìn thấu chiều sâu của tâm thức mình. Trong quá
trình thiền định, chúng ta sẽ hiểu ra rằng thế giới quan và sự
hiểu biết của chúng ta về thế giới nầy chính là sản phẩm của tâm
thức chúng ta. Điều này cho chúng ta thấy rằng thế giới mà chúng
ta đang sống tùy thuộc vào điều kiện tâm lý và tinh thần cá biệt
của mỗi người chúng ta; nói khác đi, chúng ta sống trong một thế
giới mà chính chúng ta đang sáng tạo ra trong từng giây phút và
vì thế, không ai khác hơn là chúng ta mới là người "xứng đáng"
thừa hưởng cái thế giới mà mình đã tạo tác.
- Do đó, chúng
ta không thể thoát ly khổ đau bằng cách chạy trốn khỏi thế giới
này mà chỉ bằng con đường thanh lọc tâm thức và quay về với nội
tâm của mình. Tuy nhiên, điều này chỉ thực hiện được nếu chúng
ta hiểu được bản chất của tâm và những năng lực vận hành trong
tâm mình. Rồi chúng ta sẽ nhận ra rằng cái tâm có khả năng nhận
ra ánh sáng của các vì sao ở cách xa chúng ta hàng triệu năm ánh
sáng cũng tuyệt vời như chính bản chất ánh sáng của các vì sao
đó. Và chúng ta sẽ thấy rằng cái ánh sáng nằm ẩn sâu trong tâm
thức chúng ta sẽ còn kỳ diệu và vĩ đại hơn nhiều! Đi xuyên qua
chiều sâu của tâm thức để đánh thức cái tâm thăm thẳm ấy trong
chúng ta-- Đây chính là mục đích của con đường tỉnh thức giải
thoát và giác ngộ (bodhisattvamarga). Con đường xuyên qua tâm
thức và trực chỉ Phật tánh trong mỗi người của chúng ta.
- Nếu những
nhóm người nào đó trong giới Phật giáo chính thống đến ngày hôm
nay vẫn cho rằng phải trải qua mấy ngàn năm mới có một cá nhân
đạt quả vị toàn giác, thì việc theo đuổi mục tiêu giải thoát nầy
là hoàn toàn vô ích, và tư tưởng này chỉ là lời thú nhận về cái
tâm linh nghèo nàn và giáo điều cứng nhắc của họ. Một tôn giáo
mà chỉ hướng về một quá khứ hay tương lai xa vời nào đó không
thể có giá trị cho cuộc sống hiện tại. Cũng vậy, giáo Pháp khi
bị tách rời khỏi nhân cách sống động của đức Phật, sẽ không còn
chất người và trở thành một hệ thống của những giá trị tiêu cực
và ‘những trường hợp đặc biệt’ mang tính khoa học giả tạo. Trong
một hệ thống như vậy, kinh nghiệm thiền định dễ trở thành một
công việc thuần phân tích không lành mạnh và đầy nguy hiểm trong
đó mỗi thực thể sống động bị mổ xẽ và chia cắt nát vụn hay trở
thành chức năng là hợp thể của một cơ chế không còn cảm giác.
- Một người đi
trên con đường của Bồ tát sẽ tránh được nguy hiểm này mà không
rơi vào cực đoan khác. Sống thể nhập thực tại, vị này sẽ nhận ra
tính vô thường và duyên khởi của tất cả các hợp thể và sẽ không
quay tâm lại với những đau khổ của cuộc sống. Vị ấy sẽ ý thức
rằng sự già cỗi, bịnh tật và chết chóc là quy luật của cuộc sống
và sẽ không tìm cách ức chế các hiện tượng này ngay trong tâm
thức của mình. Vì lý do này mà các bậc thầy thuộc Kim cang thừa
thưòng chọn các nhà mồ hoặc các nơi hỏa thiêu để thiền định. Họ
làm điều này không phải để ghê tởm tránh xa mà để làm quen với
tất cả khía cạnh của cuộc sống, trong đó sự vô thường phải được
xem như một tiến trình tự nhiên và không bị những xúc động tình
cảm bóp méo.
- Họ cũng tìm
đến các nhà mồ và các giàn hỏa táng, nơi mà người đời thường
kinh hãi hay ghê sợ xa lánh để không bị quấy rầy và có thể tập
trung thiền định. Hơn thế nữa, đối với những đệ tử của họ, đây
là nơi luyện tập để vượt qua những cảm giác ghê tởm và sợ hãi,
đạt đến tâm xả bỏ và có cái nhìn như thật về cuộc đời. Kinh tạng
dạy rằng chính đức Phật đã từng thổ lộ là trong suốt quá trình
tu tập, Ngài thường chủ tâm tìm đến những nơi hẻo lánh và đầy
nguy hiểm như vậy để tập khắc phục nỗi sợ hãi trong tâm. Việc
lân la ở những nơi đầy chết chóc như vậy – cũng như việc quán
niệm quá trình thối rửa của thi haì và các đối tượng gây kinh
tởm và ghê sợ khác – chỉ có ý nghĩa nếu nó giúp người hành thiền
khắc phục nỗi sợ hãi, nhìn thẳng vào sự thật đang hiện hữu và
biết được thực chất của các hiện tượng với cái tâm không còn
chút tham cầu hay sân hận.
- Nhưng mục
đích của sự quán niệm (các xác chết và đối tượng ghê tởm) nầy sẽ
thất bại hoàn toàn nếu người quán chiếu không thể quét sạch
những cảm giác ghê tởm, khiếp đảm và sợ hãi ra khỏi tâm mình.
Dùng tình cảm ghê tởm để xua đuổi lòng tham dục chẳng khác nào
xua đuổi quỷ Satan bằng ma Beelzebub.
-
Trong văn học tôn
giáo phương Tây, Beelzebub là hoàng tử của thế giới ma quỷ.
Trong tác phẩm nổi tiếng Thiên Đàng Bị Đánh Mất (Paradise Lost)
của văn hào Anh John Milton (1608-1674), Beelzebub là một thiên
thần phạm tội và trở thành ác quỷ, đứng hàng thứ nhì sau quỷ
Satan
- Có thể ít ai
trong chúng ta sợ hãi khi nhìn lá rơi hay những đóa hoa khô héo
. Và niềm vui khi nhìn thấy muôn hoa đua nở không sút giảm dù
chúng ta biết là hoa sẽ úa tàn. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết là
những lá hoa mềm mại nầy rồi sẽ bị hoại diệt, chúng ta sẽ càng
yêu quý chúng hơn khi chúng đang đâm chồi nở nụ. Điều này cũng
giống như cuộc đời vô thường nầy, mỗi phút phù du trôi qua đều
mang trong nó một giá trị đặc biệt. Và chính vì lý do nầy mà
theo học thuyết của Kim Cang thừa, mỗi người chúng ta có trách
nhiệm biến thân xác hoại diệt của mình thành một nơi không gì có
thể hủy hoại được-- Đó là ngôi chùa tâm linh trong mỗi người
chúng ta.
- Trong Kim
Cang thừa, quá trình chuyển hóa này được thực hiện bằng cách
quán chiếu hình ảnh của các vị hiền thần và phẩn nộ thần mà Kim
Cang Thừa gọi là các vị đại Bồ tát. Khi người quán chiếu càng
đồng hóa mình với các vị đại Bồ Tát nầy, niềm hỷ lạc sẽ xuất
hiện trong tâm của họ. Trong quá trình tập trung thiền định sáng
tạo, người hành thiền tạo bên trong họ một vùng sức mạnh tâm
linh có thề vượt khỏi tầm mức của một kinh nghiệm cá biệt, tác
động vào ngoại cảnh và qua đó, tạo sự thay đổi trong chính bản
thân của họ.
- Khi hình ảnh
của các vị đại bồ tát trở thành sống thật với chính chúng ta
trong quá trình thiền định, chúng ta gọi các vị ấy là Bồ tát
thiền định (Dhyani-bodhisattvas).
-
Bodhi là giác ngộ;
sattva là bản chất hay thực thể; dhyana là thiền định.
Dhyani-bodhisattvas là bản chất giác ngộ đạt được hay thấy được
trong lúc hành thiền. (Tác giả chú thích)
- Mỗi vị trong
số các Bồ tát như đức Quan Âm, Văn Thù hay Di Lặc là hiện thân
cụ thể của một đức tính đặc biệt nào đó của lý tưởng Bồ Tát. Bởi
vì cũng như con người, các cá nhân có thể có cùng lý tưởng và
quan điểm nhưng cá tánh vẫn khác nhau, các vị bồ tát cũng thế.
Dù các ngài đều là hiện thân của lòng từ, tâm bi, giàu tình nhân
ái, có khả năng thấy cùng khắp, và biết tất cả, tuy nhiên, các
ngài thể hiện tâm giác ngộ này bằng nhiều cách độc đáo khác
nhau.
- Tất cả các
ngài đã kết hợp nhuần nhuyễn đến mức tuyệt hảo tâm đại bi
(upaya) và trí tuệ Bát nhã (prajna), nhưng các ngài khác nhau
trong cách dụng công.
-
Upaya là tình cảm
dung nạp và san sẻ khổ đau với tất cả muôn loài
- Điểm chung
của các ngài là khả năng thấy đưọc bản chất thống nhất của vạn
thể. Khả năng nầy có được là nhờ các vị có thể đặt mình vào vị
trí của ngưòi khác (Tha tâm thông). Bất cứ ai đã đi qua còn
đường Bồ tát hạnh bằng cách quán chiếu và đồng hóa mình với các
đức tánh Bồ tát, đó là người được giải thoát và tự do. Người đó
không những chỉ 'thánh thiện' hay 'thoát khỏi phiền não chướng’
theo nghĩa tín ngưỡng thông thường chỉ là được cứu khổ -- họ
chính là người đạt được quả vị toàn giác và tâm thức đã hòa vào
bản thể tuyệt đối. Bước nhảy vọt vào vùng tâm thức giải thoát
này có nghĩa là vị đó đã vượt qua mọi giới hạn cá nhân và đã
chứng ngộ được những thực tại vượt khỏi tầm mức cá nhân trong
tâm mình. Và vì kinh nghiệm chứng ngộ này là kinh nghiệm bao
trùm và phổ quát nhất mà tâm thức con người có khả năng đạt đến,
nó đòi hỏi chúng ta ngay từ đầu một thái độ cơ bản--Đó là mở
rộng tâm vô biên của chúng ta đến với cái phổ quát tận cùng của
cuộc sống.
- Một lần nữa
chúng ta hãy cùng nhau nhớ lại bài pháp đầu tiên của Đức Phật
tại vườn Lộc Uyển gần Vàràịasi, trong đó Ngài đã thuyết về Sự
Giác Ngộ Tối Thượng (Anuttara samma-sambodhi, Hán dịch là A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề) mà không nói về một Niết bàn trong
nghĩa tiêu cực của nó tức là chỉ gồm sự đoạn diệt các lậu hoặc
(Asravas) và khổ đau. Khái niệm Niết bàn khi được đề cập đến ở
đây đều có nghĩa là hệ quả của Sự Giác Ngộ Tối Thượng nầy.
- Chúng ta cũng
phải ghi nhớ rằng những gì mà đức Phật đã giảng và diễn tả bằng
lời chỉ là một phần nhỏ của những gì Ngài đã dạy qua nhân cách
và tấm gương của Ngài. Mà ngay cả những lời dạy cùng với nhân
cách vĩ đại ấy cũng chỉ phản ánh một phần nhỏ kinh nghiệm tâm
linh của Ngài. Đức Phật rất cảnh giác về giới hạn của ngôn ngữ
ngay từ lúc đầu khi ngài do dự không muốn tuyên bố giáo lý của
mình và diễn đạt nó bằng lời. Bởi vì Ngài nhận định là những gì
Ngài đã thấy là ‘thậm thâm, khó hiểu, khó nhận ra, không dễ nắm
bắt bằng hiểu biết suông’. Và khi cuối cùng Ngài quyết định
thuyết giảng chân lý vì lòng thương tưởng đối với một số ít
người mà 'mắt còn dính chút bụi mờ’, Ngài đã thận trọng không
nói về ‘những điều tối hậu nầy’.
- Ngài đã từ chối trả lời những
câu hỏi liên quan tới lãnh vực siêu hình trong nhận thức tâm
linh, và cũng yên lặng về những vấn đề vượt ngoài tầm hiểu biết
của con người. Ngài không làm bạn với loại tư duy suy đoán biện
tài. Ngài chỉ giới hạn ở việc chỉ ra con đường chúng sanh có thể
đi và con đường có khả năng giúp chúng sanh giải quyết tất cả
vấn đề thuộc về thực chất. Ngài trình bày con đường này sao cho
nó thích nghi với khả năng trí thức và tình cảm của người nghe.
Ngài hướng dẫn học trò mình theo trình độ phát triển của từng
người, và chỉ truyền lại những phần sâu sắc hơn của giáo Pháp và
những lời chỉ dẫn hành thiền thâm diệu hơn cho một nhóm giới hạn
gồm các đệ tử có trình độ cao hơn của Ngài.
- Những trường
phái Phật giáo về sau nầy vẫn trung thành với nguyên tắc nầy. Họ
điều chỉnh các phương pháp dạy giáo lý và thiền định sao cho hợp
với nhu cầu của cá nhân và điều kiện phát triển lịch sử của thời
đại. Và cũng giống như chính đức Phật đã hướng dẫn đệ tử của
Ngài theo những cách khác nhau tùy theo sự trưởng thành về tâm
linh của mỗi ngườiﬠdạy cho họ những cách hành trì khác nhau,
những trường phái sau này đã dành những phần phức tạp hơn trong
giáo lý và những bài tập thiền định tương ứng cho những ai đã
phát triển được những kiến thức và thiện xảo cần thiết.
- Những phương
pháp hướng dẫn dạy dỗ cao cấp nầy về sau được gán tên là bí
truyền hay giáo lý ‘mật’. Nhưng phương pháp tu tập nầy hoàn toàn
không có ý định ngăn cản bất cứ ai đạt đến những trình độ nhận
thức cao hơn. Ngược lại, phương pháp này chỉ nhằm mục đích tránh
những hý luận vô ích và những suy đoán mò mẫm dễ đưa những người
còn sơ cơ đến chỗ chỉ mong đạt đến những trạng thái chứng ngộ
cao hơn bằng con đường thuần tri thức mà không chịu khó đi qua
con đường tu tập thiền định. Vì sự mong mỏi đạt đến những kinh
nghiệm tâm linh thuần trí thức có thể dễ dàng đưa hành giả thiếu
kinh nghiệm đến chỗ cho rằng chỉ có hiểu biết thuần lý là cần
thiết, và điều này sẽ ngăn chặn quá trình thiền định mà chỉ có
kinh nghiệm thiền định nầy mới giải phóng được nguồn năng lực
cần thiết đưa đến sự chuyển hóa trong tâm thức con người.
- Ngày nay bất
cứ ai mong cầu đi theo con đường Bồ tát hạnh phải theo dấu chân
của đức Phật, tập giữ tâm mình luôn khai mở qua việc thực hành
chánh niệm liên tục. Vị ấy phải tự mình rèn luyện, qua việc
hướng tâm và quán tưởng về đạo (vtarka-vicara, tầm tứ), xem xét
kỹ lưỡng và tìm hiểu đúng sai trong khi học pháp (dharmavicaya,
trạch pháp), không chấp thủ (viveka), đạt được trí tuệ và hiểu
biết bằng trực giác (Jnana và vidya, tuệ và minh), qua việc giử
gìn giới luật dựa trên trách nhiệm cá nhân (sila, giới;
paramitas, ba la mật; brahmaviharas, tứ vô lượng tâm), qua lòng
tận tụy tôn kính và siêng năng lễ Phật (puja), thiền định
(samatha, chỉ; vipasyana, quán; smrti, niệm; bhavana, quán
tưởng; dhyana, thiền na; samadhi, định), để tránh bị lệch lạc,
và tận lực công phu để đạt đến sự hợp nhất và chuyển hóa trong
nội tâm hầu có một nhân sinh quan đủ rộng mở để có thể thấu đáo
bao quát và toàn bộ về cuộc sống con người. Bằng cách phát triển
bề sâu tâm thức, vị ấy sẽ có thể nhìn thẳng và sâu vào lòng của
mọi hiện tượng, và trong cuộc sống, vị ấy có thể sử dụng và biến
bất cứ hoạt động nào của thân tâm mình thành một bước tiến lên
trên con đường giác ngộ.
- Trong giai
đoạn đầu chuẩn bị cho lộ trình giác ngộ này mà cũng là giai đoạn
khởi động các năng lực trí thức và tình cảm của hành giả, hành
giả sẽ dùng tư duy lý luận sáng suốt của mình để điều chỉnh tâm
và làm nền cho kinh nghiệm trực giác nẩy nở. Vị ấy sẽ biến năng
lực tình cảm của mình thành sức mạnh của hành động toàn tâm
hướng về mục tiêu giải thoát. Vị ấy sẽ làm chủ tâm ý bằng cách
nắm vững những quy luật tư duy để rồi sau đó vượt qua biên giới
của suy luận và tư duy, toàn tâm toàn ý tìm tới một trạng thái
tâm thanh tịnh và tỉnh thức đối với tất cả chúng sinh đau khổ.
Rồi một ngày nào đó, tâm bồ đề (bodhicitta) sẽ tự nhiên xuất
hiện. Và rồi trong con người mà nhân cách đã đủ cao đẹp đó sẽ
thình lình xuất hiện một con người mới với tâm ý duy nhất là làm
sao giúp loài người "hoàn toàn" thoát khỏi đau khổ. Rồi tất cả
những buồn phiền, dằn vặt và thống khổ riêng tư của người ấy
dường như không còn quan trọng nữa. Tâm thức của vị ấy chỉ còn
một ao ước duy nhất: làm sao cho tất cả chúng sanh này được giải
thoát và hạnh phúc.
- Kinh nghiệm
tập trung hướng về một mục tiêu duy nhất -- mục tiêu giải thoát
tất cả chúng sinh -- và buông bỏ tất cả những ước vọng khác sẽ
tác động sâu sắc trên cuộc đời vị ấy. Ngay cả khi kinh nghiệm
nầy trôi qua và tắt đi như âm thanh của tiếng chuông chỉ vang
lên một lần, và khi tác động của nó trên cuộc đời nầy chìm sâu
vào quên lãng, nó vẫn tiếp tục là nguồn năng lượng chỉ đạo và
mang tính quyết định trong đời sống nội tâm của hành giả.
- Nhưng chúng
ta không thể cảm nhận được trạng thái "vô ngã" này chỉ thuần
bằng cách chấp hành giới luật và phát nguyện, ngay cả khi chúng
ta phát nguyện 18 lời nguyện căn bản và 44 lời nguyện phụ. Những
công thức, quy ước, lời phát nguyện và nguyên tắc luôn là sản
phẩm của thời mạc Pháp trong đó kinh nghiệm chứng ngộ nội tại
không còn nữa, và để bù lại, con người thường dựa vào hình thức
và nghi lễ. Và như thế, với mỗi nghi thức, chúng ta chỉ dựng
thêm những bức tường dày hơn bao quanh cái nhà tù tự ngã được
xây lên bằng khát vọng được sống an toàn và ổn định của chúng
ta. Để rồi cuối cùng chúng ta sẽ không còn chỗ để vùng vẫy.
- Nếu trong thế
giới này có một chất liệu nào đó có khả năng chuẩn bị cho lộ
trình của bồ đề tâm, thì chất liệu đó không gì khác hơn là sự mở
rộng và đồng cảm đầy tình thương và hiểu biết với muôn loài,
không phải để chiếm hữu hay mong cầu bất kỳ phần thưởng nào, dù
là nhỏ nhiệm và vi tế, và càng không phải để ‘tạo ra phước đức’.
Việc làm vị tha với tâm an tịnh vì lòng từ, tâm bi mẫn và chia
xẻ niềm vui với tất cả chúng sanh – đây là chìa khóa duy nhất.
Và bất cứ ai có thể yêu thương bất kỳ một chúng sanh nào mà
không đòi hỏi hay có những ý đồ ích kỷ– người đó, qua tình
thương đối với một chúng sanh, sẽ có khả năng thương yêu tất cả
muôn loài, và qua đó, có thể phát Bồ đề tâm, hay nói đúng hơn,
làm cho Bồ đề tâm nẩy mầm và hiển lộ. Và rồi có lẽ vị ấy sẽ thốt
lên những lời tương tự như Bồ tát Santideva đã một lần thệ
nguyện:
- Con nguyện
mang trên con gánh nặng của tất cả sự đau khổ.
- Con quyết
tâm mang lấy nó
- Con sẽ
không thối lui.
- Con sẽ
không chạy trốn hay run sợ
- Con sẽ
không nhường bước hay do dự.
- Vì sao? Vì
cứu độ tất cả chúng sanh là lời phát nguyện của con.
- [Shantideva,
Bodhicaryavatara (Tác giả chú thích)].
-
-
Tổ dịch thuật Trúc Lâm
-
Tổ dịch thuật Trúc Lâm (TDTTL)
là nhóm dịch thuật gồm một số tăng, ni, và cư sĩ Phật giáo. Mục
đích chính của TDTTL là giới thiệu những tác phẩm Phật học có
giá trị về kinh nghiệm tu tập cũng như về giáo lý Phật pháp của
các tu sĩ Phật giáo và tác giả Phật học phương Tây với đọc giả
Việt Nam. TDTTL rất mong nhận được sự góp ý và chỉ giáo của quý
bạn đọc. Địa chỉ email:
lotus@colba.net Xin chân thành cám ơn.
-
-
- --o0o--
|
|