|
BỒ TÁT HẠNH
- Linh
Ứng Quán Thế Âm
- (Quyển 1)
HT Thích
Tịnh Từ
-
-
Lời đầu chuyện
-
Nhiệm mầu thay đức tin
-
Thoát nạn nước cuốn
-
Người đưa đường dẫn lối
-
Thoát nạn trên biển cả
-
Cứu con thoát nạn giao thông
-
Giải trừ vong nghiệp
-
Cầu nguyện như ý
-
Hầu Bồ Tát Quán Thế Âm
-
Cầu sinh con gái toại ý
-
Ngồi thiền trên sừng trâu
-
Bà cụ bán chè thoát nạn
-
Bàn tay mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm
-
Chữa lành bệnh bài bạc
-
Mắt mù lại sáng
-
Ðức Quán Âm điểm hóa
-
Cản ngăn sự giết chóc
-
Giải nhập oan khiên
-
Nước cam lồ chữa người câm
-
Nghi thức trì tụng Kinh Phổ Môn
-
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn
-
Pháp tu Quán Âm
-
(1) NAM MÔ HẮC RA ÐÁT NA ÐA RA DẠ DA
(NAMMO RATNATRAYAYA)
-
Tay lần tràng hạt châu
-
Quán âm rất nhiệm mầu
-
Ai thường cầu lễ niệm
-
Thân tâm hết khồ sầu.
-
LỜI ÐẦU CHUYỆN
-
Bồ
Tát Quán Thế Âm, hình ảnh rất thân thiết, gần gũi đối với mọi
tầng lớp quần chúng, nhất là những người Á Ðông. Nhiều người
chưa quy y Tam Bảo, chưa trở thành Phật tử chính thức, cũng
thường xưng niệm danh hiệu và thỉnh tôn tượng đức Quán Thế Âm
Bồ Tát để phụng thờ lễ bái hằng ngày trong nhà.
-
Bồ Tát Quán Thế Âm là người đắc đạo
và đã thành Phật trong quá khứ lâu xa, có tên là Chánh Pháp Minh
Như Lai. Ngài vì tình thương và hạnh nguyện cứu khổ chúng sanh
nên đời đời hóa hiện nhiều thân tướng khác nhau để ban vui, cứu
khổ cho mọi loài.
-
Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Mẹ
Hiền, bà mẹ có tình thương yêu rộng lớn. Ngài đến với mọi người,
mọi loài như đến với những đứa con thơ yêu quý, không xa lạ,
không đối đãi và ngăn cách. Ngài đến với con người, đến với sự
sống như ánh sáng, không khí đến với mọi loài sinh vật trên trái
đất.
-
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ và
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn, đức Phật Thích Ca có nói
đến hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm:
-
“Quán Âm vị cổ Phật
-
Chánh Pháp Minh Như Lai
-
Hạnh nguyện sâu rộng lớn
-
Cứu độ khắp mọi loài
-
Nghe tiếng kêu liền đến
-
Lợi ích chúng hằng sa
-
Nếu ai thường xưng niệm
-
Cảm ứng bất tư nghì.”
-
Bằng vào hạnh nguyện rộng lớn và thân
thiết ấy, Bồ Tát Quán Thế Âm, hiện thân khắp nơi chốn, trong cõi
giới khổ đau, lắng nghe tiếng kêu cầu, liền hiện thân kịp thời,
nhanh tợ vang theo tiếng. Như tình thương của bà mẹ, khi thấy
con thơ lâm nạn, liền ra tay cứu độ, không do dự tra vấn. Vì
hành động thương yêu cứu khổ đầy thiêng liêng, mầu nhiệm của Mẹ
mà mọi đứa con yêu của Mẹ đều kính mến và hằng nhớ tưởng đến Mẹ,
thường kêu tên của Mẹ.
-
Trong tập sách này, chúng tôi ghi
thuật lại những mẫu chuyện linh ứng về đức Quán Thế Âm Bồ Tát do
tự thân chứng nghiệm, cùng những mẫu chuyện sưu soạn và chọn lọc
có liên quan đến hạnh nguyện cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Ngoài các mẫu chuyện linh ứng của đức Quán Thế Âm, chúng tôi còn
có trình bày thêm phần thực tập thiền quán qua đề mục niệm danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và có phần Nghi thức trì tụng phẩm kinh
Phổ Môn, nói rõ hạnh nguyện và năng lực cứu khổ của Bồ Tát Quán
Thế Âm. mỗi phần mẫu chuyện có phụ bản phóng ảnh tám mươi bốn
hình tượng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, trích dẫn từ kinh
Quán Âm Ðại Bi Tâm Ðà Ra Ni, do sa môn Dà Phạm Ðạt Ma dịch từ
phạn ngữ ra hán văn và do pháp sư Thánh Ấn soạn giải.
-
Ðọc tập sách này, mà bạn khởi phát
được niềm tin sâu vững nơi Bồ Tát Quán Thế
- Âm,
nguyện nổ lực cần mẫn trên tiến trình học hạnh yêu thương và
giúp đỡ người thân đồng loại, đó chính là nhờ công năng quán
chiếu tu tập hạnh lành của bạn theo tinh thần Từ Bi của đức Quán
Thế Âm. Riêng quý vị đã có sẵn tín tâm, duyên lành với hạnh
nguyện của đức Quán Thế Âm, sau khi đọc xong tập sách này, chắc
quý vị có thêm kinh nghiệm và tư liệu sống thực để hằng truyền
phổ sâu rộng về công đức, hạnh nguyện thù thắng của đức Quán Thế
Âm Bồ Tát. Ngay nơi bản thân chúng tôi, nhờ tin tưởng, xưng
niệm, phụng thờ, lễ bái và thực hành hạnh nguyện thương yêu,
lắng nghe đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà mỗi ngày tăng phần an lạc và
hạnh phúc. Bằng vào đó mà chúng tôi tin tưởng vào năng lực cứu
khổ mầu nhiệm cùa Bồ Tát Quán Âm một cách tuyệt đối. Nhờ vậy mà
chúng tôi càng thêm vững chí trên đường tu tập và hành đạo. Mong
bạn đọc qua những mẫu chuyện linh ứng Quán Thế Âm sẽ:
-
·
Thấu rõ hạnh nguyện cứu khổ sâu rộng,
mầu nhiệm của Bồ Tát Quán Thế Âm
-
·
Tin sâu vào bản thể từ bi, diệu dụng,
hóa hiện độ sinh bất khả tư nghì của Bồ Tát Quán Thế Âm
-
·
Tin sâu đạo lý nhân quả và duyên sanh
giữa ta và người, giữa hạnh phúc và đau khổ.
-
·
Hằng phát nguyện hạnh thực tập và lắng
nghe và cứu khổ bình đẳng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
-
·
Hằng chuyên cần và nhất tâm xưng danh
hiệu,lễ bái đức Quán Âm Bồ Tát không hề mỏi mệt.
-
·
Nguyện cho mọi người, mọi loài sớm
biết thực tập lời di huấn, giới răn, thiền định của Phật dạy để
tiếp xúc được tự tánh thanh tịnh, từ bi, trí huệ ngay trong long
thực tại.
-
·
Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt
khắp mọi nơi và mọi thời. Ở đâu có đau khổ, có hận thù tăm tối
là ở đó có Pháp Thân, Ứng Thân và Hóa Thân của Bồ Tát Quán Thế
Âm.
-
·
Xưng niệm, lễ bái, phụng thờ Bồ Tát
Quán Thế Âm và muốn lời cầu nguyện có hiệu lực ta nên xả bỏ
những tâm lý oán cừu, phiền hận và tham chấp.
-
·
Phát nguyện làm điều lợi ích, cứu
giúp, ban bố niềm vui cho người; xa lánh những điều ác, tránh sự
giết hại, trộm cướp, gian dối, tà dục. Ðó chính là những điều
kiện tốt để ta có cơ hội tiếp xúc với sự mầu nhiệm, linh cảm của
Bồ Tát Quán Thế Âm.
-
Ðức Quán Âm Bồ Tát
-
Ðã thành Phật lâu xa
-
Vì hạnh nguyện cứu khổ
-
Hết mọi loài chúng sanh
-
Trong luân hồi sáu nẻo
-
Ứng hóa vô lượng thân
-
Hiện ngàn muôn diệu ứng
-
Vào khổ cảnh ngục lao
-
Cứu giải trừ ách nạn
-
Ðem tin lành muôn nơi
-
Người tôn xưng Thánh Mẫu
-
Người gọi đức Quán Âm
-
Bậc đại hiền tự tại
-
Chăm kỉnh lể phụng thờ
-
Chuyên lòng trì danh hiệu
-
Vượt thoát mọi tai ương.
-
Thân chúc bạn đọc thường trau dồi hạnh
phúc bằng chất liệu yêu thương, bằng khả năng quán chiếu; hằng
đem tâm khách quan, tha thiết trong việc học hỏi, chiêm nghiệm,
thực tập hạnh nguyện ban vui, cứu khổ của Bồ Tát Quán Thế Âm để
niềm phúc lạc, bình an có mặt đích thực trong cuộc sống.
-
Thành kính tri ân quý pháp hữu, quý ân
nhân, các đệ tử thân cận đã hết lòng góp phần tài chánh, đánh
máy, trình bày và sữa soạn kịp thời cho tập sách này có đủ nhân
duyên xuất bản như tâm nguyện:
-
Vì lợi ích tất cả
-
Vì hạnh phúc nhiều người
-
Vì đáp đền ơn nặng
-
Vì cứu khổ muôn loài
-
Vì dẫn độ quần sanh
-
Vào biển tuệ Như Lai
-
Nơi tình thương rộng lớn
-
Tự tại hằng an vui.
-
Thích Tịnh Từ.
-
(2) NAM MO A RI DA -(Nammo arya)-
-
Quán Âm hiện diện tướng
-
Ðộ đời chuyển pháp luân
-
Tay nâng ngọc như ý
-
Ban vui khắp mọi nhà.
-
NHIỆM MẦU THAY ÐỨC TIN
|^|
-
Tôi hồi còn nhỏ học trường tư thục
Thiên Chúa Giáo, trốn nhà vào chùa ở lúc mười bốn tuổi. Bổn sư
tôi là Ðại sư Viên Giác, sáng lập tu viện Giác Hải ở làng Viên
Tự, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh hòa, Nha Trang, thầy tôi rất
thương tôi, nhưng người cho tôi là loại trẻ “cứng đầu”. Thầy tôi
tin tưởng vào”mê” Ðức Quán Thế Âm một cách lạ lùng, còn tôi thì
hời hợt với chuyện này. Không phải chỉ lúc mới đi tu trí óc còn
non dại, mà ngay đến khi thọ giới người tu trưởng thành, tôi vẫn
quan niệm Ðức Quán Thế Âm như một hình ảnh biểu tượng về tình
thương. Thờ Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng qua là hiếu kính người hiền
và nặng lòng tín ngưỡng. Thầy tôi đã huy động dân làng và Phật
tử khắp nơi dựng Quán Âm Ðiện Các ở trên đỉnh núi Ông Sư tại
làng Xuân Tự để phụng thờ, tôi là người hưởng ứng và săn sóc
hương khói một cách bất đắc dĩ.
-
Năm 1958, tôi không may bị chứng đau
đầu thống trầm trọng. Lý do là tôi ham học và thiếu ngủ. Tôi mê
say học kinh điển như một bộ môn triết lý đầy thú vị. Mặt khác
tôi lo học chương văn hóa ở cấp trung học. Một đêm tôi không ngủ
quá ba tiếng đồng hồ. Sau kỳ thi cử không bao lâu, tôi buông bỏ
bút nghiên, sự nghiệp học vấn. Ðầu tôi đau như muốn vỡ tung từng
mảnh và mắt xốn như bị bão cát lùa vào từng cơn. Mũi chảy ra
nước xanh, nước vàng. Tôi bỏ ăn, bỏ ngủ. Bao nhiêu nhà thương,
bác sỉ tây y có tiếng, tôi đều tìm đến. Bao nhiêu thầy giỏi
thuốc bắc, thuốc nam gia truyền tôi đều khẩn cầu, nhưng tất cả
đều vô hiệu. Tôi vào Sài Gòn chữa bệnh, tinh thẩn tôi càng thêm
sa sút. Nhiều lần tôi muốn vào trong lòng đại dương tươi mát để
tìm giấc ngủ an lành. Thầy tôi biết rõ tình trạng đau khổ, bi
quan của tôi nên thường ở bên cạnh để săn sóc an ủi. Dồn hết để
lo chữa bệnh cho tôi. Thầy tôi đã nhiều tháng thức trắng đêm với
tôi và hai thầy trò cùng thường di bộ trên bờ biển hóng mát để
tôi bớt dau nhức vì bệnh hành hạ về đêm.
-
Có một đêm ngồi trên vịnh eo biển Phan
Rang, thầy tôi có vẻ buồn bã lắm, ngưởi bảo tôi rằng: “thầy
thương quý con hơn cả vàng ngọc, nhưng nhiều lúc thầy rất giận
con, vì con ngang ngược, cứng đầu, không chịu nghe lời thầy trì
tụng kinh Phổ Môn, xưng danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ Tát để cầu
ngài chữa bệnh cho con”. Ðó là đêm hai thầy trò chúng tôi ôm
nhau mà khóc. Tôi nghe lời thầy tôi như con trẻ tin lời mẹ dạy.
Tôi không còn đi cầu thầy chữa bệnh nữa, trở lại chùa ở Xuân Tự,
nhập thất ba tháng, chuyên trì tụng chú Ðại Bi, kinh Phổ Môn và
niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau ra thất bệnh chẳng
thuyên giảm, tôi vào chùa Ông ở Nha Trang xin tịnh dưỡng tiếp
tục nhập thất, lễ sám hối, chuyên cần trì niệm danh hiệu đức
Quán Thế Âm Bồ Tát liên tục không ngớt. Kỳ diệu thay, sau hai
tháng sám hối, nhất tâm xưng niệm danh hiệu NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI
BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH CẢM ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, tôi cảm ứng
Mẹ Hiền Quán Âm cứu khổ và dứt trừ cơn bạo bệnh. Thân tâm tôi
nhẹ nhõm như một cuộc tái sanh mới.
-
Tối đó là ngày rằm, khoảng đầu mùa hè
năm 1960, tôi ngồi thiền và niệm chú Ðại Bi nơi gác chuông Chùa
Ông mà có người còn gọi là Chùa Núi. Lúc đó khoảng hai giờ sáng,
tôi thấy một luồng ánh sáng trên trời cao lùa vào gác chuông,
rồi hiện ra một thiên nữ mặc áo trắng trao cho tôi mười hai viên
thuốc tể nhỏ xíu và một bình nước trắng đựng trong lọ thủy tinh
có buộc giải lụa màu xanh. Thiên nữ xoa đầu tôi và nói: “Ðây là
thần dược, ngươi uống xong sẽ hết bệnh, hết khổ. Nhưng nên nhớ
khi khỏe mạnh rồi, lo chăm chỉ hành đạo để cứu người, chớ có để
vọng tâm buông lung, tình đời chi phối.” Lời thiên nữ hiền dịu
như lời mẹ hiền, tôi cúi đầu đãnh lễ tạ ơn và phục mệnh.
-
Lúc ấy, tôi có cảm giác an lạc lạ
lung. Tôi chấp tay cung kính cầm thuốc bỏ vào miệng uống mà
không nói một lời nào. Vị thiên nữ bảo tôi nằm ngủ để lấy lại sự
bình an trước khi người biến vào hư không. Sau một giấc ngủ dài,
tôi thức dậy không cảm thấy đau đầu nữa. Bệnh tôi chấm dứt hẳn.
Hình ảnh người thiên nữ mặc áo trắng kia là ai, tùy mỗi người
đặt tên gọi. Sự “cứng đầu” cùa tôi đã bắt đầu “mềm” từ đó. Tôi
tin tưởng và tích cực tìm hiểu về hạnh nguyện cứu khổ của đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, khởi đi từ sự cảm ứng này. Hôm tôi lành bệnh
trở lại chùa, trong bữa cơm liên hoan của đại chúng chào đón và
mừng tôi, thầy tôi có tặng cho tôi bài thơ mà tôi đã nằm lòng:
-
Thương con như trái tim mình
-
Thương con vượt thoát ngục hình đớn
đau
-
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu
-
Trí bi song vận duyên lành ứng cơ
-
Tín tâm dứt mối nghi ngờ
-
Thuyền từ đưa đén bến bờ an vui
-
Ðường tu mãi tiến chớ lùi
-
Giới răng gìn giữ ngọt bùi chớ mê
-
Tịnh thiền định huệ đường về
-
Ngộ tâm đạt tánh nguyện thề độ sanh
-
Bồ đề quả kết chóng thành
-
Nối dòng Phật tổ cứu người trầm luân.
-
(3) BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁT RA DA
-
(Avalokiteshavaraya)
-
Quán Âm ngời tự tại
-
Hiện thân tướng trì bình
-
Cứu người lâm bệnh khổ
-
Tăng phước thọ diên trường.
-
THOÁT NẠN NƯỚC CUỐN
|^|
-
Nước trôi song bị chìm
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Ðược sống lâu thọ mạng
-
Nhờ Quán Âm thọ trì.
-
Hồi mới lên 6,7 tuổi, tôi và anh tôi
cứ mỗi buổi trưa cuốituần hay trốn mẹ ra sông để tắm. Một hôm
gặp mùa mưa tháng tám, nước lớn từ trên nguồn tuôn về quá mạnh
khiến con đê trong làng bị vỡ, nơi khúc sông cạn bỗng dưng nước
ngập, xoáy sâu và chảy xiết. Cả hai anh em tôi đều bị cuốn theo
dòng nước và vì sức yếu nên hai anh em chúng tôi không sao gượng
nổi để vào bờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ kịp nghe tiếng anh tôi nhắc:
“ em ơi! đừng sợ, niệm Phật Quán Âm đi.”, rồi anh tôi mất dạng.
Tôi cũng chìm ngập trong biển nước xoáy. Nhờ lời nhắc niệm Phật
Quán Âm của anh tôi, nên trong ý thức của tôi lúc đó rất bình
tĩnh, sáng suốt và tôi nói thầm trong miệng: “Phật Quán Âm ơi!
cứu con với! con mệt lắm rồi…” tôi cứ lẩm bẩm trong miệng hoài
như thế không biết bao nhiêu lần, cho đến khi không còn biết gì
nữa. Tôi đã bị chết trôi? Không, tôi đã được đức Quán Thế Âm Bồ
Tát cứu sống đến bây giờ. Năm nay tôi đã 57 tuổi, kể ra tôi cũng
thọ mạng đấy chứ.
-
Trong cơn mê man của một giấc ngủ dài,
tôi nghe tiếng một ông lão gọi bên tai tôi: “Này con, thức dậy
để đi tìm anh con vể nhà. Mẹ, ba con, ông bà nội của con đang
nóng lòng chờ hai anh em con về ăn cơm trưa đó.” Qua tiếng gọi,
tôi đã tỉnh ngủ. Khi thức dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một
cồn cát trắng, sát bên cạnh một vùng nước mênh mông. Nhìn quanh
bốn phía chẳng thấy nhà cửa, chẳng thấy bóng dạng người qua lại.
Nhìn vào thân thể, tôi bỗng thẹn thùng vì thấy mình trần trục,
không có quần áo gì cả. Nhìn vào ngực, tôi bắt gặp cái tượng đức
Quán Thế Âm
-
Bồ Tát nhỏ mạ vàng mà mẹ tôi đã đeo
trong cổ cho tôi ngay hồi tôi mới sinh được vài tháng. Tôi mĩm
cười, cầm cái tượng vân vê trên tay, rồi nói: “Phật Quán Âm ơi!
Anh của con đâu rổi? Nếu anh của con mà bị nước cuốn trôi thì mẹ
, ba, ông bà nội, ông bà ngoại của con khóc đó. Con cũng không
chịu mất đi anh của con đâu. Phật Quán Âm ơi! chỉ cho con biết
anh của con đang ở đâu để con tới dẫn anh con về nhà kẻo mẹ lo.
Mẹ thương hai anh em con lắm đó.”
-
Vừa réo gọi Phật Quan Âm vài tiếng,
tôi ngẩng đầu nhìn ra phía sóng nước trùng khơi, tôi thấy một
con đò nhỏ đang chạy thoăn thoắt đi về phía tôi. Tôi reo lên
mừng rỡ, chờ đợi và nhảy ra con nước ôm lấy anh tôi khi con đò
vừa đến. Anh tôi đã đến trên một con đò nhỏ với ông lão. “Ồ, Anh
ơi! chiếc đò và ông lão đi đâu mất rồi? Sau phút chốc, tôi ôm
anh tôi mừng, tủi tủi; tôi quay lại thì không thấy chiếc đò và
ông lão đâu nữa. Anh tôi cũng ngạc nhiên như tôi, cả hai anh em
trố mắt tìm kiếm. Nhưng, giữa cánh đồng con nước mênh mông, vẫn
im lìm không một bong thuyền đò qua lại. Ông lão chèo đò biến
dạng, chiếc đò cũng không còn.
-
Anh tôi thuật lại rằng khi cơn nước
đẩy, anh tôi không nhìn thấy tôi đâu cả, nên anh tôi la lớn bảo
tôi niệm Phật Bà Quán Âm để được Phật Bà giúp đỡ. Anh tôi biết
mình sắp chết đuối và nhớ lời mẹ dặn là khi gặp tai nạn thì niệm
Phật Bà Quán Âm. Lúc đó, anh tôi tin là có Phật Bà và nghĩ là
Phật Bà rất linh thiêng, nên anh tôi không có lo sợ. Anh tôi
nhắm mắt và thầm niệm: NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH
ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Anh tôi niệm tên của Phật Bà ước chừng
được mười lần thì anh tôi chẳng còn hay biết gì cả. Khi tỉnh
dậy, anh thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre với bộ áo quần
xanh mới, bên cạnh bếp lửa đang nấu nồi cháo trắng sôi sùng sục.
Trong nhà chỉ có một mình ông lão tuổi chừng bảy mươi, tướng mạo
rất đẹp, miệng luôn cười như Phật Di Lạc. Ông lão lấy cháo trộn
với đường cát cho anh tôi ăn một tô lớn rồi ông khen anh tôi
ngoan, giỏi, còn nhỏ mà biết tin Phật Bà Quán Âm. Anh tôi hỏi:
“Bác có biết Phật Bà ở đâu không?” Ông lão cười và chỉ vào trái
tim của anh tôi. Ý ông lão nói là Phật Bà ở trong tâm của anh
tôi. Ăn cháo xong, ông lão nói với anh tôi là đi tìm tôi và sẽ
đưa cả hai anh em về nhà. Anh tôi ngồi trên chiếc đò nhỏ và ông
lão đưa anh tôi tới đây gặp tôi.
-
Tôi bảo anh tôi: “Như vậy ông lão đó
chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà anh em mình thường nghĩ và
niệm bấy lâu nay.”
-
Anh tôi gật đầu thốt lên: “ừ hơ, ờ hơ,
anh có cảm giác là ông lão này là lùng lắm, không phải là một
người thường…” Mặt trời chiếu lên cao, anh tôi cởi chiếc áo đang
bận trùm lên mình tôi. Hai anh em tôi dắt nhau về nhà một cách
bình an.
-
Chuyện này xảy ra tại thôn Phường Sắn
là một thôn nhỏ tại làng Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng
Trị, nơi tôi ra đời và lớn lên.
-
Nguyễn Năng Diêu, anh hai tôi ghi lại
chuyện này trong nhật ký của người. Tôi cung kính chép lại nơi
đây để cống hiến đến quý thân hữu xa gần và mong bạn đọc cho anh
tôi một lời cầu nguyện. Anh tôi đã qua đời năm 1961 vì chiến
tranh và bom đạn vô tình.
- NGUYÊN
QUANG
-
(4) BỒ ÐỀ TÁT ÐỎA BÀ DA
(Bodhisattvaya)
-
Quán Âm bậc tuệ giác
-
Ðạt chơn tánh rạng ngời
-
Lòng từ bi quảng đại
-
Phổ độ khắp gần xa.
-
NGƯỜI ÐƯA ÐƯỜNG DẪN LỐI
|^|
-
Quán Âm người dẫn lối
-
Ði tìm đại từ bi
-
Quán Âm thầy thắp sáng
-
Soi nẻo về thênh thang.
-
Năm tôi đi tu, đường đi nước bước
không rành, chẳng biết chùa và thầy hiền ở đâu mà tìm kiếm. Mới
mười bốn tuổi đầu, lòng tha thiết quyết chí đi tu, song chưa hề
quen biết với bất cứ một vị thầy hay một sư chú nào trong chùa
viện. Ðể thực hiện ý định đi tu của mình, ngày đêm tôi chỉ biết
cầu nguyện và thầm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
Cách niệm tôi tạm trình bày cho có vẽ “tươm tất” như sau:
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
gặp người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
được vào chùa tu học và có cơ duyên trau dồi tình thương cao
rộng.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
gặp được vị thầy sáng suốt và hiền đức để được tu tập.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tai ương trên đường đi cầu đạo
giải thoát.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
giữ vững niềm tin nơi bản thân và Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
không bao giờ thối chí trong mọi hạnh lành, đem niềm vui đến cho
nhiều kẻ khác.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
sớm khai mở trí tuệ và có đìều kiện tốt để giúp người thoát khỏi
khổ đau.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con có
đủ tâm đại hùng, đại lực để cứu nhân sanh vượt ra mọi ngục hình
tư tưởng trong đời sống.
-
·
Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con
mau thành Phật quả để đem đến hạnh phúc, lợi ích cho nhiều
người, nhiều tâm hồn đang bị đọa lạc trong kiếp luân hồi.
-
Hồi ấy, tôi không thể nói ra thành lời
như vậy, nhưng trong tâm tôi luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm và hằng khởi lên những ý nghĩ tương tợ như thế.
-
Khuya hôm ấy, khoảng tháng 10 năm
1956, bên ngoài trời mưa tầm tã, gió nổi tứ bề, cây cảnh ngã đổ,
nước lũ tràn khắp đường sá xóm làng. Lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi
rón rén mở cửa trốn nhà đi vào Huế tìm chùa, tìm thầy học đạo.
Từ làng ra tỉnh và từ tỉnh Quảng Trị đón xe đò đi vào Huế đối
với tôi lúc bấy giờ là một con đướng thăm thẳm, diệu vợi và hết
sức khó khăn trong việc đi lại, song tôi không hề có chút chần
chờ, lo ngại. Trong cái nãi xách tay của tôi chỉ có hai bộ áo
quần màu xám và một tấm hình Quán Thế Âm nhỏ bằng giấy dán liền
trên tấm ván mỏng được một anh huynh trưởng gia đình Phật tử
trong làng cho tôi cách đó hai năm về trước. Ngoài cái “gia bảo”
ấy, trong túi tôi còn có hai chục bạc để đi đường. Số tiền này
đứa em gái đã cho tôi cách đó vài hôm khi em được phần quà
thưởng lệ về việc học giỏi từ ông cậu ruột làm công chức gởi
cho.
-
Ra khỏi nhà, tôi phải đi qua chiếc cầu
tre bắc ngang một con sông rộng chảy qua làng. Rủi ro, cái cầu
tre bị gãy và xoáy theo dòng nước chảy xiết khi tôi đang dò dẫm
từng bước một trên chiếc cầu tre lắc lẽo ấy. Thế là tôi bị trôi
sông, cuốn theo dòng thác lũ đưa về xóm Bàu. Nhờ sức niệm Bồ
Tát Quán Âm mà tôi thoát tai nạn nước chìm. Không ngờ trong tai
nạn ấy hóa ra tôi đã đi con “đường tắt”. Con đường từ xóm Bàu
lên đường cái quan rất gần, chỉ đi bộ khoảng hai mươi phút thôi.
Trong khi đó nếu tôi không bị giòng nước cuốn trôi, thì tôi phải
đi con đường dài từ làng ra đường cái quan, lên tỉnh để đón xe
đi vào Huế cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chưa chắc
thành công, vì tôi có thể bị người nhà tìm bắt trở lại.
-
Nước lũ đưa đường chỉ lối cho tôi lên
chùa
-
Nước lũ chỉ nẻo đường tắt đưa tôi về
nguồn cội
-
Nước lũ giúp tôi đi mau tới đích
-
Và không bị cản, ngăn chướng ngại.
-
Lên xe đò vào Huế, ông tài xế thấy tôi
còn nhỏ quá nên không lấy tiền. Khi xuống tại bến đò, tôi đang
lay hoay tìm kiếm đường lên chùa, thì một bà cụ nói là bà ở
trước chùa Báo Quốc, rồi bà tự động kêu xe xích lô bảo bác tài
xế đưa tôi về chùa ấy. Lên đến cửa chùa, tôi lấy hai chục đồng
bạc trong túi trả bác xích lô, bác nói là bà cụ khi nãy đã trả
tiền xong rồi. Thế là gia tài số tiền mặt ấy tôi vẫn còn giữ
hoài trong túi không bao giờ tiêu xài. Bà cụ thuê xe và chỉ
đường lên chùa cho tôi là ai, tôi không biết rõ lai lịch?
-
Sau này tôi nghiệm lại, tôi mới biết
đây là sự chỉ điểm của thánh hiền và sự mầu nhiệm đưa đường chỉ
lối của Bồ Tát Quán Thế Âm.
-
Chùa Báo Quốc tại Huế là một viện Phật
học, đào tạo chư Tăng và nhân sự Phật Giáo tài đức để hoằng
pháp, lợi sanh dưới sự dám viện của hòa thượng Thích Trí Thủ.
Khi vừa bước chân lên cổng chùa thì tôi liền được sư chú Tâm Hòa
tiếp đón rất niềm nở như người nhà, khiến tôi hết sức ngạc
nhiên. Vì dường như việc tôi đến đây sư chú có linh tính biết
trước rất rõ ràng. Sư chú Tâm Hòa dẫn tôi vào phòng khách và nói
cho tôi biết: “Có đại sư Thích Viên Giác sáng lập và Trú trì tu
viện Giác Hải ở tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang đã đến đây ba hôm để
đợi em đó. Em có phải từ tỉnh Quảng Trị vào và đang đi tìm thầy,
tìm chùa để xuất gia học đạo không?”
-
Tôi chỉ cuối đầu dạ và chưa kịp nói
thì sư chú Tâm Hòa nói tiếp: “Ðại sư Viên Giác cho tôi hay là
được Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ điểm nên ngài đến chùa Báo Quốc từ
Nha Trang để nhận một chú bé đem về chùa nuôi. Ngài bảo tôi ra
đứng trước của Tam Quan suốt cả buổi chiều nay để đợi em. Em hãy
vào trong để ra mắt vị thầy của em”.
- Nghe
sư chú Tâm Hòa nói, lòng tôi sung sướng vô vàn, tràn ngập hạnh
phúc và nhẹ nhỏm như mình đang bay trên một không gian vô tận.
-
Bước chân vào phòng, tôi thấy một vị
thầy mặc áo nâu rộng, thân thể gầy ốm nhưng đôi mắt rất sáng.
Thầy trạc tuổi 40 đang ngồi kiết già vững chải, quay mặt về phía
cửa chính như đang chờ đợi một người. Ngài chờ đợi tôi, đó là
đứa bé mới 14 tuổi đầu, bỏ nhà, bỏ cha mẹ đi tìm thầy khai mở
tâm linh.
-
-Con muốn tìm thầy để được tu tập phải
không? – ngài nhìn tôi hỏi.
-
Tôi cúi đầu trả lời:
-
-Thưa thầy dạ phải.
-
-Con đi tu để làm gì?
-
-Thưa thầy, con đi tu để làm giảng sư
để dạy cho cái tâm của con trở nên hiền lành và dạy cho người
khác bớt đau khổ nhờ cái tâm sáng suốt.
-
Nghe xong, ngài cười và không hỏi thêm
gì nữa. Tôi được sư chú Tâm Hòa và Ðiệu Trí giúp Ngài chuẩn bị
việc làm lễ xuống tóc cho tôi. Sau khi cạo tóc và măc y phục của
chú tiểu vào mình, tôi thấy mình là một con người mới. Sáng hôm
sau mới khoảng ba giờ khuya, thầy trò tôi ra sân ga trở về tu
viện Giác Hải Nha Trang. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Ðời tôi đã
có vị thầy đưa đường chỉ lối, đó là đại sư Viên Giác, vị bổn sư
của tôi, nuôi dưỡng tâm tôi khôn lớn.
-
Sau này tôi mới rõ, thầy tôi lập chùa
Giác Hải được ba năm, dựng trên núi Ông Sư, làng Xuân Tự ở quận
Quảng Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thầy có nuôi vài ba chú tiểu nhưng
tất cả đều bỏ về nhà. Thầy tôi bèn tụng kinh Phổ Môn để nhờ đức
Quán Thế Âm Bồ Tát tìm giúp thầy tôi một chú tiểu có nhân duyên
và căn khí để nối chí thầy tôi hoằng pháp trong tương lai. Nhờ
đức Quán Thế Âm điểm hóa và thầy trò chúng tôi đã gặp nhau. Tôi
được xem như đệ tử lớn của thầy tôi. Tâm ý giữa hai thầy trò
chúng tôi rất tương đắc.
-
Quán Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu
-
Thanh tịnh trang nghiêm nhiều kiếp tu
-
Khắp xứ người cầu đều cảm ứng
-
Biển trần qua lại độ quần mê.
-
Năm 1975 tôi qua Mỹ học, thầy tôi
không vui lắm vì người lúc nào cũng muốn tôi ở bên cạnh để lo
việc chùa viện và giao phó hoằng pháp, nuôi Tăng độ Chúng của
thầy tôi. Song thấy chí xuất dương của tôi đã quyết nên thầy tôi
không ngăn cản. Bao nhiêu tình thương và ánh sáng soi đường,
thầy tôi gói trọn cho tôi trong bài kệ:
-
Trái đất quê hương mẹ
-
Trong tim có quê hương
-
Mầu nhiệm trong tỉnh thức
-
Thực tại nẻo quay về.
-
Nguyên Nguyện.
-
(5) MA HA TÁT ÐỎA BÀ DA –
(Mahasattvaya) –
-
Quán Âm trì mật chú
-
Biến nước tịnh cam lồ
-
Diệt trừ tham sân hận
-
Mở trói buộc ưu phiền.
-
THOÁT NẠN TRÊN BIỂN CẢ
|^|
-
Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ
chồng và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền
nhỏ đánh cá với năm mươi hai người cùng xóm. Chổ khởi hành là
cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai mươi tháng tư âm lịch
năm1979.
-
Ðó là một đêm tối trời và đầy kinh
hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút
thì bị tàu biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt.
Chúng tôi ai cũng hoảng sợ, không còn đủ bình tĩnh để tính toán
và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù, vì đây là lần vượt
biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.
-
Trong khi nhiều người đang bối rối thì
bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước ở chợ Ðông Ba, hô to
như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo mọi
người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Không ai bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khỏ Cứu Nạn
Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát râm lên cả một góc trời, theo sự
hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước mênh mông. Lạ thay,
thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển cả.
Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như
cơn thịnh nộ của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó
con tàu nhỏ của chúng tôi chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi
bởi một sức mạnh phi thường nào đó, ngoài sự kiểm soát tay lái
của tài công. Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là người phụ
tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm
thấy như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác
nước chảy róc rách trên một sườn núi. Ở đây có nhiều khóm trúc
và trên các cây cổ thụ xinh đẹp, treo sà xuống nhiều giò phong
lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.
-
Trong khi đó, tiếng mọi người trên tàu
vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười
phút sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an
kiểm soát biên phòng mà chúng tôi không hề hay biết. Thoát nạn,
con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng vào đảo Hải Nam chỉ hơn bốn
ngày sau. Thức ăn nước uống trên tàu còn hơn một nữa, vì vật
thực chúng tôi chuẩn bị cho mọi người có thể sống đến ba tuần lễ
trên đường lánh nạn.
-
Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng tôi
những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh
thần. Bác Tư Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn
nỉ và trình bày chi tiết về sự quan trọng của đời sống tâm linh,
nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời. Mà bác Tư Hiền làm mẹ đỡ đầu
tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi
tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng
từ tốn, sắc sảo và đầy trìu mến. Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y
Tam Bảo năm giới, và thọ thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa
thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi mốt tuổi. Hòa thượng đặt
cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không phải đặt
pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và
bình yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.
-
Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba
mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới. Hằng ngày cụ thường trì
tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như kinh tụng
mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào
cũng vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh
dữ. Vì cụ Thiện Yên là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên
chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của cụ là phải ăn chay mỗi tháng
sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ kinh Phổ Môn
làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ
của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu nội làm
nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy
đưa về Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo
trợ qua Mỹ, đã có nhà ở tại một thành phố nhỏ cận Monterey, tiểu
bang Calofonia.
-
Gia đình chúng tôi mua vé máy bay mời
cụ Thiện Yên, bà mẹ đỡ đầu tinh thần của chúng tôi qua Mỹ thăm
hai lần. Cụ Thiện Yên cũng có đi Pháp, Cannada, đi Úc… thăm bởi
những đứa con tinh thần của cụ bảo trợ tài chánh.
-
Chúng tôi đến Mỹ và thỉnh tượng đức
Quán Thế Âm Bồ Tát về thờ ngay trong nhà. Trong nhà mỗi tuần
tụng kinh Phổ Môn một lần và hàng ngày mỗi người đều trì niệm
danh hiệu đức Phật A Di Ðà và đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi
hết lòng tri ân và kính trọng cụ Thiện Yên như hình ảnh của một
vị Bồ Tát, vì không những nhờ ảnh hưởng tu hành của cụ mà chúng
tôi được thoát nạn; xa hơn, chính nhờ sự hướng dẫn của cụ mà cả
gia đình chúng tôi biết hòa hợp, biết thương yêu và đùm bọc lẫn
nhau một cách tốt đẹp trong nếp sống mới.
-
Quảng Ðại
-
Nguyễn Thanh Hậu
-
(6)
MA HA CA LÔ NI CA DA –
(Mahakarunikaya)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Mã minh hưng đại thừa
-
Ma quân là chấn nhiếp
-
Hằng tự giác, độ tha.
-
CỨU CON THOÁT NẠN GIAO THÔNG
|^|
-
Trong chánh điện chùa Từ Quang tại San
Francisco, đối diện với tượng thờ đức Bổn Sư Thích Ca là Quan Âm
Các. Ðiện này làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất đẹp, những
đường nét uốn cong, chạm trổ rất công phu. Tượng đức Quán Thế Âm
ngồi trên tòa sen cũng chạm trổ bằng gỗ trầm hương và thếp vàng
lá. Ðây là một bảo vật vô giá về mặt tinh thần, được Hòa Thượng
Nhất Văn, vị sư người Tàu liên lạc thỉnh từ Ðài Loan. Ðiện Thờ
đức Quán Thế Âm được thỉnh về tôn trí tại chùa vào tháng 2 năm
1978. Kinh phí lá 9 ngàn năm trăm Mỹ kim, do gia đình đạo hữu
Nguyễn Thị Quy, pháp danh Quảng Lạc phát tâm cúng dường.
-
Hồi mới lập chùa Từ Quang, đạo hữu
Quảng Lạc có nói với tôi rằng: “Bạch thầy, Ðức Quán Thế Âm linh
hiển lắm, gia đình ba mẹ con của con sống sót trên đất khách quê
người, lập nghiệp nên nổi là chính nhờ Ðức Quán Thế Âm cứu thoát
mọi tai nạn. Ngài đã thường báo cho con nhiều điềm mộng dị
thường. Hồi mới qua, con đi làm thuê đầu tắt mặt tối, đứa con
trai đầu lòng của con mười hai tuổi đi học và đi bỏ báo, cháu
gái út mới hai tuổi, phải nhờ hàng xóm coi chừng và trả tiền rất
đắt. Tiền bạc thiếu kém, nhưng không đáng ngại, về mặt tinh thần
của con thì lại quá trống trải buồn thảm, xuống dốc vô cùng
trước nếp sống khác biệt mọi thứ. Nhưng may nhờ nhớ lơì mẹ con
ngày xưa dặn là hễ có tai nạn nên nhất tâm lễ niệm, phụng thờ
Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì được giải cứu. Con đã làm theo và đã
phát tâm thờ Phật Quán Thế Âm, tụng kinh Phổ Môn, bái sám hàng
ngày nên cả nhà con đều được hạnh phúc và bình yên. Nay con xin
phát nguyện và mong thầy hứa khả hoan hỉ thỉnh tôn tượng Ðức
Quán Thế Âm về thờ ở chùa nhà để Phật tử đến chùa có cơ duyên lễ
bái và phát tâm tu tập theo hạnh từ bi của Ngài, phí tổn bao
nhiêu cũng được, đình con xin nhất tâm tùy hỷ cúng dường.”
-
Ðó là nguyên do Ðiện Các Quán Thế Âm
tại chùa Từ Quang được thỉnh về thờ. Rất nhiều câu chuyện Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện cứu nguy ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc
trong những lúc hiểm nghèo mà đạo hữu đã kể cho tôi nghe. Ðây là
câu chuyện Ðức Quán Thế Âm cứu đúa con trai gia đình thoát nạn
lưu thông vào năm 1981 trên đường đi Nevada.
-
Thành, con trai của đạo hữu Quảng Lạc,
hôm đó buồn mẹ bỏ nhà đi chơi một tuần lễ chưa về. Mẹ ở nhà lo
lắng và nóng ruột quá, ăn không được, ngủ không yên, bèn đóng
cửa tiệm ăn mấy hôm để tĩnh tâm tụng kinh và cầu nguyện cho
Thành trở lại nhà. Linh tính cho đạo hữu Quảng Lạc cảm thấy có
điều chi chẳng lành xảy ra cho đứa con trai duy nhất của mình.
Thành đã bỏ nhà đi chơi nhiều lần, nhưng chưa có khi nào tâm
thần đạo hữu Quảng Lạc bồn chồn, lo lắng nhu lần này. Vì không
an tâm nên đạo hữu Quảng Lạc thức suốt nhiều đêm để niệm danh
hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trước bàn Phật, đạo hữu Quảng Lạc
mệt quá và thiếp đi chốc lát. Trong lúc đó, có một em bé trai độ
mười lăm tuổi, bận áo màu xanh trông rất đẹp, tự xưng là đạo sĩ
của Ðức Bạch Y đến báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc biết là Thành,
đứa con trai của bà đã bị tai nạn xe hơi và đã được cảnh sát đưa
vào nhà thương lớn nhất tại thành phố Nevada. Và, em bé trai bận
áo xanh còn báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc luôn cả số đìện thoại
của nhà thương nữa. Giật mình thức dậy, đạo hữu Quảng Lạc cuống
cuồng, khóc lên ầm ĩ và quá sợ nên không dám gọi điện thoại, dù
đạo hữu Quảng Lạc nhớ rõ số điện thoại em bé trai đã cho trong
mộng. Thay vì liên lạc ngay để biết hư thực việc tai nạn xe hơi
của con mình, đạo hữu Quảng Lạc với kéo tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ
Tát thờ trên bàn cao xuống sàn nhà “hạch tội” Ðức Quán Thế Âm.
Ðạo hữu kêu gọi tên Ngài không ngới rồi nói: “tại sao Mẹ Hiền
không cứu sống con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất
mà thôi. Tại sao nó phải chết sớm, chết một cách oan uổng như
vậy?...” Ngay khi đạo hữu Quảng Lạc đang “đối chất” với pho
tượng đức Quán Thế Âm thì có đìện thoại reo từ cục cảnh sát
Nevada gọi về báo tin tất cả chi tiết tai nạn lưu thông của
Thành cho đạo hữu Quảng Lạc biết. Tình trạng tai nạn của Thành
vô cùng nguy khốn. Khi nghe tin sét đánh xác thực này, đạo hữu
Quảng Lạc ngất xỉu nhiều lần trong đêm. Và trong con mê đạo hữu
Quảng Lạc thấy rõ ràng, một người thiếu nữ mặc áo trắng xinh đẹp
đến vỗ vai an ủi và báo cho đạo hữu Quảng Lạc hay là mạng sống
của Thành đã được cứu thoát, đừng quá đau khổ, lo âu. Người áo
trắng nói: “Nhờ phúc đức của mẹ biết làm lành và lễ niệm Ðức
Quán Thế Âm mà con được nhờ”.
-
Sáng hôm sau, đạo hữu Quảng Lạc mua vé
máy bay cấp tốc đến thành phố Nevada tìm con trai trong một tâm
tư hết sức bình tĩnh. Bước vào phòng cấp cứu, bà trông thấy một
cơ thể bất động bó vải trắng nằm sóng sượt trên giường. Chung
quanh có bác sĩ và nhiều y tá túc trực săn sóc. Hồ sơ bác sĩ cho
hay là Thành đã bị thương tích toàn cơ thể, và nhiều đốt xương
sườn bị rạn gãy, bệnh nhân có thể ở đây từ năm đến sáu tuần lễ
mới biết kết quả tốt hay xấu. Dẫu Ðức Quán Thế Âm, hiện thân là
người áo trắng đã báo cho đạo hữu Quảng Lạc là con trai sẽ thoát
hiểm, bình an trong tai nạn này, nhưng khi nhìn tình trạng mê
man và thân thể bất động của con, đạo hữu Quảng Lạc lại hết sức
lo lắng và rối loạn tinh thần nên réo gọi, kêu cầu Ðức Quan Thế
Âm không ngớt.
-
Vì tiệm ăn quá đông khách, Ðạo hữu
Quảng Lạc ở lại nhà thương với con ba hôm rồi lại phải về San
Francisco xếp đặt công việc để yên tâm săn sóc con trai. Kỳ lạ
thay, đạo hữu Quảng Lạc về nhà chưa đầy ba hôm, thì liền sau đó,
Thành, con trai của bà cũng về nhà. Lúc về nhà, Thành tìm không
thấy mẹ, cậu ta liền chạy đến chùa Từ Quang lễ tạ Ðức Quán Thế
Âm và tìm mẹ. Hôm ấy, đạo hữu Quảng Lạc mua lễ vật đến chùa nhờ
tôi cầu an cho Thành. Không ngờ, vừa tụng kinh Phổ Môn xong, thì
Thành lù lù mở cửa đi ngay vào chùa, mỉm cười và dòn dã chào hỏi
mọi người một cách tự nhiên như không có tai nạn gì xảy ra cho
Thành cả. Mẹ của Thành cứ trân tráo nhìn con trai như vừa sung
sướng, vừa tưởng Thành như một bóng ma hiện hình ban ngày.
-
Thành kể lại là trong khi chán nản,
uống rượu say lúy túy, lái xe chạy quá tốc độ nên xe đâm vào núi
và bị ép nhẹp như một đống sắt vụn. Trong lúc đó, Thành cảm thấy
như một bàn tay vô hình nào ôm Thành ra khỏi xe và đặt Thành nằm
bên lề đường. Nhờ vậy mà cảnh sát phát giác và đưa Thành đến nhà
thương cấp cứu. Các nhân viên cảnh sát địa phương cũng vô cùng
thắc mắc đìều này và tìm không ra câu trả lời, nên lúc Thành
bình phục bị hỏi cung khá rắc rối. Cuối cùng, Thành bị cảnh sát
phạt 80 dollars về tội lái xe quá tốc độ. Ông Brian, nhân viên
cảnh sát nói: “Mừng cho bạn thoát nạn dị thường”.
-
Ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc hiện vẫn ở
tại vùng Bay Area bắc Califonia. Cả nhà vẫn phát tâm tu học tinh
tấn và rất ưa làm phước bố thí. Hàng năm các ngày lễ vía Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát, gia đình đạo hữu Quảng Lạc đều lo hoa trái
cúng Phật, thiết lễ trai tăng cúng dường rất chu đáo làm cơm
khoản đãi cả chùa.
-
Tôi xin nhất tâm tùy hỷ ghi lại câu
chuyện nầy ra đây để ấn chứng công đức gia đình đạo hữu Quảng
Lạc và gây thêm đức tin lành cho mọi người Phật tử xa gần về sự
linh cảm của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.
-
(7)
ÁN – (OM) –
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Quỷ vương độ quần tà
-
Thủ pháp trì mật ngữ
-
Án ma hàng phục ma.
-
GIẢI TRỪ VONG NHẬP
|^|
-
Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy
tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật
Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại
để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh
đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng
mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và
về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể
lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều
hành trại thương lượng co quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia
đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc
thang trị liệu bệnh tình cho bà.
-
Khi đến vùng San Francisco, người nhà
cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi
đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn
sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không
thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ
cho có lệ và để ai nấy yên lòng.
-
Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà
Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn
qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí
ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong
linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và
run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút
thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạn hỏi hoài
mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì.
Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt
ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi thì bà Hạnh nhắm nghiền
hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh,
hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một
giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.
-
Tiếng người con gái này nói mình đã
chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu
chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm
không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn
giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc
động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên
tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm
tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh
Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly
nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa
tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày.
Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây,
khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong
lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn,
chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà
còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo
bà.
-
Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai
cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú
Chuẩn Ðề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và
quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang
nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói
rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ.
Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu
cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có
gần một trăm Tăng Ni và Phật tử, vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố
tát gần đến mùa Vu Ln Rằm tháng bảy.
-
Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh
hiệu Phật, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất
bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại
người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài. Gia đình bà
Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi
thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu
cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng
bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi
về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả
nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.
-
Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái
Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và ký tự vong linh
bất hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ
rằng:
-
Pháp Phật nhiệm mầu
-
Cứu người khổ đau
-
Quan Âm linh hiển
-
Hạnh nguyện thâm sâu.
-
(8)
TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ -
(savalavati) –
-
Quán Âm thị hiện thân tướng
-
Uy Tứ Ðại Thiên Vương
-
Hùng phục như oán tặc
-
Cùng các loài thiên ma.
-
CẦU NGUYỆN NHƯ Ý
-
Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh
Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường
đi chùa lễ Phật, nghe quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ
thuở còn bé. Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh
và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi
thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc
nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh
và niệm Phật thì tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi
tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học . Sau một thời gian tụng
kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn
trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác;
nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm
Phật hang ngày không hề bỏ sót.
-
Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi
tuổi bị bệnh nặng, người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở
chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thường hàn nhập lý và lên cơn sốt
dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm. Các bác sĩ cho người
nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã
nhiễm vào tim. cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình
tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán
Thế Âm Bồ Tát. Tiếp niệm danh hiệu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh
Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả
một góc nhà thương. Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang
trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối nước chảy, có tiếng
chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân lên từng
cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao. Trước
cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn, bên bờ biển Nam
Hải, nơi mà Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng
vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông.
Người nào cũng có tóc và mặc áo nhiều mà rất đẹp nên tôi không
nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà. Riêng tôi thì được một người
đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm
giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai co thanh nữ
mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai
vị này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người
xưng là Bạch Y Quán Thế Âm. Tôi mừng quá liền cúi xụp lạy, nhưng
Ðức Bạch Y đưa tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh
y rót nước trong bình tịnh thủy cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm
thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng.
Tôi bèn ngỏ lời Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu đồng rối rít.
Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng chung
quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm. Hai hôm sau thì
tôi xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho
các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của
tôi. Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh
ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi
cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín tâm rất nhiều cho
tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi
-
Tôi là con dâu trưởng sinh sống với
chồng tôi nhiều năm mà không có con. Chồng tôi thì thương tôi
hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói vào nói ra làm
cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không biết
sanh đẻ”.
-
Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi
hổ thân phận thì tôi lại vui và âm thầm trì tụng kinh Pháp Hoa,
niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái
ra đời cho vui nhà.
-
Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều
năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi thấy mình trở lại núi Phổ
Ðà vào viếng thăm chổ sơ sài của Ðại Sĩ Bạch Y Quán Thế Âm ở.
Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ hầu Ðức
Quán Thế Âm bước lại gần tôi và trao cho một bé gái nhỏ xinh
xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.
-
Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và
chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đã tám tuổi.
Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các
bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương cháu.
-
Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi
thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:
-
Người vô tự quạnh hiu sau trước
-
Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu
-
Từ bi linh hiển pháp mầu
-
Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.
-
Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi
Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi tàu rời bến được độ hai
ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu.
Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con, tiếng cãi
vả của nhiều người với chủ tàu là “ lấy tiền người ta mà làm ăn
bê bối”. Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định
tâm niệm Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy
và chạy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì gặp tàu tuần tiễu của hải
quân Trung Hoa Quốc Gia giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng
Kông. Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì chúng tôi đã đắm
xuống biển 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh
mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra
kịp.
-
Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một
ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi, nhưng tôi quyết sắp xếp để
nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng, đẹp làm nơi tĩnh tâm và
thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi có làm bài thơ tám câu để
tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:
-
Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền
-
Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên
-
Ứng thân diệu dụng vô cùng tận
-
Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.
-
Con xin sám hối những sai lầm
-
Tinh tấn tu học để thanh tâm
-
Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh
-
Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.
-
(9)
SỐ ÐÁT NA ÐÁT TÃ -
(Sudhanatasya) –
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Bộ Lạc Tứ Thiên Vương
-
Khiến cải ác theo thiện
-
Học tu đạo nhất thừa.
-
HẦU BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM
|^|
-
Sống một đời lương thiện
-
Thác theo hầu Quán Âm
-
Mẹ hiền thương con trẻ
-
Thường đêm ngày chở che.
-
Mẹ tôi đã qua đời cách đây gần năm
mươi năm về trước, vì một cơn bệnh ngặt nghèo. Năm qua đời, mẹ
tôi mới ba mươi hai tuổi, tôi mới lên sáu bảy tuổi đầu. Chúng
tôi có bốn anh em. Anh cả và hai em gái. Sau khi mẹ qua đời,
chúng tôi được Dì Út săn sóc. Dì Út bây giờ còn sống và rất
khoẻ, dù tuổi Dì đã hơn tám mươi. Chúng tôi xem Dì Út như mẹ
yêu, nên mỗi mùa Vu Lan đến, tôi và mấy anh em tôi đều cài bông
hồng màu đỏ lên áo.
-
Ðêm qua, chủ nhật ngày 27 tháng 7 năm
1997 tôi mơ thấy mẹ đến thăm tôi. Gặp lại mẹ, tôi mừng lắm. Mẹ
tôi cũng mừng và cả hai đều xúc động đến chảy cả nước mắt. Mẹ
tôi còn trẻ và đẹp lắm. Vóc dáng trông rất mảnh mai, dung nghi
đỉnh đạc. Mẹ tôi khoẻ, nhan sắc hồng hào, tướng mạo đoan trang,
thanh nhã như một bà tiên.
-
Ðêm qua nằm mơ thấy mẹ về
-
Mẹ về như cánh hạc sơn khê
-
Thiên y lộng ngọc bay trong gió
-
Mỉm cười nụ hoa tiên mẹ vỗ về.
-
Tôi hỏi lâu nay mẹ ở đâu?
-
Quán Âm Bồ Tát mẹ theo hầu
-
Cõi phàm qua lại quê Cực Lạc
-
Ði đứng tùy duyên với phép mầu.
-
Từ ngày mẹ tôi qua đời cho đến nay,
lần đầu tiên tôi nằm mơ thấy người. Ðúng là giấc mơ, nhưng giấc
mơ thật kỳ lạ. Ðêm ấy ba lần thức giấc, ba lần tôi thấy mẹ tôi
khi vừa nhắm mắt trở lại. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra như ban ngày
và vẫn tiếp dẫn cùng câu chuyện. Tôi nhớ rất rõ từng lời nói,
từng cử chỉ, từng câu nhắc nhở, khuyến khích, hỏi han của mẹ.
-
-
Mẹ từ đâu tới?
-
-
Ðủ duyên thì tới, chẳng chổ tới, chổ
về.
-
-
Mẹ lâu nay làm gì?
-
-
Mẹ theo hầu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Thấy tôi phân vân, và có vẻ nghi ngờ,
mẹ tôi nhìn tôi mỉm cười chậm
-
Rãi nói:
-
Thật ra các cõi giới khác nhau đều do
tâm sở duyên và sở hiện, chứ chẳng phải đâu xa. Tâm vui thì cảnh
giới vui, tâm buồn thì cảnh giới buồn. Tâm tương hợp và tạo nên
mọi cảnh giới, mọi hiện tượng trong trời đất.
-
“ từ khi mẹ tắt hơi thở, ai cũng nghĩ
là mẹ đã mất. Kỳ thực, mẹ vẫn sống và còn có duyên lành theo hầu
Ðức Quán Thế Âm đi lại khắp nơi để độ người, giúp kẻ lầm than,
lâm hoạn nạn. Con là người có nhiều tai kiếp, nhưng lúc nào Ðức
Quan Thế Âm Bồ Tát và mẹ cũng luôn luôn có mặt bên cạnh con để
hộ trì cho con, giúp sức cho con lập nên chí nguyện lớn, làm lợi
ích cho nhiều người.”
-
“Thưa mẹ, mẹ nói là Bồ Tát Quán Thế Âm
và mẹ luôn luôn có mặt bên cạnh để hộ trì cho con lập nên chí
nguyện.”
-
“Quả như vậy, vì con là hài nhi của
Ðức Quan Thế Âm gởi cho mẹ săn sóc; do đó, Ðức Quan Thế Âm và mẹ
vẫn có liên hệ với con trên suốt hành trình tu tập, phụng sự của
con.”
-
“Thưa mẹ, mẹ có thể chứng minh và nói
rõ hơn điều này cho con nghe được không? Con xin thất lễ với mẹ
là nếu con có Ðức Quán Âm, có mẹ nâng đỡ, thì con không bao giờ
gặp đủ mọi gian nguy, bệnh tật, tai ách, chướng nạn trong cuộc
đời đi tu, hành đạo của con?
-
“Con nên trầm tư, hồi tưởng lại vài sự
việc nguy biến xẩy ra trong đời con, mà con vẫn được bình yên vô
sự. Hơn nữa, tu tập mà không gặp khó khăn, chướng nạn thì do đâu
mà lập chí? Mẹ muốn thuật lại một vài việc cho con nhớ:
-
1-
Năm con trốn nhà đi tu, nửa đêm
hôm ấy trời mưa to và bão lụt, nước ngập lối đi. Khi con vừa leo
lên chiếc cầu nhỏ để qua sông thì chiếc cầu tre ấy bị nước cuốn
trôi, con chìm trong biển nước mênh mông với thân hình chú bé
mười bốn tuổi. Ai đã đưa con lên cồn cát, dẫn tới đường cái quan
và cho xe đón vào chùa Báo Quốc, Huế mà không tốn tiền lệ phí?
-
2-
Con vừa đến chùa Báo Quốc là có
sư tổ khai sơn chùa Giác Hải, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên
đứng đợi con tại cửa Tam Quan chùa. Tối đó, người làm lễ xuống
tóc cho con và khuya hôm ấy, hai thầy trò đón tàu lửa về Nha
Trang. Ai đã xếp đặt việc ấy cho con?
-
3-
Chiều ngày 18 tháng 8 năm 1959,
con bị té từ trên cây dừa lửa cao vút phía bên trái cổng chùa
Giác Hải, thôn Xuân Tự, Nha Trang, Khánh Hòa. Dưới gốc dừa chất
từng đống đá tổ ong để xây trường học, thế mà khi con té xuống
đầu, mình và toàn thân của con không bị một chút thương tích
nào, con tưởng con là hình đồng da sắt hay sao?
-
4-
Thời gian con học nội trú bốn
năm tại chùa Linh Quang, Huế. Ðó là ngày 20 tháng 05 năm 1968,
con bị đau thương hàn nhập lý đưa vào bệnh viện, các bác sĩ đều
bó tay và đã đưa con qua nhà xác. Sau đó vài phút, hóa thân thứ
bốn mươi sáu của Ðức Quan Thế Âm và mẹ đã đến mang con trở lại
phòng điều dưỡng, khiến cho quý thầy, chư vị Tăng Ni và các bác
sĩ, y tá tại bệnh viện Huế đều hết sức kinh ngạc. Con còn nhớ
chuyện ấy không?”
-
Nghe đến đây, tôi không còn ngạc nhiên
và nghi ngờ gì về lời nói và việc làm của mẹ tôi nữa. Vì những
điều mẹ tôi nhắc lại cho tôi nghe, đều hoàn toàn đúng như sự
thật. không phải khi đang đối diện với mẹ tôi trong mộng, mà
ngay trong khi thức giấc, tôi kiểm chứng lại những lời mẹ tôi kể
không sai điểm nào, dù các việc xảy ra trong quá khứ tôi hầu như
quên hết từ lâu.
-
Nằm mơ thấy mẹ về thăm
-
Tỉnh rồi như huyễn tháng năm miệt mài
-
Ngủ thức quả giấc mộng dài
-
Ðâu là chân cảnh là đài gương trong?
-
Bâng khuâng ấp ủ trong lòng
-
Trình ra thay giọt lệ lòng trầm tư
-
Nhân duyên có tự bao chừ.
-
Chân thân như thể thái hư sạch làu
-
Bây giờ cho đến ngàn sau
-
Tình thương của mẹ nhiệm mầu vô song
-
Năm mươi cách bóng mẹ hiền
-
Ðược duyên gặp mẹ thỏa lòng con thơ.
-
(10) NAM MÔ TẤT CÁT LẬT ÐỎA Y MÔNG A
RỊ DA – (Namaskrittva naman arya) -
-
Tướng Long Thọ Bồ Tát
-
Quán Âm thị hiện thân
-
Hàng phục như tà phái
-
Hiển lý tánh chơn không.
-
CẦU SINH CON GÁI TOẠI
Ý
|^|
-
Quán Âm chuyên lễ niệm
-
Cầu con gái thỏa lòng
-
Ðược môn đăng rể quý
-
Cả nhà đều mừng vui.
-
Ông bà ngoại chúng tôi sinh liên tục
ba người cậu, cả đại gia đình và dòng họ ai cũng đều lấy làm
vui. Riêng ông ngoại có lúc ngồi một mình uống trà đăm chiêu,
nghĩ ngợi và buồn rầu. Bà ngoại thấy vậy, gạn hỏi căn do nhiều
lần, ông ngoại không dấu diếm được liền nói với bà ngoại rằng:
-
Tôi một mình tự ý hứa với Ngài chánh
tổng trong làng là hễ trong nhà có sinh con gái thì sẽ kết nghĩa
làm sui gia với bên họ Nguyễn. Thế nhưng đã hơn năm trôi qua mà
thời gian hứa của tôi chưa thành sự thật. Bà đừng hiểu lầm là
tôi trách bà nghe, chỉ là nhà ta thiếu phước nên chưa đủ duyên
cùng làm người nhà với Ngài chánh tổng đó thôi.
-
Nghe ông ngoại nói xong, bà ngoại thấy
thương chồng, sốt ruột và lại cũng đâm ra lo lắng. Bà ngoại dầu
chưa bao giờ biết việc ông ngoại có hứa về vị chánh tổng nhà họ
Nguyễn về việc ông ngoại âm thầm ước muốn trong nhà có một cô
con gái cho nội ngoại đề huề, ấm áp gia phong. Ðồng tình, thuận
ý như nhau, ông bà ngoại tôi đều nghĩ tới việc lên chùa cầu tự,
xin Phật phù hộ được sinh con gái.
-
Hôm ấy nhằm tiết trung thu rằm tháng
bảy, ông bà ngoại tôi về thăm chùa Sắc Tứ, tổ đình Quãng Trị
cúng Phật và bày tỏ ý nguyện. Trong dịp ấy ông bà ngoại tôi được
duyên may gặp tổ Bích Phong từ Huế ra giảng pháp, Ngài dạy ông
bà ngoại tôi phát tâm mua ngói lợp lại ngôi Phật điện bị hư dột
vì chiến tranh. Ông bà ngoại tôi lại được quy y với tổ và biết
lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từ đó. Tổ Bích Phong
căn dặn ông bà ngoại tôi là nên phát nguyện ăn chay, giữ giới
thanh tịnh, trong sạch thân tâm thì mọi ý mong cầu đều được toại
nguyện. Nhân đó tổ ban cho ông bà ngoại tôi một bài kệ văn bằng
chữ Nôm như sau:
-
“Quán Âm Bồ Tát từ bi
-
Cứu người đau khổ lâm nguy ách nàn
-
Ăn chay giữ giới làm lành
-
Cầu chi được nấy toại nguyền hôm mai
-
Muốn cầu con gái con trai
-
Thành tâm lễ niệm gái trai phỉ nguyền.
-
Quán Âm niệm niệm tinh chuyên
-
Tham sân chừa bỏ lặng yên sóng cồn
-
Ngồi thiền đèn tuệ rạng chong
-
Sống vì tất cả mát dòng chân minh
-
Một đời chớ có sát sinh
-
Nguyện lòng chớ có trộm cắp dâm tà
-
Dối gian lường gạt tránh xa
-
Rượu say cờ bạc quyết từ bỏ đi.
-
Quán Âm cứu khổ từ bi
-
Thiết tha cầu khẩn thỏa lòng ước mơ.”
-
Bằng vào lời dạy của Tổ, ông bà ngoại
tôi hết lòng phát nguyện tu tập, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm;
thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng, lễ bái,
xưng niệm, cầu nguyện rất chuyên cần và tha thiết. Một năm sau
điều nguyện ước mong của ông bà ngoại tôi được thỏa mãn. Bà
ngoại thọ thai, mẹ tôi ra đời, rồi kế đến là Dì Út ra đời. Ông
cố ngoại đặt tên cho mẹ tôi là Trần Thị Vui, đặt tên cho Dì Út
là Trần Thị Mừng, là niềm vui lớn tràn ngập cả nhà mong ước
nguyện cầu sanh con gái được sanh con gái của ông bà ngoại tôi.
Chính nhờ sự linh ứng cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm có hiệu nghiệm
này mà trong đại gia đình ông ngoại và trong đại gia đình ông
nội tôi, cùng bà con giòng họ xa gần, dân chúng thôn trên xóm
dưới, ai ai cũng một lòng tín cẩn, phụng thờ chăm lòng lễ niệm
và sống theo hạnh lành của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Chuyện này được viết theo lời kể của
ông Trần Hải và Trần Phước, hai người con của ông bà ngoại, cậu
ruột của tôi hiện còn sống tại Long Hưng, quận Hải Làng, tỉnh
Quảng Trị.
-
-
(11) BÀ LÔ CÁT ÐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG
ÐÀ BÀ – (Avalokitashavara lantabha) -
-
Quán Âm thị hiện tướng
-
Viên mãn thân trang nghiêm
-
Tỳ Lô Giá Na Phật
-
Ðộ vô lượng chúng sanh.
-
NGỒI THIỀN TRÊN SỪNG TRÂU
|^|
-
Cậu bé mặc áo đỏ
-
Trâu ô húc vướng sừng
-
Mang chạy quanh miếu cổ
-
Lão bà hiện, trâu quỳ.
-
Em bé trai bận áo đỏ chừng bốn tuổi,
chạy tung tăng bắt bướm từ trong vườn ngôi miếu cổ của làng. Một
con trâu mộng, sừng nhọn, to tướng đang ăn cỏ nơi vỉa hè ngôi
miếu cổ, bỗng hai con mắt nổi lửa đỏ ngầu, sung sục chạy đến húc
cậu bé cắm lên hai sừng, rồi chạy đến khắp đường làng, khiến ai
nhìn thấy cũng đều kinh hoàng và hoảng sợ. Riêng cậu bé lắc lư
trên sừng trâu như đang “tọa thiền” khoái chí. Con trâu mang cậu
bé chạy cùng đường, rồi lạ thay nó chạy trở về lại ngôi miếu cổ.
Vừa chạy vào sân miếu, con trâu thấy một bà lão tóc bạc, chống
gậy đứng trước ngôi miếu, con trâu liền quỳ hai chân trước một
cách cung kính và để bà lão ẵm em bé xuống đất một cách bình
yên, rồi thì bà lão biến mất. Cậu bé ấy chính là tôi, chứ không
ai khác. Vết sẹo năm xưa bị trâu húc sát bụng dưới của tôi, bây
giờ vẫn còn là một “di tích lịch sử” chưa phai mờ.
-
Khi tôi lớn lên được người nhà thuật
lại rằng, mẹ tôi hay tin em bé bận áo đỏ bị trâu húc liền run
rẩy bà báo tin cho bà nội hay. Bà nội nghe xong hết sức bình
tỉnh, bà thong thả thắp hương đèn trước bàn Phật, rồi gọi hết cả
nhà cùng người ăn kẻ ở xúm lại đông gần năm mươi người cả thảy,
đồng thanh niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chỉ trong vòng
mười phút sau là tôi được cứu và mang về nhà. Mẹ tôi kể là, vì
câu chuyện tôi bị trâu húc mà từ đó không mấy người ưa màu áo
quần đỏ, cho chí khăn màu đỏ, ông bà nội tôi đều cấm con cháu
dung tới.
-
Bà lão hiện thân đó là ai?
-
Tại sao trâu lại chống chân quỳ
-
Bé thơ ngộ nạn mà không chết
-
Có phải tổ tiên có đức dày?
-
Những nghi vấn trên đây, tùy nơi đức
tin, kinh nghiệm, sự thực tập của mỗi người để trả lời. Riêng
ông bà nội và mọi người trong gia đình tôi cho rằng, bà lão hiện
thân trong miếu để ra uy cho con trâu mang tôi trở lại miếu và
quỳ xuống để tôi không ngộ nạn, là hóa thân của Ðức Quan Thế Âm
Bồ Tát.
-
(12) NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ – (Nammo
Nilakantha)
-
Quán Âm thị hiện tướng
-
Tự tánh Tỳ Lô Hải
-
Thanh tịnh pháp thân Phật
-
Cứu khổ hằng ban vui.
-
BÀ CỤ BÁN CHÈ THOÁT NẠN.
|^|
-
Cụ Sen trên sáu mươi lăm tuổi, cư ngụ
tại Ðà Nẵng tỉnh Quảng Nam, ngày ngày trời mưa cũng như trời
nắng, phải đi bán cho xong hai gánh chè rong, mới đủ ít tiền lời
mua gạo nuôi một đàn cháu.
-
Cụ có một người con trai lấy vợ sinh
được bốn cháu nội, ba trai một gái. Cháu đầu mười một tuổi, ba
cháu sau cách nhau một đứa hai tuổi. Bốn cháu nội của cụ chưa
khôn lớn nhưng rủi thay, cha mẹ chúng đã qua đời cùng một lúc vì
mìn nổ khi cả hai bò qua hàng rào kẽm gai của một đồn lính cũ,
lượm các lon bia và lon nước ngọt để đổi gạo nuôi các con trong
cảnh nghèo khó. Tám đứa cháu ngoại khác, con của người con gái
lớn của cụ cũng rất thương tâm. Ðứa đầu là con trai mười sáu
tuổi, bị cụt hai chân vì chiến tranh. Em thường ở nhà bò lê trên
nền đất của cái bếp nhỏ xíu, giúp bà ngoại nấu đủ các loại chè.
Bảy bé gái, từ mười bốn tuổi trở xuống, chỉ cách nhau một đứa
vài ba tuổi. May mắn là ba cô bé sau ở trong viện cô nhi Diệu
Ðịnh, lâu lâu mới được phép kéo nhau về nhà thăm bà ngoại, bốn
chị lớn và người anh tàn tật. Cha chúng đi lính bị chết, mẹ mắc
phải bệnh đau tim và qua đời hồi đứa con gái mới sinh được ba
tháng. Nhờ lúc còn sống, mẹ của các cháu hay đến cô nhi viện
Diệu Ðịnh làm công quả, tắm giặt, lo cơm nước cho các em bé mồ
côi, nên sau khi bà qua đời ba đứa nhỏ được ban giám đốc viện mồ
côi ưu tiên giúp đỡ.
-
Tôi được biết chút ít về gia cảnh buồn
tủi, khốn khổ của cụ Sen, vì tôi quen biết cụ bằng những chén
chè nếp canh khuya khi cụ đi ngang qua chùa Phổ Ðà trên đường đi
bán chè về nhà của cụ. Hồi đó, năm 1964 tôi đang chương trình đệ
tứ trường trung học Bồ Ðề Ðà Nẵng. Ðêm nào tôi cũng thức để học
bài và làm bài đến mười hai giờ khuya. Làm bài xong, ngồi canh
chừng ở bờ tường có lổ hổng chờ cụ Sen đi bán chè về. Nếu may
lắm thì những chén chè nếp nấu với đậu ngự còn sót lại, cụ chỉ
bán cho tôi và các chú tiểu giá tiền phân nửa. Khi mua được
những chén chè của cụ, chúng tôi phải ngồi ăn tại bờ tường để
trả chén lại cho cụ. Có lần nghe tôi nói chuyện đi tu cũng nhớ
cha nhớ mẹ, nhớ ông bà nội, ông bà ngoại lắm. Cụ nghe xong rồi
chảy nước mắt. Từ đó cụ cho chúng tôi ăn chè mà không hề tính
toán; hễ có chút ít tiền thì trả, bằng không thì thôi, cụ cho ăn
miễn phí. Cụ nói cụ xem chúng tôi như cháu của cụ. Ăn chè của cụ
mà được miễn phí nhiều lần quá, nên tôi rất ngại. Tôi liền nghĩ
ra cách đền đáp cụ là dạy cho cụ Sen bán chuyên tâm lễ niệm Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát. Một hôm tôi nói với cụ.
- “Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát linh lắm cụ ơi! cụ có rãnh nên ghé vào chùa
lễ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Bằng như quá bận rộn, thì cụ cứ
chuyên tâm mà niệm “ Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán
Thế Âm Bồ Tát” lâm râm trong miệng thường xuyên cũng được. Cụ
rất tin và nghe lời. Nhưng vì cụ không biết chữ, nên tôi phải
dạy cho cụ đến cả bảy lần cụ mới nhớ nổi. Cũng từ đó, tôi được
nếm đủ các loại chè của cụ hoàn toàn miễn phí. Lần đầu tiên tôi
được ăn chè hạt sen, một loại chè đắt tiền nhất trong các loại
chè. Gọi là cụ Sen vì tôi được nhiều lần ăn chè hạt sen thượng
hạng của cụ, nên tôi tự động đặt tên ấy cho cụ để nhớ lòng tốt
của cụ.
-
Một ngày nọ, cụ Sen gánh chè đi bán,
và vì trời quá nóng nên cụ ngồi sát bên bờ tường táp lô ở hông
chùa Phổ Ðà để nghỉ. Vừa ngồi chốc lát thì cụ thấy có một người
bận áo trắng, mặt mày rất xinh vừa đi vừa khóc như có chuyện
buồn. Thấy vậy cụ động lòng trắc ẩn liền chạy theo để hỏi lý do
và có thể an ủi người ấy. Nhưng khi cụ vừa đến thì nàng biến mất
như một cái bóng liền ngay lúc đó, bờ tường cũ mà cụ Sen ngồi
nghỉ mát bỗng ngã xuống rất mạnh, choán hết cả lối đi và làm tan
nát gánh chè của cụ. Tôi và các chú trong chùa nghe mọi người hô
hoán là bờ tường chùa bị đổ, chúng tôi chạy ra xem thì thấy cụ
Sen mếu máo khóc vì tiếc rẻ gánh chè bị mất và soong nồi chén
bát đều bị tiêu tán. Tôi đã an ủi cụ là “của mất mà người còn”.
Và tôi “báo cáo” cho cụ Sen rõ, đó là nhờ cụ tin tưởng Ðứa Quán
Thế Âm Bồ Tát. Nhờ cụ thường niệm danh hiệu Ngài mỗi ngày nên có
sự linh nghiệm. Thưa cụ, người thiếu nữ bận áo trắng mà cụ thầy
kia chính là hóa thân thị hiện cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ
Tát. Nếu không có Bồ Tát giả làm người con gái đến cứu cụ thì cụ
đã theo ông bà rồi.
-
Không chỉ an ủi cụ Sen thôi, thực tế
hơn tôi đã đi xin tiền các Dì Vãi trong chùa và các Phật tử quen
thân để tạo “cơ nghiệp” gánh chè bán hàng rong cho cụ Sen. Tình
nghĩa giữa gia đình cụ Sen và tôi đã khắn khít nhau từ đó. Tôi
có làm bài thơ tặng cụ Sen:
-
Chú tiểu thức khuya để ăn chè
-
Ăn chè miễn phí thẹn ấp e
-
Bèn khuyên bà cụ Quán Âm niệm
-
Linh ứng cho nên thành khỏi đè.
-
(13) HÊ RỊ MA HA BÀN ÐA SA MẾ (
Srimahapatashami)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Vị vua Dương Ðầu Thần
-
Hộ trì các hành giả
-
Ðạo quả chóng viên thành.
-
BÀN
TAY MẦU NHIỆM CỦA ÐỨC QUÁN THẾ
ÂM
|^|
-
Tôi sống nhờ bàn tay mầu nhiệm
-
Ðức Quán Âm cứu khổ mẹ hiền
-
Một tai nạn lưu thông khó thoát
-
Một linh ngời linh diệu bình yên.
-
Hôm đó tôi đi lên bộ nội vụ với thầy
Pháp Bạc để xin giấy tờ đi Mỹ. Trên đường đi, di chuyển bằng
chiếc xe Vespa cũ của thầy Pháp Bạc và do thầy cầm lái. Không
may, khi chiếc xe chúng tôi lướt nhanh trên đường từ Phú Lâm lên
Sài Gòn thì bị một chiếc xe M.C của quân đội, do một anh lính hạ
sĩ quan Việt Nam say rượu cầm lái, húc mạnh và cán lên chiếc xe
Vespa của hai chúng tôi. Lúc vừa bị xe lớn cán lên xe và lên
người hai chúng tôi, tôi thoáng thấy một bàn tay dài, lớn, mềm
mại nhanh nhẹn ẵm lấy tôi đặt vào một gốc cây to sát lề đường.
Nhiều người đi đường thấy hai ông thầy tu bị xe “chạy ẩu” cán
nát bèn xúm lại và kéo ông tài xế xe M.C xuống để hạch tội, hành
hung. Một số người khác dùng sức kéo chiếc xe Vespa nghiền nát
như bánh tráng đang kẹp dưới chiếc xe lớn. Nhưng lạ thay, họ
không thấy hai chúng tôi đâu cả. Ngồi yên trong gốc cây, tôi
quán sát cảnh tượng náo nhiệt một hồi, rồi nhìn thấy thầy Pháp
Bạc đang lom khom bò lên từ ống cống của rãnh nước. Kiểm soát
kỷ, cả hai chúng tôi thấy không hề bị thương tích gì cả bèn chạy
tới đám đông “cứu khổ” cho tài xế M.C. đang bị bà con tấn công
chuộc tội. Tôi thong thả bước tới dang hai tay cản những người
đang hành hung bác tài xế và nói to: “chúng tôi còn đây nè, cả
hai thầy tu chúng tôi không bị thương tích gì cả trong tai nạn
này, xin cảm ơn bà con cô bác đã quan tâm và xin tất cả vui
lòng, tuyệt đối không nên làm khó dễ bác tài xế.” Nghe lời tuyên
bố, cả đám đông gần mấy chục người yên lặng và vô cùng kinh ngạc
nhìn hai chúng tôi với nét mặt mừng rỡ, cung kính. Riêng bác tài
xế thì khóc sướt mướt và quỳ xuống đường chấp hai tay lạy chúng
tôi như lạy tế trời.
-
Nhân đám đông và cảnh sát công lộ có
mặt làm hồ sơ tai nạn lưu thông, tôi đã lợi dụng cơ hội này diễn
thuyết một hồi về sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi
nói vắn tắt mấy lời như sau:
-
“Kính thưa quý vị, hai chúng tôi bị
tai nạn khủng khiếp, có thể chết trong đường tơ kẻ tóc. Nhưng
quý vị xem thân thể hai anh em chúng tôi dây, không hề bị thương
tích gì cả. Áo quần chúng tôi rất sạch sẽ, không bị lấm đất,
không dính một giọt máu vì tai nạn. Quý vị thấy có lạ không? Ðây
là pháp Phật nhiệm mầu. Hai anh em chúng tôi nhờ sớm biết đi tu,
không gây tạo điều xấu ác, nên có thiện quả và có Phật Thánh, Hộ
pháp, Long thiên, Chư thiên che chở. Vừa rồi hai anh em chúng
tôi được thoát nạn, chính là nhờ bàn tay cứu vớt của Ðức Quán
thế Âm Bồ Tát. Ngài là Phật, là vị Thánh linh hiển hay cứu giúp
mọi người khi ai thường tin cẩn và niệm tên của ngài…” Nói tới
đây, bổng tôi niệm lớn Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán
Thế Âm Bồ Tát và kỳ diệu thay, tất cả mọi người kể cả những cảnh
sát viên cũng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát theo sự
hướng dẫn của tôi. Cũng nhờ vậy mà trong đám đông ấy có rất
nhiều người trở thành Phật tử thân tín của tôi trước khi tôi đi
học ở Mỹ.
-
Sau tai nạn ấy, tôi hỏi cách tu tập
hàng ngày của thầy Pháp Bạc. Thầy nói, thầy đã tin Ðức Quan Thế
Âm Bồ Tát hồi còn chưa xuất gia và đêm nào thầy cũng trì tụng
kinh Ðại Bi ba biến, niệm tên Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát 108 lần mới
đi ngủ. Riêng tôi thì hay tụng kinh Phổ Môn và kinh Pháp Hoa
suốt trong cuộc đời xuất gia. Tôi tin Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát như
năng lực mầu nhiệm sẵn có trong tự tâm và năng lực ấy giao cảm
được với năng lục tối cao của chư Phật, chư Bồ Tát. Và, Bồ Tát
Quán Thế Âm, cứu khổ chúng sinh vô cùng tận trong đời vị lai.
Ngài, vị thánh linh hiển.
-
(14) TÁT BÀ A THA ÐẬU DU BẰNG
(Sarvadvatashubham)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Bồ Tát Cam Lộ Vương
-
Tay cầm bình tịnh thủy
-
Cành dương giải oán thù.
-
CHỮA
LÀNH BỆNH BÀI BẠC|^|
-
Bệnh bài bạc khảo đảo
-
Chuyên trì chú Ðại Bi
-
Niệm Quán Âm danh hiệu
-
Thoát khỏi khổ tai ương.
-
Dì Ẩn một nữ tu tại gia và phát nguyện
lui tới ngôi chùa nhỏ, không có thầy trú trì để lau bàn Phật,
quét tước và làm công quả. Quê của Dì ở Huế, nhưng vào trú ngụ
với người cháu họ tại Ðà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam.
-
Tôi quen Dì vì có thời gian tôi xin
thầy giáo thọ rời Phật học viện Phổ Ðà về khuôn hội Vĩnh An tạm
trú để học bài thi và được Dì Ẩn lui tới nấu cơm, làm bánh nậm,
bánh bèo cho ăn. Ăn hoài nên “mắc nợ” của Dì quá nhiều, tôi nghĩ
tới chuyện đền đáp nên tìm cách hướng dẫn cho Dì Ẩn học thuộc
mười hai lời nguyện của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi khuyên dì
nên niệm danh hiệu Quán Thế Âm, cùng lễ lạy Bồ Tát mỗi sáng sau
khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ. Dì rất vui, tha thiết
tin theo và thực tập rất tin cần. Khoảng hai tháng sau, một hôm
Dì tới chùa gặp tôi với nét mặt buồn rầu, mỏi mệt, chán nản, đau
khổ. Hỏi ra tôi mới biết về chuyện “xấu” đã xảy đến cho Dì.
-
Dì Ẩn nói cách đây bốn tuần lễ, có một
bà bạn cũ ghiền cờ bạc tới chơi nhà rủ rì rủ rê Dì nhập song bài
“cầu tài”. Không dè tiền chẳng tới mà nhà cửa sa sút. Bao nhiêu
vốn liếng làm việc cực khổ dành dụm bấy lâu bây giờ Dì đã đem tế
sống cho “cô hồn ác đảng” lại còn phải mắc nợ mấy bà bạn “giàu
lòng” thiện cảm nữa. Nói xong rồi Dì khóc nức nở và cho là Phật
Bà Quán Âm không thương tưởng, không cứu khổ, không linh thiêng
phò trì cho vụ nhập sòng đen đỏ của Dì.
-
Tôi nghe Dì kể xong mà phát giận. Giận
vì Dì không tới chùa làm bánh cho ăn. Giận vì Dì để lòng tham
xui khiến sa vào thói đỏ đen bài bạc rồi lại trách Phật Thánh,
Bồ tát Quán Âm không cứu độ, phù hộ cho việc đánh bạc của Dì.
Trong khi tôi bực bội quá đỗi, Dì lại năn nỉ tôi cứu Dì bằng
cách cho Dì mượn mấy chục ngàn để trả nợ, nếu không tiền lời của
chủ nợ sẽ làm lên ngập đầu. Tôi chịu hết nổi sự khóc lóc, kêu
nài vô lý của Dì. Tôi bèn làm dữ với Dì và thay vì nói tới tiền
bạc, tôi khuyên Dì Ần nên tiếp tục niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, đọc kinh Ðại Bi mỗi ngày hai mươi mốt biến và phát
nguyện tụng kinh Pháp Hoa với tôi mỗi buổi tối tại chùa.
-
Dì Ần ở chùa làm công quả và tu tập
được một tuần sau thì có hai bà to mập, phì nộn tới chùa tìm Dì
Ẩn đòi tiền lời và tiền vốn cho Dì vay để đánh bạc. Tôi đã tiếp
họ thay vì để Dì Ẩn chường mặt với hai bà phụ tá chủ sòng bạc
kín tại thành phố Ðà Nẵng. Trong khi tiếp xúc với hai bà, tôi đã
khéo lời khuyên hai bà ấy về “tội dụ dỗ” người hiền đánh bạc.
Nhân đó tôi đọc một bài thơ cho hai bà nghe và Dì Ẩn ngồi trốn
trong liêu cũng nghe nữa. Bà thơ ấy tôi không nhớ rõ là của ai,
nhưng khi nó tuôn ra từ miệng của tôi thì có một năng lực kỳ
diệu. Bởi vì tôi đọc xong và giải thích thêm về ý nghĩa, chi
tiết của bài thơ thì hai bà rơi nước mắt. Sau đó, xin vào điện
Phật lạy sám hối. Trước khi hai bà ra về, họ hứa với tôi là sẽ
tìm thầy quy y học đạo không tham gia vào nghề đen đỏ và họ hứa
không đòi tiền nợ do Dì Ẩn mượn nữa.
-
Bài thơ ấy có nhan đề là đồng tiền phi
nghĩa:
-
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền
-
Mi làm nhân loại hóa ra điên
-
Mi tô mặt nạ đên thành trắng
-
Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên.
-
Mi đạp luân thường vô một xó
-
Mi xô trí tín dẹp đôi bên
-
Mi xua thế giới đâm nhau mãi
-
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền.
-
Sau khi “cứu” được Dì Ẩn ra khỏi bệnh
bài bạc, tôi rất có niềm tin nơi Ðức Quán Thế Âm Bồ tát. Vì tôi
không ngờ chuyện khó “tầy trời” của Dì Ẩn và chuyện đòi tiền của
hai bà nghề bài bạc mà có thể vượt qua được. Người tin tưởng Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát sâu sắc, chân thành hơn tôi nữa, đó là Dì Ẩn.
Vì từ khi có biến cố khó khăn cùng cực xảy ra và vượt qua khỏi,
thì Dì Ẩn mới phát tâm tin hạnh cứu khổ của Ðức Quán Thế Âm
nhiều hơn. Mừng chuyện tiến tu của Dì Ẩn tôi có làm bài thơ trào
phúng tặng Dì như sau:
-
Dì Ẩn trong phòng trốn nợ kêu
-
Tim run muốn rớt nhịp không đều
-
Quán Âm thầm niệm thôi lia lịa
-
Ðể chú trọc đầu phải chịu true
-
Quán Âm cứu khổ pháp linh mầau
-
Giúp người ra khỏi chốn sầu đau
-
Múa gậy đọc thơ đất chuyển động
-
Tình mê sáng dậy chiếu ngàn sau.
-
(15) A THỆ DỰNG ( Ashiyum)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Phi Ðằng Quỷ Dạ Xoa
- Ðộ
những người hung hiểm
-
Bỏ ác theo pháp lành.
-
MẮT MÙ LẠI SÁNG
|^|
-
Lúc 53 tuổi, mắt của Dì Mão tự nhiên
bị đỏ lói rồi sưng to. Sau đó không bao lâu thì hai mắt của Dì
bị mù. Các thầy thuốc đông y, tây y đều tìm đến chữa trị, song
không có hiệu quả. Tình trạng này kéo dài rất nhiều năm, khiến
Dì rất đau khổ và khó khăn cho đời sống vô cùng. Có một lần Dì
mò ra bờ ao hái rau muống, không may bị trượt chân té xuống hồ
sâu ngập nước, suýt chết. May có người hàng xóm đi qua nhanh tay
cứu Dì qua cơn tai nạn.
-
Gặp lúc bệnh khổ ụp tới, cùng đường bí
lối, Dì Mão mới quay về Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu
của Ngài cầu cứu Ngài cứu khổ, cứu nạn. Cộng thêm sự huy động
tinh thần và lời khuyên dạy của Hòa Thượng Phổ Phổ Thiên, Trụ
trì chùa Phổ Ðà tại Ðà Nẵng. Dì Mão tăng phần tín nhiệm, tin
tưởng vào thần lực của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó, Dì Mão bắt
đầu chuyên niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ bái chuyên cần sớm
tối, tha thiết mong cầu được sớm lành mắt, tai qua nạn khỏi. Cứ
sau mỗi lần lễ bái, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm được 108 lần,
dì Mão lại đọc lời tác bạch trước tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát:
-
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán
Thế Âm Bồ Tát Dì cứ lặp đi lặp lại 21 lần rồi nói: “con là người
mê muội, chữ nghĩa không rành, lý đạo chẳng thông, nghiệp chướng
sâu dày, mang nhiều nổi khổ. Nay hai mắt bị mù lòa, tâm thần rối
loạn, sống mà cũng như chết. Lòng con không an, khổ lắm. Mong
Ðức Phật Bà Quan Âm cứu giúp, chữa trị cho hai con mắt của con
sáng lại. Con nguyện sau khi hai mắt của con được sáng, con xin
trọn đời vào chùa làm công quả, chuyên làm việc lành, phụng sự
Tam Bảo, không hề luống phí thời gian, chuốc thêm nghiệp xấu,
phiền não. Xin Ðức Phật mười phương soi sáng, xin Ðức Bồ Tát
Quán Âm chứng giám cho lời phát nguyện chân thật của con”.
-
Kỳ diệu và linh nghiệm thay, sau gần
ba tháng chuyên tâm trì niệm hồng danh, lễ bái và cầu nguyện Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát, đôi mắt của Dì Mão được sáng lại như xưa.
Trước khi lành bệnh có chuyện xảy ra là một buổi sáng Dì Mão
đang ngồi lần chuỗi, miệng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tại góc
chuông chùa Vĩnh An, thuộc khuôn hội Phật Giáo tỉnh quảng Nam Ðà
Nẵng thì bỗng có một người “khách lạ” nói giọng người con gái
nhỏ nhẹ và tự xưng là học trò của Ðức Quán Thế Âm mang tới biếu
người có lòng tin cậy, lễ niệm thuốc Phật Bà. Nói xong tự tay cô
gái bỏ thuốc vào miệng cho Dì Mão và bảo là uống thuốc rồi chắc
chắn sáng mai mắt sáng. Thì ra đó là giấc mơ của Dì Mão đã xảy
ra đêm qua trước khi mắt dì được sáng lại. Dì nói giấc mơ rõ
ràng như chuyện xảy ra ban ngày vậy.
-
Chuyện Dì Mão lành đôi mắt nhờ lễ niệm
Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đã lan tràn khắp tỉnh và xóm làng. Khiến
nhiều người chưa quy y, chưa biết gì về đạo Phật cũng đều phát
tâm tín cẩn Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và đi thỉnh tôn tượng của Bồ
Tát về thờ phượng, lễ bái.
-
Mắt mù khó sáng lại
-
Thuốc Ðông tây khó lành
-
Niệm Quán Âm lễ nguyện
-
Cảm ứng bất tư nghì.
-
Dì Mão là một thành viên rất thuần
thành và hết sức tích cực trong việc hộ trì Tăng, Ni trẻ tu học
thiếu điều kiện vật chất trong số đó có tôi. Từ khi Dì được Bồ
Tát Quán Âm cứu khổ và điểm hóa, Dì Mão đã trở thành bà mẹ tình
thương của rất nhiều trẻ thơ mồ côi, xấu số. Dì đã trải dài cuộc
đời còn lại của mình để phụng sự Phật pháp và tình thương với nụ
cười, đôi tay khoẻ trong trái tim giản dị, tươi mát, mộc mạc,
hiền lành của Dì. Dì sống gần đến chin mươi mới qua đời. Nhà thơ
Nguyễn Duy An đã từng thọ ơn của Dì Mão rất nhiều và có đọc tặng
Dì bài thơ Bà Mẹ Tình Thương khi tiễn Dì lần cuối:
-
Dì không sinh con đẻ cháu
-
Mà con cháu đầy đàn
-
Tâm Dì hiền như Phật
-
Lòng Dì rộng thái không
-
Tình nào bằng tình mẹ
-
Tình Dì còn trội hơn
-
Một đời trong như ngọc
-
Lấy nụ cười hồn nhiên
-
Dùng đôi tay mềm nhẹ
-
Bên lời nói ngọt ngào
-
Với nghi biểu ngời sáng
-
Nuôi bé nghèo đơn côi
-
Dì tình mẹ cao vút
-
Nhớ hạnh Dì bao la
-
Lời không thể nói được
-
Kính thương Dì không nguôi.
-
Xin cầu Dì về bến
-
Cõi Cực Lạc Di Ðà
-
Sống an hòa tự tại
-
Hóa thân về thăm quê.
-
(16) TÁT BÀ TÁT ÐA ( NA MA BÀ TÁT ÐA) NA MA BÀ GIÀ
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Thần Vương Bà Già Bà
-
Hàng phục các ma chướng
-
Ðộ những kẻ hữu duyên.
-
ÐỨC QUÁN ÂM ÐIỂM HÓA
|^|
-
Bất đắc làm thiện sự
-
Chán hầu điện Quán Âm
-
Bồ Tát hóa thân nữ
-
Dẫn độ tiểu đồng vui.
-
Chú tiểu mười bốn tuổi, đến tu chùa
Giác Hải, núi Ông Sư. Chùa dựng lên trên mấy chục mẫu đất, cây
cảnh xanh tươi, có nhiều thú dữ. Ðỉnh núi Ông Sư có điện Quán Âm
thờ Phật Bà, tiếng đồn rất linh hiển. Chùa thiêng, cảnh rộng,
việc tụng kinh, quét tước và tạp dịch có muôn thứ, thế mà trong
cảnh già thanh lam thanh tịnh, u tịch chỉ có bóng dáng hai thầy
trò, sớm tối lễ bái, chuyên tay làm đủ mọi thứ không có giờ giấc
nghỉ ngơi. Ðã thế, có lúc sư phụ phải đi xa, ít thì vài ba tuần
và nhiều thì vài ba tháng, để lại chú tiểu ở nhà một mình quán
xuyến tất cả.
-
Nỗi lo lắng, sợ hãi và bối rối nhất
của chú tiểu là cứ mỗi buổi chiều mặt trời sắp lặn thì chú tiểu
phải leo lên đỉnh núi Ông Sư để thắp hương, lau các bóng đèn hột
vịt và châm dầu vào các bình đèn lồng. Ðể trốn sự lo lắng, sợ
hãi về bóng tối, cọp, ma, quỷ, thần linh…chú tiểu phải leo lên
điện Quán Âm lúc trời đứng bóng. Nhưng chú tiểu vỡ lẽ là không
thể châm dầu và thắp đèn lúc này được, vì lên đèn sớm quá dầu
lại hết khi trời mới nhá nhem tối. Chú tiểu lại “lỡ” học bài và
“lỡ” hứa với sư phụ là không thể làm dối, nói dối. Thế là sự lo
lắng, sợ hãi và bối rối của chú tiểu mặc sức bành trướng và bao
trùm. Từ đó chú tiểu đâm ra giận dỗi sư phụ, giận dỗi Ðiện Bà và
Phật Bà Quán Âm. Dù biết giận dỗi như thế là vô lý song chú tiểu
vẫn không biết làm gì khác hơn.
-
Một hôm trời còn sáng, chú tiểu ngồi
bậc dưới chân Ðức Quán Thế Âm, mắt ngước nhìn diện mạo Phật Bà,
khóc tức tưởi. Khóc đã them rồi đôi co với tượng Phật Bà
-
“Sư phụ đi vắng, con ở nhà một mình sợ
gần chết, sợ té nước trong quần mỗi tối lên đây thắp dầu. Phật
Bà có linh thiêng thì giúp con làm cho các cây đèn hột vịt này
sáng hoài, bóng sạch sẽ hoài và dầu trong bình không hề cạn.
Phật Bà mà làm không được thì không thể gọi là Phật Bà linh
thiêng được, phải không Phật Bà.”
-
Nói xong, chú tiểu như trút được một
ít sự bực nhọc, lo lắng, sợ hãi và giận dữ trong lòng. Dù vậy,
chú tiểu vẫn không tin tưởng là Phật Bà làm được chuyện nhỏ thắp
đèn mà chú cằn cựa thách đố. Vì vậy, mỗi lần lên điện Quán Âm
lau bóng đèn, châm dầu là chú lại ngồi khóc, bực tức, giận dỗi,
thách đố và cằn cựa với Ðức Quán Âm bằng cách lập đi lập lại sự
đòi hòi của mình. Một buổi chiều mưa bão lớn, cây cối ngã đổ
khắp vường chùa, chú tiểu không hề nhìn và không màng nghĩ tới.
Trời mới ráo cơn mưa, chú tiểu cấm đầu chạy ù leo lên đỉnh núi
vội vàng vào điện Quán Âm để kiểm tra mấy đèn hột vịt thắp trong
điện thờ Phật Bà. Trực nhìn vào điện thờ, chú tiểu kinh hãi vô
cùng và run lên như cầy sấy, vì ba mươi hai cây đèn hột vịt bóng
còn trong sáng, tim đèn còn cháy và các bình còn đầy dầu nguyên
vẹn không hao hụt. Bão to, gió lờn và cơn mưa ầm ầm như thác
chảy, thế mà các cây đèn hột vịt nhỏ nhoi kia và mấy dãy đèn có
lồng kiến bốn góc kia không một cây nào đổ bể. Chú tiẻu từ đó,
không dám “cằn cựa” và “hằn học” với Ðức Quán Âm nữa. Một hôm
khác, chú tiểu vừa lên điện Quán Âm, xa xa có thấy ba bốn cô
thiếu nữ mặc áo trắng rất xinh đẹp từ điện Phật Bà đi ra và bay
nhẹ trong gió. Chú tiểu vào điện Bà quán sát, các cây đèn vẫn
sáng, bóng dèn như vừa mới được lau và dầu trong các bình còn
đầy nguyên vẹn.
-
Chú tiểu đó chính là tôi đây. Ai đã
lau bóng đèn? Ai đã châm dầu và các bình dầu? Ai là các thiếu nữ
mặc áo trắng bay trong gió và biến dạng vào hư không? Những câu
hỏi ấy không ngừng khởi dậy trong đầu một chú bé như tôi. Tôi có
đem chuyện này kể lại cho sư phụ tôi nghe. Người nói: “Ðó là Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân để điểm hóa con. Từ nay con phải
hết sức kỉnh lễ, niệm danh hiệu và phụng sự Ngài, chớ đem tâm dể
duôi, thất kính đối với Ðức Quán Thế Âm nữa.”
-
Hồi đó, sư phụ nói vậy tôi nghe vậy,
lòng tin cậy vào sự gia ân, thị hiện cứu độ của Ðức Quán Thế Âm
đối với tôi vẫn còn nghi ngờ, xa lạ. Nhưng bây giờ thì đã khác
hẳn, không những tôi tin năng lực cứu độ mầu nhiệm của Ðức Quán
Thế Âm thôi mà tôi còn tập sống theo hạnh từ bi của Ngài một
cách tích cực và bền bỉ.
-
(17) MA PHẠT ÐẠT
ÐẬU – (Ma bhate tu) –
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Quân Tra Lợi Thắng Vương
-
Mặt có ba con mắt
-
Soi suốt tâm con người.
-
CẢN NGĂN SỰ GIẾT CHÓC
|^|
-
Ðiện Quán Âm linh ứng
-
Trên đỉnh núi ông sư
-
Cản ngăn sự giết hại
-
Lính đôi bên an toàn.
-
Năm 1960, đó là đêm trăng sáng, Rằm
tháng Tám âm lịch. Một đại hội nghĩa quân hợp tác với lính phòng
vệ quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa do trung úy Nam, người thiên
chúa giáo âm thầm kéo quân lên điện Quán Âm, đỉnh núi Ông Sư,
chùa Giác Hải, thôn Xuân Tự để phục kích lính Việt cộng nằm vùng
để cổ động dân làng hội họp, tuyên truyền, chống đối chính sách
quốc gia dưới trào ông Ngô Ðình Diệm, Rủi thay hôm đó lính quốc
gia đã tới trễ một nước, lính du kích Việt Cộng đã đến trước và
dàn binh bố trận xung quanh Ðiện Quán Âm để tàn sát lính quốc
gia. Họ đã nổ sung và ném lựu đạn vào đội binh quốc gia do trung
úy Nam chỉ huy. Song kỳ lạ thay, Việt Cộng khai hỏa trước, nhưng
các nòng sung đều bị điếc. Các quả lựu đạn như trái khế được ném
tung ra để ném đội binh quốc gia, nhưng chúng lăn lóc như đá
núi, không có trái nào nổ cả. Hai bên hô hoán, xáp chiến vật lộn
nhau một hồi, rồi tản mạn và rút lui có trật tự, không một bên
nào bị tổn thất nhân mạng.
-
Cũng từ đó, lính du kích Việt Cộng
không bao giờ bén mảng đến chân núi Ông Sư, chứ nói chi là vô
ngồi cười nói vô lễ, thất kính, ngổn ngang trong công viên điện
thờ Phật Bà như những lúc trước. Ðại đội lính nghĩa quân trong
làng Xuân Tự và lính canh phòng quân Vạn Ninh lại đều kiêng nể
Phật, Bồ Tát, thánh linh Quán Âm từ dạo xảy ra chuyện “Ðức Quán
Thế Âm ngăn cản sự giết choc” trong khu viên núi Ông Sư, điện
Phật Bà Quán Thế Âm.
-
Chuyện này chúng tôi biết rõ tự sự từ
chi tiết, vì chỉ ngày hôm sau xảy ra cảnh lính đôi bên “ẩu đả”
nhau trên núi linh thờ Phật Bà, đại úy tiểu đoàn phó giữ an ninh
biên phòng quận Vạn Ninh và trung úy Nam hướng dẫn khoảng hơn
một trăm người ăn bận lịch sự, mang lễ vật hương đèn, trái cây,
gạo nếp, dầu thắp và một số tiền mặt đến chùa Giác Hải, gặp bổn
sư chúng tôi, tức là Ðại sư Viên Giác trú trì chùa Giác Hải,
sáng lập điện Quán Âm trình bày chuyện Quán Âm linh ứng, cứu
thoát trên năm trăm mạng người, nhờ các nòng súng AKa và lựu đạn
trái khế của Việt Cộng được Ðức Quán Âm hãm ngòi.
-
Không bao lâu chuyện này được lan
truyền khắp thôn xóm, tỉnh lỵ xa gần và đến tai các cấp chủ
chiến đôi bên. Từ dạo ấy núi Ông Sư, chùa Giác Hải, Ðiện Quán Âm
không còn là nơi sát phạt, thù nghịch lẫn nhau giữa người quốc
gia và Việt Cộng nữa. Cũng từ dạo ấy người Phật tử, khách bàng
quan, từ các tỉnh trong ra tỉnh ngoài và từ các tỉnh ngoài vào
các tỉnh trong, ai ai cũng ghé chiêm cung, đãnh lễ điện Nam Hải
Phật Bà ngày lại tháng qua đông như hội tết. Nhân việc này, Bác
Bảy Trưởng Bạn Hộ Niệm và nghi lễ chùa Giác Hải có thơ đề:
-
TA BÀ NỞ HOA
-
Nam bắc anh em một nhà
-
Là con của mẹ Âu cơ hiền hòa
-
Giết nhau chi huyết lệ nhòa
-
Tổ tiên đắng mật khổ nhục cháu con
-
Ðất trời cây cỏ núi sông
-
Giọt sầu thiên cổ xa trông mỏi mòn
-
Hiển linh sáng dậy đầu non
-
Quán Âm hóa giải oan gia thâm thù
-
Ðêm về trăng sáng trời thu
-
Súng đôi bên hãm, mây mù sương tan
-
Quân thoát nạn, dạ bình an
-
Quán Âm Bồ Tát giải nàn ách tai
-
Hoa từ bi kết sen đài
-
Thánh linh Nam Hải độ đời lầm than
-
Chấp tay quỳ tụng Ma- ha
-
Xin cho khổ não ta bà nhẹ vơi
-
Xin cho tình lại về ngôi
-
Ðể cho súng đạn là hoa trôi dòng
-
Xin cho vận nước long đong
-
Biến thành hoa tạng khơi nguồn yêu
thương
-
Xin cho vạn đợt tai ương
-
Biến thành chân thể bên đường trầm
luân.
-
(18) ÐÁT ÐIỆT THA
– (Tadyatha) –
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
A La Hán vào đời
-
Tùy phương tiện thuyết pháp
-
Giác hóa độ nhân sinh.
-
GIẢI NHẬP OAN KHIÊN
|^|
-
Vong nhập người con gái
-
Thuốc khó chữa trị lành
-
Quán Âm thường lễ niệm
-
Giải oan khiên khó trừ.
-
Ở Ninh Hòa, cách tỉnh Nha Trang một
giờ lái xe, có người con gái con một gia đình người tàu giàu có
tên là A Thố. A Thố người to, tướng mạo đẹp, mạnh khỏe, phương
phi như một nữ võ tướng. Tuy vậy tâm tánh của A Thố rất hiền
lành, thích đến chùa làm công quả, tụng kinh, niệm Phật và may y
phục cho quý thầy. Những mùa an cư, A Thố thường đến Phật học
viện Hải Ðức ở Nha Trang phụ các dì nấu cơm, gánh nước cúng quý
Thầy trong dịp lễ tự tứ, mãn ba tháng an cư kiết hạ. Nhờ biết tu
tập, kính trọng chư Tăng, siêng năng làm việc, nói năng chất
phác, vui vẽ nên từ trên Hòa Thượng Giám viện đến dưới đại chúng
và các dì đều thương mến A Thố. Vì tìm được không khí an tịnh và
niềm vui trong thời gian ở chùa làm công quả, nên A Thố có ý xin
xuất gia làm đệ tử Ni sư Chánh Lượng ở chùa Hang, sau này gọi là
chùa Hải Ấn, gần xóm Bóng, Nha Trang.
-
Khi biết con gái có ý định xuất gia,
cha mẹ A Thố rất mừng, vì hai ông bà và cả nhà rất trọng đạo, tổ
tiên nhiều đời tin Phật, quy y Tam Bảo. Nhưng ý định đi tu của A
Thố không được suông sẻ, vì cha mẹ có hứa gả A Thố co một cậu
con trai con một của ông bà Phú Hưng, một gia đình người Việt
gốc tàu, làm tiệm thuốc bắc ở Ninh Hòa rất khá giả. Nữa lòng thì
muốn xuất gia làm ni cô, nữa lòng thì muốn lấy chồng, giữ chữ
tín cho cha mẹ đối với ông bà sui, cha mẹ chồng tương lai. Vì sự
việc này, nguyện xuất gia của A Thố kéo dài ba năm mà chưa
thành. Trong cái rủi lại gặp cái may, cậu con trai của ông bà
Phú Hưng, người chồng tương lai của A Thố bị tai nạn qua đời nên
việc chọn đường đi tu của A Thố trở nên dễ dàng. Chừ trong cái
may lại phải gặp cái rủi. A Thố đến lúc sữa soạn vào chùa để thế
phát xuất gia thì bỗng nhiên nàng bị lên cơn điên.
-
Bệnh điên của A Thố rất dễ sợ và khác
thường. Mỗi khi A Thố lên cơn, nàng có đủ sức mạnh để lật ngược
hay kéo lôi nổi một chiếc xe hơi đang chạy trên đường. A Thố rất
thích và khoái chí làm việc này, nên cả nhà và ai biết tới, thấy
đều kinh hoàng khiếp sợ. Vì vậy mà tay chân A Thố luôn luôn được
trói bằng những sợi dây xích sắt to tướng. Thế nhưng mỗi khi A
Thố lên cơn, nàng thét lên từng hồi, hai mắt đỏ ngầu như lửa,
rồi nàng vùng vẫy một lúc. Cuối cùng các dây xích đều bị đứt
từng khúc, tiếng kêu loảng xoảng hòa với tiếng cười vang như
thách đố, ngạo nghễ vằ trêu chọc rồi nàng ném các đoạn dây xích
bị đứt vào tận xa tít lên không. Cái sở thích khi A Thố lên cơn
là nàng luôn giựt lấy các bóng đèn điện để ăn ngấu nghiến như
nhai những ổ bánh mì nướng dòn. Những lúc đó, A Thố thường nổi
cơn giận dữ, nghiến răng, dậm chân và thoát ra giọng the thé nơi
cái miệng đầy máu me với âm thanh của một gã đàn ông: “Trời là
kẻ đại gian ác, bất công. Trần gian là ngục tù là dày đặc bóng
tối.” Câu nói này thường bị đứt quãng, vì uất nghẹn và bực tức.
-
Có điều lạ là A Thố đã lên cơn suốt
gần ba tháng, không hề chịu ăn uống gì cả mà thân thể không hề
bị sút giảm, sức mạnh của A Thố còn tăng gấp mấy chục lần đối
với lúc bình thường. Các bác sĩ giỏi trong các bệnh viện đều bó
tay vì họ khám nghiệm đủ cách mà không tìm ra bệnh lý của A Thố.
Cùng đường, gia đình được người mách bảo, họ đã xiềng A Thố vào
trong một chiếc xe bọc lưới sắt và đưa A Thố đến chùa Giác Hải ở
làng Xuân Tự nhờ đại sư Viên Giác chữa trị bệnh vong nhập.
-
Ðại sư Viên Giác là thầy của chúng
tôi, người chữa bệnh điên do tà nhập, quỷ ám rất thần diệu. Thấy
A Thố bị trói xích sắt, tỏ vẻ hung hăng và giận dữ, thầy chúng
tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt A Thố rồi niệm chú lâm râm một hồi.
AThố quy phục và cúi đầu xuống đất. Thầy chúng tôi bảo người nhà
mở trói cho bệnh nhân. A Thố ngồi yên, không la hét, không chạy
nhảy và không bạo động. Thầy chúng bèn nhẩm niệm danh hiệu Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát và trì ba biến chú Ðại bi vào trong chén nước
trong đem cho A Thố uống. Vừa uống xong chén nước, tóc A Thố
dựng ngược lên và xoay tròn như gió thổi mạnh vào một đám lau
sậy. A Thố gục đầu xuống khóc rồi mở lời the thé của một vong
thức đàn ông bằng tiếng Việt lơ lớ: “ta là một Anh linh ngoài
vòng cương tỏa. Ai dám dùng danh nghĩa Quán Âm Bồ tát để hù ta,
làm chướng ngại ước muốn của ta.”
-
Ðại sư Viên Giác lên tiếng:
-
“Ta là tỳ kheo, tự Chiếu Nhiên, trú
trì chùa Giác Hải. Ta nương vào thần lực của đức Hóa thân Quán
Thế Âm Bồ tát để khai tâm, độ thoát cho nhà ngươi. Nhà ngươi mau
mau nói rõ tên tuổi ra để ta điểm hóa cho, chớ si mê cố chấp
theo ái kiến mà phải đọa lạc luân hồi, ác thú trong kiếp này và
vô lượng kiếp về sau, khổ cực vô tận, khó nguôi.”
- Vẫn
một âm thanh the thé của đàn ông như khó thở vì bị thương tích
từ cuống họng và bị dập tim gan:
-
“Thưa sư phụ, con đây tên là T.M.H là
vị hôn phu hụt của A Thố. Con chết vì tai nạn xe hơi khi đi chở
hàng từ Sài Gòn ra Nha Trang, xe lật xuống chân núi vì mìn của
lính Việt Cộng. Con chết quá đột ngột, không thể đi đầu thai
được. Lại vì thương A Thố nên con đi theo A Thố để được sống bên
nhau, đâu có ý làm hại A Thố.”
-
Ðại sư Viên Giác hạ giọng thương xót
và giải khuyên: “Ta đây thật thông cảm nổi khổ đau của nhà
ngươi. Thôi hãy chí thành quy y theo Phật và chí tâm sám hối,
niệm Phật theo lời ta dạy để được sớm giải thoát, đi đầu thai
làm người, xả sạch oán thù. Nhà ngươi hãy đọc theo lời ta: “lời
hướng dẫn hằn chấn của đại sư Viên Giác:
-
“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán
Thế Âm Bồ tát, xin ngài giúp con chuyển thế làm người.
-
Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán
Thế Âm Bồ tát, xin ngài lấy nước cam lồ rữa sạch cho con mọi oan
khiên.
-
“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán
Thế Âm Bồ tát, xin ngài độ cho A Thố chóng khôi phục sức khoẻ và
chí tu học vững bền.”
-
Ðại sư tiếp tục dìu dắt vong linh:
-
“Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y
Phật.
-
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y
Pháp.
-
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y
Tăng.
-
Con đã quy y Phật rồi, không đọa vào
địa ngục.
-
Con đã quy y Pháp rổi, không đọa vào
ngạ quỷ.
-
Con đã quy y Tăng rồi, không đọa vào
súc sanh.”
-
Khi đại sư Viên Giác, thầy của chúng
tôi dẫn dắt vong linh kia lặp lại ba lần quy y Tam Bảo vừa xong,
bỗng nhiên A Thố ngã lăn trên mặt đất chừng năm phút rồi tỉnh
dậy như một giấc ngủ dài mê man. A Thố ngơ ngác không biết
chuyện gì đã xảy ra cho mình. A Thố lành bệnh, sức khoẻ bình
phục ngay lúc đó khiến cha mẹ và mọi người trong thân quyến A
Thố hết sức vui mừng. Chùa Giác Hải nhiều người biết tới nhờ
thầy chúng tôi niệm đức Quán Thế Âm chữa lành bệnh vong nhập cho
A Thố. Gạo cơm chùa dư nuôi điệu chúng, vải vóc có đủ may mặc,
vài căn nhà sinh hoạt được xây dựng khang trang, chính là nhờ sự
phát tâm cúng dường tích cực của gia đình A Thố và bà con dòng
họ của A Thố. Thầy chúng tôi có bài thơ tặng gia đình A Thố mà
tôi đã nằm lòng sau đây:
-
Lễ Niệm Ðức Quán Thế Âm.
-
Hằng ngày lễ kính mẹ hiền
-
Quán Âm thường niệm vô biên linh mầu.
-
Gặp cơn rối rắm khổ đau
-
Quán Âm lễ niệm lệ sầu nhẹ vơi.
-
Sóng lòng dẫu có trùng khơi
-
Quán Âm lễ niệm đất trời chuyển rung
-
Muộn phiền oan nghiệp tương phùng
-
Quán Âm lễ niệm tâm không thoát nàn.
-
Mạng vong hồn phách cơ hàn
-
Quán Âm lễ niệm lạc bang hướng về.
-
Nguyện mau chứng quả bồ đề
-
Ta bà hóa hiện độ đời trầm luân.
-
(19) ÁN A BÀ LÔ HÊ – (Om I Avaloka) –
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Ngôi tòa sen trang nghiêm
-
Lòng từ bi vô lượng
-
Hằng cứu khổ ban vui.
-
NƯỚC
CAM LỒ CHỮA NGƯỜI CÂM
|^|
-
Cam lồ trừ não nhiệt
-
Chữa lành người bị câm
-
Xuất gia cầu chí đạo
-
Ân nghĩa xin đền bồi.
-
Tỉnh Quy Nhơn, xã Phú Cát có anh
Nguyên Lợi làm nghề thợ hồ. Sau khi xây mộ cho một gia đình ở Tu
Bông gần Vạn Giả, tự nhiên hai hôm sau anh lên cơn sốt nói mê
sảng và sau một tuần lễ chữa trị đủ thuốc mà không thuyên giảm.
Thế rồi bị câm, thỉnh thoảng anh Nguyên Lợi lên cơn, cởi áo quần
chạy khắp làng xóm. Có khi anh đến ngôi mộ anh xây ngồi yên lặng
nhiều giờ, chốc chốc lại khóc và hú lên những tràn âm thanh dài
ghê rợn, ai nghe cũng khiếp sợ, không dám lại gần. Ngày lại
ngày, tay của anh mọc lông dài như lông heo rừng. Bà con anh cho
đây là chuyện oan hồn,ma quái, âm linh trừng phạt anh vì có lẽ
anh xây mộ cho người chết mà tâm anh bất chánh, hoặc có làm điều
gì lầm lỗi với gia chủ và với vong thức người đã qua đời. Họ tin
như thế, vì người nhà của anh Nguyên Lợi mỗi khi mua cau trầu,
xôi, chuối đến khấn vái trước ngôi mộ anh ấy xây, cầu cho anh ta
lành bệnh thì quả nhiên anh lành bệnh được ba hôm, sau đó tái
phát trở lại và bệnh câm của anh kéo dài gần cả năm mà chưa chấm
dứt.
-
Một hôm vợ anh Nguyên Lợi được người
mach bảo là sư ông chùa Giác Hải, núi Ông Sư có điện Quán Âm Nam
Hải, ngài chữa bệnh ma nhập, quỷ ám rất thần diệu, nên cả nhà
gồm có hai người anh trai, một em gái và vợ anh Nguyên Lợi đưa
anh vào chùa Giác Hải trình với sư ông tất cả tự sự. Sư ông sau
khi hỏi tên tuổi người bệnh và tên tuổi người chết mà anh Nguyên
Lợi đã xây mộ. Hỏi xong, sư ông hướng dẫn anh Nguyên Lợi và cả
gia đình của anh lên điện Quán Âm cầu nguyện. Hồi đó, tôi còn là
chú sa di nhỏ theo hầu sư ông, nhưng tôi rất để ý những chuyện
sư ông cầu đức Quán Thế Âm để chữa các bệnh lạ, nhất là các bệnh
có ảnh hưởng từ cõi âm, cõi của người đã qua đời.
-
Hôm ấy sư ông bảo tôi gõ mõ để đọc
thần chú đại bi với sư ông. Tay sư ông cầm chén nước trong, bắt
ấn cam lồ búng vào trong chén nước. Ðọc ba lần, rồi sư ông tiếp
niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát khoảng trên một trăm lần.
Kế đến sư ông đem cho anh Nguyên Lợi uống. Kỳ diệu thay, anh Lợi
uống xong ly nước trong vừa được sư ông chú nguyện là anh Lợi
khai khẩu được ngay, câu nói đầu tiên của anh Lợi là Nam Mô Ðại
Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Anh tự một mình niệm
ba lần như thế, sau đó sư ông ra hiệu cho mọi người cùng niệm
danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm để trợ hóa cho anh Nguyên Lợi.
Trong tiếng niệm Quán Âm, tôi nghe xen lẫn tiếng khóc của người
nhà anh Nguyên Lợi, vì họ quá xúc động về sự linh nghiệm và phép
cứu khổ nhiệm mầu của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Tôi thấy nhiều người khóc tự nhiên tôi
cũng khóc. Tôi khóc vì không những xúc động khi thấy anh Nguyên
Lợi bị câm cả năm bây giờ nói lại được, mà tôi khóc vì tôi thấy
thầy tôi giao cảm được với Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát nên tôi rất
bội phục, rất kính nể người. Tôi tự hỏi, tại sao Ðức Quán Thế Âm
Bồ Tát rất linh hiển, thầy tôi cầu nguyện cho ai cũng đều có
linh nghiệm, mà tôi đứng ra cầu cho người có tai nạn thì không
thấy có kết quả? Tôi nhớ ít nhất là có hai người bị bệnh bởi
vong thức người chết nhập vào, gia đình dẫn người bệnh đến chùa
Giác Hải nhờ cứu chữa. Vì sư ông đi vắng, tôi rất mừng là có cơ
hội để thay thế sư ông cứu người cùng thử nghiệm “tài đức” cầu
nguyện của mình, nhưng cả hai lần đều thất vọng nên tôi cảm thấy
bị “mất mặt bầu cua” và phải đợi sư ông về mới trị được bệnh
tình cho hai người kia.
-
(20) LÔ CA ÐẾ -
(Lokate) –
- Quán
Âm hiện thân tướng
- Vua
trời Ðại Phạm Thiên
- Có mặt
khắp cõi giới
- Cứu
thoát khổ u đồ.
-
NGHI THỨC TRÌ TỤNG KINH PHỔ
MÔN
|^|
-
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3
lần) ©
-
Mở kinh
-
Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu
-
Cơ duyên may được thọ trì
-
Xin nguyện đi vào biển tuệ
-
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. ©
-
KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA
-
Bồ Tát Quán Tự Tại
-
Khi quán chiếu thâm sâu
-
Bát Nhã Ba La Mật
-
(Tức diệu pháp trí độ)
-
Bỗng soi thấy năm uẩn
-
Ðều không có tự tánh
-
Thực chứng điều ấy xong
-
Ngài vượt thoát tất cả
-
Mọi khổ tai ách nạn.(C)
-
-
“Nghe đây Xá Lợi Tử
-
Sắc chẳng khác gì không
-
Không chẳng khác gì sắc
-
Sắc chính thực là không
-
Không chính thực là sắc.
-
Còn lại bốn uẩn kia
-
Cũng đều như vậy cả. ©
-
Xá Lợi Tử nghe đây:
-
Thể mọi pháp đều không
-
Không sinh cũng không diệt
-
Không nhơ cũng không sạch
-
Không thêm cũng không bớt
-
Cho nên trong tánh không
-
Không có sắc, thọ, tưởng
-
Cũng không có hành, thức
-
Không có nhãn, nhỉ, tỷ
-
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
-
Không có sắc, thinh, hương
-
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
-
Không có mười tám giới
-
(Từ nhãn đến ý thức)
-
Không hề có vô minh
-
Không có hết vô minh
-
Cho đến không lão, tử
-
Cũng không hết lão tử
-
Không khổ, tập, diệt, đạo
-
Không trí, cũng không đắc. ©
-
Vì không có sở đắc
-
Khi một vị Bồ tát
-
Nương diệu pháp trí độ
-
(Bát Nhã Ba La Mật)
-
Thì tâm không chướng ngại
-
Vì tâm không chướng ngại
-
Nên không có sợ hãi
-
Xa lìa mọi mộng tưởng
-
Xa lìa mọi điên đảo
-
Ðại Niết Bàn tuyệt đối
-
Chư Phật trong ba đời
-
Y diệu pháp trí độ
-
Bát Nhã Ba La Mật
-
Nên đắc vô Thượng Giác
-
Vậy nên phải biết rằng
-
Bát Nhã Ba La Mật
-
Là linh chú đại thần
-
Là linh chú đại minh
-
Là linh chú vô thượng
-
Là linh chú tuyệt đỉnh
-
Là chân lý bất vọng
-
Có năng lực tiêu trừ
-
Tất cả mọi khổ nạn
-
Cho nên tôi muốn thuyết
-
Câu thần chú trí độ
-
Bát Nhã Ba La Mật”.
-
Nói xong Ðức Bồ Tát
-
Liền đọc thần chú rằng:
-
Gate gate
-
Paragate
-
Parasamgate
-
Bodhi Svaha. (3 lần) (cc)
-
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ
Tát. (3 lần) ©
-
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM
PHỔ MÔN
|^|
-
Ðây tòa Diệu Pháp Liên Hoa
-
Phổ Môn một phẩm thơm lời kinh thi
-
Linh mầu pháp nhũ huyền vi
-
Hoa quang bủa khắp từ bi Mẹ Hiền
-
Ngài Vô Tận Ý khởi duyên
-
Cầu xin Phật nói lý huyền vô thâm
-
Nhân gì Bồ Tát Quán Âm
-
Ðẹp như tên gọi cõi trần lưu danh?
-
Thế Tôn từ mẫu giải rành
-
Chúng con được hiểu muôn sanh tỏ
tường!
-
Phật nhìn đại chúng mắt thương
-
Nụ cười hoan hỷ tuyên dương pháp mầu:
-
“Quán Âm bi trí rộng sâu
-
Tùy hình ứng hiện khổ sầu nhẹ vơi.
-
Lắng nghe tiếng gọi muôn nơi
-
Tầm thanh thị hiện kịp thời cứu nguy
-
Xuống lên biến hóa tương tùy
-
Ðến đi vô ngại giữa dòng nhân gian.
-
Quán Âm diệu lực vô vàn
-
Niệm danh Bồ Tát thoát vòng tai ương
-
Lửa vây thiêu đốt phố phường
-
Niệm danh Bồ Tát lửa liền tắt ngay.
-
Nước ngập bão lụt đoanh vây
-
Niệm danh Bồ Tát có thuyền đến ngay.
-
Gặp quân bạo ác lưu đày
-
Niệm danh Bồ Tát ác kia hóa hiền
-
Gặp loài ác quỷ dạ xoa
-
Niệm danh Bồ Tát pháp mầu giải vây
-
Bị trù, bị ếm cuồng ngây
-
Niệm danh Bồ Tát gặp thầy chữa thương
-
Ði buôn gặp cướp đón đường
-
Niệm danh Bồ Tát khách thương an toàn
-
Dục lòng đắm sắc mê say
-
Niệm danh Bồ Tát tỉnh lòng hôm mai
-
Muốn cầu con gái, con trai
-
Niệm danh Bồ Tát gái trai phỉ nguyền.”
©
-
Bồ Tát Vô Tận khởi duyên
-
Như Lai giải rõ diệu huyền cơ thâm
-
Quán Âm hạnh nguyện khôn lường
-
Hiển bày phương tiện độ trần mê say
-
Pháp hành lưu diễn đó đây
-
Ba hai thân tướng đổi thay diệu
thường.
-
Thanh Văn, Bích Chi, Pháp Vương
-
Ðế Thích, Thiên Tướng, Phạm Vương,
Thánh Hiền
-
Sa môn, trưởng giả, chư thiên
-
Quan dân ,cư sĩ phước điền giàu sang.
-
Môn nhân quý tiện cơ hàn
-
Tỳ khưu nam, nữ loại hình khác nhau
-
Dạ Xoa, Càn thát, La Hầu
-
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu, Già La
-
Kim Cang Bồ Tát, Thánh Phàm
-
Tùy hình hóa hiện độ hàm linh an
-
Pháp lành vô úy truyền ban
-
Quán Âm từ mẫu Mẹ Hiền nhân gian
-
Bồ Tát Vô Tận cùng hàng
-
Thiên Long, Tứ Chúng cúng tràng ngọc
châu
-
Tỏ lòng tín nhiệm thâm sâu
-
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu từ bi
-
Kính nhường tận lễ thiết thi
-
Quán Âm dâng cúng Mâu Ni nửa tràng
-
Nửa tràng đem để tháp tràng
-
Cúng Phật Ða Bảo đức lành niệm ân.” ©
-
Vì Vô Tận Ý giải phân
-
Như Lai tóm lược kết phần kệ tuyên:
-
Người nghe hạnh Quán Âm
-
Ứng hiện khắp mọi nơi
-
Nguyện rộng sâu như biển
-
Không thể nghĩ luận bàn
-
Trải qua hằng sa kiếp
-
Phát nguyện lớn trong sạch
-
Nghe tên cùng thấy hình
-
Quán Âm thường nhớ nghĩ
-
Hay diệt mọi khổ não
-
Như có người muốn hại
-
Xô xuống hầm lửa thiêu
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Không mảy may nguy khốn
-
Hoặc bị kẻ thù đuổi
-
Ngã vấp nơi núi đá
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Không tổn hại thân thể
-
Hoặc gặp phải giặc vây
-
Dùng dao gậy toan giết
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Kẻ thù sanh tâm niệm
-
Hoặc bị nạn pháp luật
-
Tra hành hình sắp chết
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Ðao gươm gãy từng đoạn
-
Hoặc bị tù xiềng xích
-
Tay chân bị gông cùm
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Giải trừ mọi tai biến
-
Hoặc gặp quỷ La Sát
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Ác quỷ không dám gần
-
Gặp thù dữ vây quanh
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Thú dữ liền bỏ đi
-
Bị trùng độc tát hại
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Chất độc tự giải trưà. ©
-
Mây đen, mưa, sấm sét
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Mây tan trời quang tạnh
-
Chúng sanh bị khổ ách
-
Vô lượngv khổ bức bách
-
Quán Âm diệu trí lực
-
Hay cứu người đau khổ
-
Ðầy đủ sức thần thông
-
Trí tuệ làm phương tiện
-
Khắp cõi nước mười phương
-
Quán Âm đều hiện thân
-
Vào ra trong đường ác
-
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh
-
Khổ sinh, già, đau, chết
-
Không còn bị bức não
-
Thấy lẽ thật trong suốt
-
Ðèn tuệ lớn chiếu soi
-
Tâm từ bi vô lượng. ©
-
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng
-
Hào quang sáng trong ngần
-
Mặt trời xua bóng đêm
-
Cản ngăn nạn gió lửa
-
Sáng rỡ khắp thế gian
-
Tiếng lành vang sấm dậy
-
Ý lành tợ đường mây
-
Rưới mưa pháp cam lộ
-
Dập tắt lửa phiền não
-
Kiện tụng hầu cửa quan
-
Hoảng hốt nơi chiến địa
-
Nhờ sức niệm Quán Âm
-
Binh lửa đều dẹp trừ
-
Pháp huyền diệu Quán Âm
-
Chuyển động khắp trời đất
-
Vượt các tiếng thế gian
-
Khởi tín tâm thường niệm
-
Khi niệm lòng không nghi
-
Quán Âm bậc Từ Mẫu
-
Trừ khổ não tai ách.
-
Quán Âm chổ nương tựa
-
Ðầy đủ mọi công đức
-
Mắt thương nhìn cuộc đời
-
Phước rộng sâu như biển
-
Xin cúi đầu đảnh lễ. ©
-
Bấy giờ ngài Trì Ðịa
-
Ðứng dậy lễ Phật thưa:
-
“Hễ có chúng sanh nào
-
Nghe làm theo kinh dạy
-
Trí lực được tự tại
-
Sức thần thông ứng khắp
-
Công đức của người ấy
-
Thật khó nghĩ, khó lường.”
-
Nhờ nghe lời Phật dạy
-
Trong đại chúng hôm đó
-
Tám muôn bốn ngàn người
-
Ðều phát tâm rộng lớn
-
Tu pháp môn vô lượng
-
Nguyện độ khắp mọi loài. ©
-
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3
lần) ©
-
VĂN QUY NGUYỆN
-
Trầm hương xông ngát điện
-
Sen nở Phật hiện thân
-
Pháp giới thành thanh tịnh
-
Chúng sanh lắng nghiệp trần. ©
-
Ðệ tử tâm thành
-
Hướng về Tam Bảo
-
Phật là thầy chỉ đạo
-
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
-
Tướng tốt đoan trang
-
Trí và bi viên mãn. ©
-
Pháp là con đường sáng
-
Dẫn người thoát cõi mê
-
Ðưa con trở về
-
Sống cuộc đời tỉnh thức. ©
-
Tăng là đoàn thể đẹp
-
Cùng đi trên đường vui
-
Tu tập giải thoát
-
Làm an lạc cuộc đời. ©
-
Ðệ tử nương nhờ Tam Bảo
-
Trên con đường học đạo
-
Biết Tam Bảo của tự tâm
-
Nguyện xin chuyên cần
-
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý
-
Nguyện theo hơi thở
-
Nở nụ cười tươi
-
Nguyện học nhìn cuộc đời
-
Bằng con mắt quán chiếu
-
Nguyện xin tìm hiểu
-
Nổi khổ của mọi loài
-
Tập từ bi, hành hỷ xả
-
Sáng cho người thêm niềm vui
-
Chiều giúp người bớt khổ
-
Ðệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục
-
Nếp sống lành mạnh an hòa
-
Cho thân thể kiện khương
-
Nguyện rũ bỏ âu lo
-
Học tha thứ bao dung
-
Cho tâm tư nhẹ nhõm
-
Ðệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo
-
Ơn cha mẹ, ơn thầy
-
Ơn bạn bè chúng sanh
-
Nguyện tu học tinh chuyên
-
Cho cây bi trí nở hoa
-
Mong một ngày mai
-
Có khả năng cứu độ muôn loài
-
Vượt ra ngoài cõi khổ
-
Xin Phật Pháp Tăng chứng minh
-
Gia hộ cho đệ tử chúng con
-
Viên thành đại nguyện. (cc)
-
TRÌ NIỆM
-
Nam Mô Ðức Bổn Sư Phật Thích Ca Mâu Ni
(3 lần) ©
-
Nam Mô Ðức Bồ Tát. Ðại Trí Văn Thù Sư
Lợi (3lần) ©
-
Nam Mô Ðức Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền.
(3 lần) ©
-
Nam Mô Ðức Bồ Tát Ðại Bi Quánj Thế Âm.
(3 lần) ©
-
Nguyện ngày an lành đêm an lành
-
Ðêm ngày sáu thời đều an lành
-
An lành trong mỗi giây mỗi phút
-
Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở
-
Bốn loài sinh lên đất tịnh
-
Ba cõi thoát hóa tòa sen
-
Hằng sa ngạ quỷ chứng tam hiền
-
Vạn loại hữu tình đăng thập địa. ©
-
Nam Mô Ðăng Thập Ðịa Bồ Tát. (3lần) ©
-
HỘ TRÌ PHẬT PHÁP
-
-
Trời A Tu La và Dược Xoa
-
Ðến đây nghe pháp nên chí tâm
-
Ứng hộ Phật Pháp được thường còn
-
Xin nhớ làm theo lời Phật dạy
-
Tất cả đến đây cùng nghe pháp
-
Hoặc ở dưới đất hoặc trên không
-
Hãy nhìn muôn loài bằng mắt thương
-
Ngày đêm an trú trong chánh niệm
-
Nguyện cho thế giới thường an ổn
-
Vô biên phước trí ích quần sanh
-
Hết thảy tội chướng đều tiêu trừ
-
Xa lìa khổ não lòng an tịnh
-
Ðại chúng nhất tâm trì giới hạnh
-
Công phu thiền định gắn cần chuyên
-
Ðóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm
-
Khắp nơi mọi loài đều an lạc. ©
-
QUAY VỀ NƯƠNG TỰA
-
Con về nương tựa pháp,
-
Con đường của tình thương và sự hiểu
biết. ©
-
Con về nương tựa Tăng,
-
Ðoàn thể của những người nguyện sống
cuộc đời tỉnh thức. ©
-
HỒI HƯỚNG
-
Trì tụng kinh thâm diệu
-
Tạo công đức vô biên
-
Ðệ tử xin hồi hướng
-
Cho chúng sanh mọi miền
-
Pháp môn xin nguyện học
-
Ân nghĩa xin nguyện đền
-
Phiền não xin nguyện đoạn
-
Phật quả xin chứng nên. (cc)
-
(21) CA RA ÐẾ - (Kalati)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Vua Thần trong mười phương
-
Tùy loại tuơng cảm ứng
-
Cứu khổ giải ích nàn.
-
PHÁP TU QUÁN ÂM
-
Trong đời sống chúng ta ít có thì giờ
đều đặn để tụng kinh, ngồi thiền cho có sự định tâm, trau dồi ba
nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh. Ðể bổ khuyết cho việc tu tập,
tiêu trừ tai chướng, tười tầm niềm vui, hạnh phúc cho đời sống,
chúng ta nên phát nguyện trì niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ
Tát thường xuyên bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, như khi lái xe,
nấu ăn, ngồi đợi xe bus, chờ bác sĩ, tưới cây, làm vườn, lau nhà
cửa. Trì niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và theo dõi từng ba hơi
thở ra vào là một phép thiền Quán Âm rất có tác dụng và linh
nghiệm. Thở vào thở ra là một hơi thở và thầm niệm Nam mô Ðại Từ
Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Cứ theo dõi từ ba hơi thở như thế cho
vững chãi, rõ ràng sau khi đọc bài kệ sau đây:
-
KỆ NIỆM QUÁN ÂM
-
Quán Âm Bồ Tát
-
Ðấng linh thiêng nhiệm mầu
-
Con thành tâm tưởng niệm
-
Kỉnh lễ xin quy y.
-
Chăm niệm như thế thường xuyên trong
mọi lúc, đêm cũng như ngày để được định tâm, tinh thần an ổn và
mọi sở cầu sẽ được như ý. Trong lúc ngồi thiền, làm việc cho chí
vào nhà tắm ta vẫn có thể trì danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
(22)
DI HÊ RỊ (Lshiri)
-
Quán Âm hiện thân tướng
-
Thiên Thần Ma Hê Ðầu La
-
Thống lãnh thiên binh
-
Cứu độ chúng sanh.
--o0o--
|
|