|
BỒ TÁT HẠNH
- QUÁN ÂM
DIỆU PHÁP
- Thích Giác Nhàn biên soạn
- --o0o--
-
- Một niệm
Quán Âm dứt niệm sầu,
- Ngân vang
Bồ Tát hết khổ đâu.
- Tâm hồn
thanh tịnh không còn vọng,
- Tu niệm
Quán Âm thật nhiệm màu.
-
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM
BỒ TÁT.
-
-
Trong mỗi năm nhiều chùa
thường làm lễ kỷ niệm Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhằm ba
ngày âm lịch.
- 1-Ngày 19 – 2
- 2-Ngày 19 – 6
- 3-Ngày 19 –
9
- Vậy giờ đây
xin lần lược trình bày về ý nghĩa danh hiệu, sự tích, hạnh
nguyện, ảnh hưởng lý do cảm ứng và lợi ích xưng niệm hồng danh
của Ngài để hiểu rõ thêm về đức tánh Đại Bi và công đức thù
thắng của Bồ Tát Quán Thế Âm mà chư Phật tử thường thành kính
xưng niệm.
-
I. Ý NGHĨA DANH
HIỆU
- Cũng như phần
nhiều danh hiệu của chư Bồ Tát khác. Danh hiệu Đại Bi Quán Thế
Âm là danh hiệu của Bồ Tát hằng cứu khổ, danh hiệu này do nghiệp
nhân tu hành và hạnh nguyện độ sanh mà thành tựu.
-
1. ĐẠI BI.
- Là lòng
thương cứu khổ không bờ bến, thương người như thương mình, cứu
người như cứu mình một cách bình đẳng, vô tư sáng suốt không bị
thời gian chi phối, không bị không gian ngăn cách, không phân
biệt giống nòi, người hay vật, không phân biệt giàu sang hay
nghèo hèn, không phân biệt trí tuệ hay ngu si và không phân biệt
người ân hay kẻ oán.
-
2. QUÁN.
- Nghĩa là quán
sát, xem xét
-
3. THẾ.
- Nghĩa là
tiếng tăm trong thế gian
-
4. BỒ TÁT.
- Nói cho đủ là
Bồ Đế Tát đỏa tức là giác hữu tình, nghĩa là bậc hữu tình đã
giác ngộ và trở lại giác ngộ các loài hữu tình khác.
- Vậy Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Đại Bồ Tát có lòng thương rộng lớn,
thường quán sát tiếng kêu cầu đau khổ của chúng sanh trong thế
gian mà thị hiện cứu độ.
- Bồ Tát Quán
Thế Âm không giong ruổi theo âm thanh động tịnh bên ngoài như
phàm phu. Trái lại Ngài dùng trí huệ thanh tịnh quán sát cái tự
tánh bên trong mà chứng được bản thể vũ trụ. Do đó Ngài chúng
được “ Nhĩ căn viên thông” mà khắp trong hoàn vũ không có âm
thanh nào mà ngài không nghe, không có tâm niệm nào mà Ngài
không thông và không có tiếng tăm nào mà Ngài không hiểu.
- Kinh “Ngũ Bách Danh”
cho biết Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có tất cả 500 danh hiệu đều là
hoá thân của Ngài. Vì chứng được lục căn hỗ dụng (nghĩa là sáu
căn có thể thay thế lẫn nhau, như mắt có thể nghe, tai có thể
thấy và lưỡi có thể ngửi.vv)
- Phổ Đà Lạc
già thường nhập định,
- Tuỳ duyên phó
cảm mị bất châu.
- Tầm thinh cứu
khổ độ quần mê,
- Thị tắt danh
vi Quán Tự Tại
- Tạm dịch.
- Trên núi
Phổ Đà Thường nhập định,
- Tuỳ duyên ứng
hiện khắp gần xa.
- Tầm thinh
cứu khổ độ quân mê,
- Vậy nên gọi là
Quán Tự Tại.
-
II. SỰ
TÍCH
- Về sự tích của Bồ
Tát Quán Thế Âm thì nhiều kinh sách tường thuật tiền thân của
Ngài như sau.
- Nguyên Ngài là một
vị Cổ Phật vì nguyện lực Đại Bi mà thị hiện làm Bồ Tát trải qua
vô lượng vô số kiếp để cứu độ chúng sanh đâu thương trong biển
khổ trầm luân.
- Trong kinh
Lăng Nghiêm chính Ngài cũng nói: “Tôi nhớ về vô số kiếp như các
sông hằng về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như
Lai. Lúc bấy giờ tôi phát Bồ Đế tâm trước đại hội, Như Lai liền
dạy tôi nên từ tam học “Văn, Tư, Tu” mà chứng nhập “chánh định”
Sau cùng đức QuánThế Âm Như lai khen ngợi tôi khéo chứng được
pháp môn”Viên Thông” và thụ ký cho tôi tên là Quán Thế Âm, vì
tôi nghe tiếng trong mười phương được thông suốt.
- Kinh “ Thiên
thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm” ghi rằng: “Thuở đời quá khứ,
từ vô lượng kiếp nhẫn lại đay, Quán Thế Â m Bồ Tát đã thành Phật
hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì nguyện lực đại bi nên
hiện thân Bồ Tát tu tập không biết bao nhiêu pháp môn Đà La Ni
để tiêu tai giải ách và tăng trưởng phúc huệ cho chúng sanh. Lúc
đức Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai ra đời có thuyết chú Đại
Bi, Đức Quán Thế Âm nhờ nghe thần chú mà đương ở bậc sơ địa Bồ
Tát, vượt chứng lên Bát địa Bồ Tát, thân tâm hoan hỷ,phát nguyện
rộng lớn thọ trì thần chú, độ thoát chúng sanh, nhơn từ đó tự
thân sanh ra ngàn tay ngàn mắt. Vì thế chú Đại Bi mà chúng ta
hằng ngày trì tụng có tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm
Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni”
- Kinh Bi Hoa
thuật rằng: Hằng hà sa số kiếp về trước. Ngài là Thái Tử Bất
Thuấn ( có nơi nói là Bất Huyến) con Vua Vô Tránh Niệm. Thời ấy
có Đức Bảo Tạng Như Lai tại thế, vua và Thái Tử nghe Phật thuyết
pháp am hiểu giáo lý cao siêu hoan hỷ phát nguyện tu hành. Sau
vua Vô Tránh Niệm thành Phật A Di Đà và Thái Tử Thành Bồ Tát
Quán Thế Âm ở cõi Cực Lạc.
- Theo kinh Quán Thế
Âm Bồ Tát thụ ký, thì vô lượng kiếp sau khi Phật A Di Đà nhập
diệt, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là “Nhất Thiết Chân Bửu Sở Thành
Tựu” càng thêm tốt đẹp hơn trước. Và Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành
Phật hiệu là “Biết Xuất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như
Lai”
- Lại nữa,
trong kinh Quán Âm tam muội Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Cổ Phật và xưa kia chính Đức Thế
Tôn đã từng làm đệ tử của vị Cổ Phật ấy.
- Vài đoạn lịch
sử trên chi là một phần nhỏ trong kinh sách. Ngoài ra còn nhiều
truyền thuyết đã nói về sự tích của Ngài được chuyền bá phổ cập
trong nhân gian, như truyện:
- Quán Âm Thị
Kính
- Quán Âm Diệu
Thiện. Vv.
-
III- HẠNH NGUYỆN
- Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị
Phật bổ xứ. Ngài se thay thế đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực
Lạc. Cũng như Bồ Tát Di Lặc sẽ thay thế Đức Phật Thích Ca giáo
hoá chúng sanh trong cõi Ta Bà về tương lai.
- Bồ Tát Quán
Thế Âm tượng trưnh cho đức tánh Đại Bi , cũng như:
- * Bồ Tát Di Lặc
tượng trưng cho đức tánh Đại Từ.
- * Bồ Tát Văn Thù
tượng trưng cho đức tánh Đại Trí,
- * Bồ Tát Phổ Hiền
tượng trưng cho đức tánh Đại Hạnh,
- * Bồ Tát Thế Chí
tượng trương cho đức tánh Đại Hùng.
- Tất cả hạnh
nguyện của Đức Quán Thế Âm đều xuất phát ở lòng Đại Bi là một
thể có hai dụng:
- 1-Độ thoát
chúng sanh khổ não
- 2-Phát sanh
trí giác Bồ Đề.
- Ngài là một
pháp thân đại sĩ đã nhập thể Đại Bi, Ngài là hiện thân của Đại
Bi, Ngài là vị Đại Bi giáo chủ, phát nguyên rộng lớn phước tướng
trang nghiêm như bốn câu kệ sau đã tán duơng.
- Khể thủ Quán
Âm Đại Bi chủ
- Nguyện lực
hồng thâm tướng hoả thâm
- Thiên tý
trang nghiêm phổ hộ trì
- Thiên nhãn
Quang Minh biến quán chiếu
- Tạm dịch:
- Kính lạy
Đức Đại Bi Quán Âm
- Nguyện lực
hồng thâm tướng hảo thân
- Ngàn tay
trang nghiêm khắp hộ trì
- Ngàn mắt
sáng ngời khắp soi xét
- Do nhân tu pháp “Nhĩ
Căn Viên thông” Đức Quán Thế Âm nhập thể Chân Như chứng được
chân tâm thanh tịnh sáng suốt viên mãn khắp mười phương thế
giới, nên được hai món công đức thù thắng:
- 1 Trên hiệp
với đức từ độ sanh của chư Phật,
- 2 Dưới hiệp
với lòng bi ngưỡng mộ của chúng sanh trong sáu đường
- Nhờ chứng
được đồng thể với chư phật, Ngài hiện ra 32 ứng hoá thân để tuỳ
thuận theo chúng sanh mà hoá độ.
- Nhờ chứng
được đồng thể với chứng sanh, mà Ngài ban cho muôn loài 14 món
vô uý (tức là 14 món không sợ hãi).
- Ngoài ra đứcQuán Thế
Âm Bồ Tát còn được 4 món bất tư nghì vô tát diệu lực (tức là bốn
đức màu vô tát diệu lực không thể nghĩ bàn)
- 1- Hiện nhiều
đầu, nhiều tay và nhiều mắt để cứu độ chúng sanh, khiến cho đặng
tự tại.
- 3-
Hiện hình nói thần chú để bố thí không sợ.
- 4-
Khiến chúng sanh bỏ tâm tham lam mà bố thí cúng dường
- 5-
Khiến chúng sanh cầu chi được nấy(vợ con, trường thọ,
chánh định, Niết Bàn).
- Nguyên Ngài
là một vị Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì thương
sót chúng sanh chìm đấm trong bể khổ, nên Ngài dùng phương tiện
hiện thân thành Bồ Tát, thệ nguyện rộng lớn độ tận chúng sanh
khắp mười phương thế giới, từ địa ngục lên cung trời, từ Ta Bà
sang Cực lạc, từ Cực Lạc sang thế giới Tịnh Lưu Ly. Đâu đâu cũng
có hoá thân của Ngài dưới mọi hình tướng cứu độ muôn loài.
- Phổ môn
thị hiện khắp,
- Cứu khổ
tầm thinh độ thế gian.
- Một niệm
từ bi năng thuyết pháp,
- Vớt người
thoát khỏi chốn mê tân.
- Tuỳ cơ cảm
ứng thân hình hoá,
- Tứ hải
chúng sanh đặng độ an.
- Ách nạn
khổ nguy thường cứu giải,
- Đời đời
chẳn vướng tám tai nàn.
- Hình tượng
của Ngài thường thờ hoá thân phụ nữ. Biểu hiện lòng từ bi quảng
đại của Ngài đối với chúng sanh mẹ hiền thương con vậy. Khi thấy
Ngài một tay cầm nhành dương liễu, một tay bưng bình cam lồ, đó
là hình ảnh tượng trưng Bồ Tát luôn luôn tế độ quần sanh rẩy
nước cam lồ dặp tắt lửa hiền não, đem lại an lạc cho muôn loài.
- Pháp Bồ
Tát cao siêu huyền diệu
- Quán Thế
Âm diệu lực hoá thân
- Nhành
dương quét sạch phược trần
- Tịnh bình
cam lộ giải tan não phiền.
- Khi chiêm
ngưỡng hình ảnh đức Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi nhập định nơi pháp
toà tại rừng trúc núi Phổ Đà, hình ảnh ấy cho biết rằng tuy tuỳ
duyên thuyết pháp để hoá độ chúng sanh nhưng Ngài vẫn không rời
Pháp toà chánh định.
- Lại có thấy Bồ Tát
đi trên hoa sen giữa biển cả ba đào, hình tượng ấy biểu hiện
biển đời đau khổ đầy sống gió, nhưng Ngài vẫn tự tại luôn luôn
và hoan hỷ cứu vớt muôn loài, không bao giờ từ bỏ một chúng sanh
nào trong hiểm nghèo.
- Trí tuệ
rộng sâu đại biện tài
- Ngự toà
sen báu tuyệt trần ai
- Hào quang
chiếu phá muôn ngàn bệnh
- Cam lồ
tiêu trừ vạn kiếp tai
- Bi tâm của
Ngài rộng lớn vô cùng, phương tiện của Ngài thiện sảo vô tận.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ngớt tán thán hạnh nguyện của Bồ
Tát Quán Thế Âm trong phẩm phổ môn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
một bộ kinh đại thừa cao siêu bật nhất nói về Nhất thừa thật
tướng lý nghĩa nhiệm màu, khai quyền hiển thật, thể dụng viên
dung, tánh tướng dung nhiếp.
-
IV- ẢNH
HƯỞNG.
- Hạnh nguyện
của Bồ Tát Quán Thế Âm cao cả vô cùng, bi tâm của đấng từ mẫu
cứu khổ rộng lớn vô tận, cho nên hầu hết các nước Phật Giáo điều
tôn thờ hình tượng tranh ảnh của Ngài và tán dương công đức thù
tắng của Ngài.
- Riêng tại
Việt Nam, một nước mà tư tưỏng đã thắm nhuần Phật giáo trên 2000
năm nay, triết lý nhà Phật đã in sâu vào trí não, đã ăn đậm vào
tâm hồn tổ tiên chúng ta qua biết bao nhiêu thế hệ cho nên ngày
nay, mặt dầu sanh vào thời mạt pháp nhưng chúng ta cũng gặp được
chánh pháp đó là một phần lớn nhờ hồng ân Tam Bảo, nhưng cũng
một phần nào thừa hưởng quí bấu của tổ tiên trong huyết quản.
- Thắm nhuần tư
tưởng nhà Phật tức thấm nhuần tư tưỏng từ bi mà Bồ Tát Quán Thế
Âm, là tượng trưng hùng hồn cho đức tánh cao đẹp ấy.
- Chúng ta
chiêm ngưõng hình tượng của Ngài thì cảm thấy
- 1.Bầu
không khí ấm áp an lành
- 2.Ánh
sáng Đại Bi toả chiếu khắp thân hình
- 3.Tâm
hồn hiền lành êm dịu, lòng càng thương người mến vật.
- 4.Niềm
an ủi vỗ về như trẻ thơ bên cạnh mẹ hiền
- 5.Tánh
tình bạo dạn hơn, lòng trở nên vững chắc thêm, không sợ tà ma ác
quỷ, không sợ tai nạn nguy biến.
- 6.Ý
chí cương quyết, tinh tấn tu niệm, lòng càng tin tưởng vào Phật
pháp màu nhiệm đem lại an lạc cho muôn loài.
- Ngoài ra ảnh
hưởng của Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là ít.
- Nhìn qua nền
văn hoá dân tộc Việt Nam không biết bao nhiêu truyện tích, thi
ca, nhạc kịch, phim ảnh, hội hoạ.vv… đều nhất tề ca ngợi hạnh
nguyện hồng thâm và tán dương oai lực thần thông quảng đại của
Ngài.
- Các tác phẩm ấy tuy
không diễn đạt hoàn toàn đầy đủ tinh thần đại bi nhưng cũng biểu
lộ một phần nào lòng ngưỡng mộ đức mẹ hiền cứu khổ.
-
V. LÝ DO CẢM
ỨNG.
- Tại sao có lòng ngưỡng mộ đặt
biệt như thế? Chẳn qua ngoài uy đức lẫy lừng của Quán Thế Âm Bồ
Tát và lý do cảm ứng hiển nhiên không thể trối cải được.
- Bi tâm của Bồ Tát luôn luôn
hưởng ứng với khổ tâm của chúng sanh đang kêu cầu, vì có cảm tất
có ứng theo luật”đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nghĩa
là những vật cùng một thứ tiếng thì ứng nhau( cũng như một con
gà gáy thì cả bày gà đều gáy theo) những vật cùng một khí thì
tìm nhau ( như nam châm hút sắt.vv.)
- Vậy mỗi khi chúng sanh lâm nạn
mà niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu thì Bồ Tát liền hiện thân cứu
độ.
- Sự hiện thân
của Ngài chỉ là một công dụng của Đại Bi.
- Vậy cho nên khi người nào chuyên
tâm niệm danh hiệu của Ngài tức là người ấy đã chuyên chú niệm
đức tánh từ bi của họ. Đồng thời tin tưởng của họ cũng đã nhập
vào đức tánh từ bi của Ngài giao cảm với đức tánh từ bi của
người ấy.
- Ví như hai luồng ánh sáng tương
tiếp giao hoà với nhau thì ánh sáng toả khắp rộng ra giữa không
gian.
- Nói cách khác
khi tâm tánh của chúng ta đã thanh tịnh một phút nào đó tức thì
lúc đó chúng ta cảm nhận được ánh sáng từ quang của Ngài chiếu
vào tâm tánh của chúng ta vậy. Như biển lặng sống ngừng thì in
rõ nền trời xanh vào lòng biển cả, nước hồ thu trong thì ánh
trăng thanh chiếu rọi vào.
- Trăng kia vẫn bình
yên và thản nhiên chiếu, nhưng nước đục thì không thấy trăng,
chứ không phải trăng không soi đến hồ nước đục. Trời xanh vẫn
hiển hiện vào lòng biển cả, nhưng biển cả sống dồi thì sao thấy
được trời xanh quang đãng ấy.
- Lòng từ bi
Ngài không bỏ một ai, nhưng vì ai đó sống lòng còn giao động,
tâm tánh còn thiên tà không tin tưởng Tam Bảo, không xưng niệm
đấng từ bi, Người ấy không thấy đức từ bi, không thoát được khổ
luỵ, bị tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến nhận chìm xuống biển
khổ.
- Để làm sáng
tỏ thêm lý do cảm ứng xin dẫn ra một thí dụ nữa. Những làn sóng
trên không gian thường chuyển đưa tin tức do các đài phát thanh
phát ra giữa vũ trụ, những ai có máy thu thanh tốt và đài phát
thanh mạnh thì bất cứ ở đâu cũng nhận được tin tức. Máy thu
thanh là nhân, đài phát thanh là duyên, đầy đủ nhân duyên thì
tin tức phát hiện.
- Ở đây lòng khẩn xưng
niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát là nhân, Bi nguyện độ sanh của
Ngài là duyên. Nhân duyên gặp gỡ tức thì cảm ứng đạo giao khó
nghĩ bàn, hoặc mộng thấy Ngài hiện thân chỉ bảo, hoặc thấy hào
quang Ngài chiếu sáng, hoặc thấy các điềm lành khác như chuyển
hoạ thành phước, tật bệnh tiêu trừ, tai nạn qua khỏi.vv… Chỉ có
người chí tâm thành kính, xưng niệm danh hiệu mới cảm thấy rõ sự
cảm ứng ấy, cũng như chỉ những máy thu thanh tốt mới bắt được
tin tức rõ ràng. Hơn nữa người nào thường làm việc phước thiện
không tham lam mà bố thí, không giận giữ mà nhẫn nhục, không
ghen ghét mà tuỳ hỷ, không hẹp hoài mà bao dung hay thương sót
kẻ đau khổ, cứu giáp kẻ lâm nạn người đó là hình ảnh của từ bi,
của Bồ Tát, của Phật Đà, người đó thường hưởng được phước lạc và
cầu nguyện gì cũng được mãn nguyện. Trái lại người nào tư tưởng
tà vậy, ngôn ngữ bất chánh, cử chỉ hung tợn, có tật chấp nê, có
tánh đố kỵ, hay nghét kẻ hơn mình, thường khinh rẻ kẻ bần cùng,
hất hủi kẻ tàn tật, người đó là hình ảnh của tàn bạo của Dạ Xoa,
của La Sát, người ấy thường chịu quả báo đau khổ, và lúc lâm nạn
không gặp ai cứu vớt.
- Vậy muốn
thoát khổ được vui thiết tưởng đừng gây nghiệp ác, mà tạo nghiệp
lành, phải bỏ lối sống vị kỷ, nếp sống hẹp hòi, nẻo sống thiển
cận mà tập sống vị tha, sống rộng, sống sâu, sống với bác ái,
sống với từ bi và sống theo gương đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
VI- LỢI ÍCH
XƯNG NIÊM.
- Bồ Tát Quán Thế Âm
xưua kia là một vị Cổ Phật đã tu vô lượng kiếp để tế độ quần
sanh. Vì muốn cứu vớt muôn loài trằm luân trong biển khổ, Ngài
không ngại hoà quang đồng trần, hạ mình torng tam đồ lục đạo.
- Ngài hoan hỷ thị hiện Bồ Tát
thực hành đại nguyện, đại bi tầm thanh cứu khổ, độ thoát chúng
sanh khắp trong hoàn vũ, nơi nào có người đau khổ, nơi đó có
Ngài hiện thân cứu độ. Ai thành tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát thì.
- 1- Thoát khỏi
tam tai bát nạn.
- 2- Xa lìa tam độc
(tham, sân, si)
- 3- Các điều nguyện
cầu điều được mãn nguyện.
- Xưng niệm
danh hiệu của Ngài là un đúc hạt giống từ vào tâm địa chúng ta
và cũng là một phương pháp khai thát những năng lực tìm tàng
trong thân tâm của chúng ta ra cứu khổ trừ mê, diệt tai nạn và
ban vui cho muôn loài. Nghĩa là giờ phút nào hướng về từ bi, tức
là giờ phúc ấy dẹp tan ma quân tàn ác làm hại chúng ta. Nên trọn
đời cứ nhất tâm cuơng quyết xưng niệm danh hiệu”Nam Mô QuánThế
Âm Bồ Tát” thì trọn đời diệt sạch đau khổ sẽ được an vui hoàn
toàn.
- Vì vậy xưng
niệm danh hiệu Ngài có nhiều lơiï ích thực tế. Cũng như hạt
giống từ bi một khi đã được gieo và tâm địa, danh hiệu của Ngài
đã lọt vào tai thì kiếp kiếp nó thành giống Bồ đề, hiện tại nó
là một năng lực tiêu trừ nghiệp chướng phúc đức càng cao như
thuỷ triều dâng lên vô tận, tội lỗi tiêu trừ như sương mai tan
rã dưới ánh bình minh.
- Phẩm Phổ Môn dạy
rằng: “Người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát cho đến lễ bái
cúng dường Ngài một thời được phúc đức bằng kẻ thọ trì danh hiệu
62 ức hằng hà sa Bồ Tát và trọn đời cúng dường các thức ăn uống,
áo quần, gường ghế, thuốc thang, phước đức ấy trãi qua trăm ngàn
vạn ức kiếp không bao giờ cùng tận.
- Vì thọ trì
danh hiệu Ngài được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như trên,
nên đức Phật Thích Ca khuyên chúng ta thường xuyên niệm danh
hiệu “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, xưng niệm danh hiệu Ngài tức
tưởng nhớ đức tánh từ bi, hỷ cả, vô ngã, vị tha, tán dương hạnh
nguyện cứu khổ và thần phúc oai linh thâm diệu của đức Quán Thế
Âm Bồ tát.
- Công đức của Ngài vô
lượng, thần thông của Ngài vô cùng, trí tuệ của Ngài vô biên,
thì công đức phước báu của người xưng niệm danh hiệu Ngài cũng
vô tận.
- Hơn nữa, Khi xưng
niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm có được 10 điều lợi ích
như sau.
- 1.Ngày
đêm thường được các vị đại lực thần tướng của các cõi trời ẩn
mình ủng hộ
- 2.Thường
được Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và các vị Bồ Tát khác hộ trì.
- 3..Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát thưòng phóng ánh quang minh mà nhiếp thọ
người niệm danh hiệu Ngài.
- 4..Hết
thẩy các loài ác quỉ, rắn độc, thuốc độc, không thể hại đuợc
người nhất tâm xưng niệm danh hiệu Ngài.
- 5..Không
mắc phải các nạn nước, lửa, đao, binh, hoạch tử, lao ngục.
- 6..Những
tôi lỗi đã làm từ trước được tiêu trừ.
- 7..Đêm
nằm chiêm bao không thấy các điều dữ, thường thấy Phật và Bồ
Tát, hào quang hoa sen.
- 8.Tâm
thường được vui mừng và làm việt gì cũng đuợc kiết lợi.
- 9.Thường
được mọi người thương mến và cung kính cúng dường.
- 10.
Lúc gần thác lòng không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, tự
mình thấy phật và Bồ Tát phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc.
-
VII- KẾT LUẬN
- Qua những sơ
lược trình bày ở đoạn trên người Phật tử phải làm gì để ghi ơn
đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Ngoài việc
dâng hương hoa ngào ngạt lẫn với hương lòng thành kính, tụng
kinh phẩm phổ môn, trì chú đại bi và nhất là thành khẩn niệm
danh hiệu “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để ôn lại ý nghĩa hồng
danh lừng lẫy, sự tích vẻ vang và hạnh nguyện cao đẹp của “Đại
Sĩ Thí Vô Uý” đồng thời biểu lộ lòng tri ân vô tận đối với đấng
từ mẫu cứu khổ.
- Sự biết ơn ấy sẽ giúp chúng ta
noi gương theo Ngài để phát lòng Đại Bi, gieo rắc tình thương
khắp trong quần sanh. Sự biết ơn ấy sẽ đưa chúng ta đến gần Ngài
hơn, hầu mong được Bồ Tát từ bi gia hộ cho chúng ta trên bước
đường tu tập đầy trong gai chướng ngại. Sự biết ơn ấy là chìa
khoá mở rộng tâm hồn giúp chúng ta khai thác những công năng
trong thân tâm đem ra ứng dụng để cứu độ nhân thế.
- Vậy hãy nên
thành tâm khẩn cầu Ngài rưới nước cam lộ, rửa sạch mọi oán thù,
chiếu hào quang rọi sáng mọi tâm hồn, ngõ hầu đưa thế giới đến
hoà bình, chúng sanh đế an lạc
- Quán Âm Đại
Sĩ, phổ hiệu viên thông.
- Thập nhị đại
nguyện thệ hoàng thâm.
- Khổ hải phiếm
từ phông
- Phổ tế tâm
dung, sát sát hiện vô cùng.
- Tạm dịch:
- Kính lạy
Đại Sĩ Quán Thế Âm
- Viên thông
lừng lẫy, tiếng tâm xa gần
- Mười hai
nguyện lớn vô ngần
- Mênh mông
biển khổ thổi cơn gió lành
- Một lòng
độ khắp quần sanh
- Nơi nơi
ứng hiện cảm linh khôn cùng.
--o0o--
|
|