|
BỒ TÁT HẠNH
- Ý Nghĩa
- Vía Phật -
Bồ Tát Trong Năm
- ---o0o---
- CUỘC RA
ĐI LÀM NÊN LỊCH SỬ
- (Kỉ niệm
ngày xuất gia của đức Phật)
- Thích Phước Tiến
- --o0o--
-
- A/ DẪN NHẬP
- Văn hào
Victor - Hugo có nói : “Người ta cần đi vì tiêu khiển, cần trở
về vì tìm hạnh phúc”. Vâng, một số người có khuynh hướng luôn
chạy tìm hạnh phúc cho riêng mình, bằng mọi cách để hưởng thụ
theo đòi hỏi bản năng mà không cần biết điều đó có hợp với
nhân bản không, có hưởng thụ hạnh phúc trên đau khổ của người
khác không, hoặc hưởng thụ với tâm ích kỷ đến độ không cần
biết đến những người đói kém khổ cực xung quanh mình.
- Trong một
vài trường hợp, cũng có những người luôn đi tìm cái đẹp cho
nhân loại bằng giá trị thực tiễn, như ông bà Curie, một gia
đình đoạt kỷ lục về giải Nobel, họ chỉ có một mục đích duy
nhất là phụng sự cho khoa học và nhân loại. Philippe
Semmelweis lấy thân mình làm thí nghiệm để cứu lấy mọi người
…. Như vậy, ai dám cho những người đó là sống ích kỷ? Hầu như
cả Đông và Tây những người minh triết đi tìm cái đẹp nhân loại
bằng một tình thương yêu rọâng lớn là không thiếu. Nhưng đặc
biệt nhất mà chúng ta cần phải thấy một cuộc ra đi mang giá
trị lịch sử nhân loại mà mỗi khi nhắc đến tên người thì thế
giới điều biết với lòng ngưỡng mộ tôn kính cao độ: cuộc ra đi
của một vị vương tử trẻ Siddhatha, dòng họ Sakya, thành
Kapilavatthu. Đó là cuộc ra đi vô tiền khoáng hậu; sự ra đi ấy
không riêng vì lợi ích cho dân chúng thành Kapilavatthu - Ca
tỳ la vệ, mà vì nhân loại, vì tất cả chúng sanh trên cõi Diêm
Phù Đề. Cho đến ngày hôm nay hay muôn đơì về sau người ta vẫn
kính trọng Ngài như một người hy sinh cứu thế đúng nghĩa.
- Có thể nói,
đức Bồ tát Thích Ca ra đi (xuất gia)là thực hiện đại từ bi,
tìm trí tuệ siêu thế, nhằm giải cứu nỗi khổ sinh tử triền miên
của vạn loại sinh linh đang phải gánh chịu trên cõi đời này.
- Đây là vấn
đề lớn, chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu khách quan mới nhận
thức đúng chân giá trị của đức Thế Tôn, là bậc thâỳ của trời
người, đã đi vào lịch sử hơn 25 thế kỷ.
-
- B/ NỘI DUNG
- 1.
Vài nhận định về ngày ra đi lịch sử
- Ai đã từng
nghiên cứu về Phật giáo cũng đều biết đức Thích Ca Mâu Ni
(Sakya - muni) là một người lịch sử, xuâùt hiện trước Công
nguyên từ năm đến sáu thế kỷ. Với ngần ấy thời gian thì không
dễ gì có một sử liệu hoàn toàn chính xác, mà những dị số về
niên đại xung quanh các sự kiện lịch sư,û của một vị giác ngộ
gần ba ngàn năm là điều không thể tránh. Căn bản nhất chính là
ngày sanh và mất (Niết bàn) của Ngài cũng có rất nhiều giả
thuyết, có những giả thuyết được đưa ra như một nguỵ tạo, nhằm
làm giảm đi giá trị của một tôn giáo (tạm gọi là tôn giáo) tầm
cỡ như Phật giáo. Những số liệu niên đại về ngày sinh, ngày
Niêùt Bàn đang được sử dụng một cách phổ thông nhất, mặc dù
đang còn tranh luận, đó là:năm 624 – 544 BC (theo cách tính
châu Á) và năm 563 – 487 BC (theo cách tính của người Âu).
Nhưng những vấn đề vừa nêu không nhằm vào việc bàn thảo chính
trong mục này. Nội dung cần trình bày ở đây chính là ngày
tháng xuất gia của Đức Phật.
- Căn bản
chúng ta đều biết, có hai thuyết truyền thống trong Phật giáo,
đó là quan điểm của Phật giáo Nguyên thuỷ và Phật giáo Đại
thừa. Theo Phật giáo Nguyên thuỷ, các nhà nghiên cứu đều cho
rằng: tất cả những ngày kỷ niẹâm đều là ngày rằm, và ngày xuất
gia của đức Phật, chúng ta cũng có thể mặc nhiên xem như là
ngày rằm, hay nói khác hơn đó là ngày trăng tròn, tức là vào
khoảng những ngày giữa tháng nơi đất Phật. Dường như các sử
gia không có chú trọng vào ngày tháng xuất gia của đức phật
một cách chính xác, hầu hết chỉ nêu lên sự kiện là ngài đi tu
vậy thôi. Một điều cần chú ý là cả luận án tiến sĩ của H.W.
SChumann, do cư sĩ Trần Phương Lan dịch, nói về đức Phật lịch
sử một cách có khoa học, so sánh chi li, nghiên cứu kỹ lưỡng,
nhưng ông cũng không có đề cập đến ngày tháng xuất gia của đức
Phật, mà nội dung chỉ nói đại khái là, đêm ra đi chỉ có hai
thầy trò Thái tử, nhờ oai thần của chư Thiên mở cổng thành cho
họ vượt thành một cách dễ dàng. Lúc ấy Ngài vừa tròn 29 tuổi.
- Riêng Phật
giáo Đại thừa, chẳng hạn kinh Đại bát Niết Bàn, ghi rõ ngày
xuất gia của đức Phật nhằm đêm mùng bảy rạng ngày mùng tám
tháng hai âm lịch, hàm ý rằng: hai ngày Đản sanh và xuất gia
là chưa viên mãn nên lấy ngày mùng tám làm chủ ý thị hiện của
đức Phật. Lúc ấy Ngài vừa tròn 19 tuổi. Còn hai ngày thành đạo
và nhập Niết bàn thì lấy ngày rằm, vì công hạnh đã tròn, tức
là giác ngộ cùng cực và giáo hoá chúng sanh viên mãn.
- 2.
Động cơ nào thúc đẩy thái tử đi tu
- Nói đến đời
sống của các vị vua chúa là điều bất khả tư nghì. Đứng về mặt
hạnh phúc thế gian mà nhìn, thì chế độ hưởng thụ vật chất rất
cao nhưng ít có một đời sống cá nhân nào sung túc bằng đời
sống của một vị vương tử. Đó là một cuộc sống được xem như
hạnh phúc nhất trần gian, người dân thường có nằm mơ cũng
không bao giờ được. Chỉ riêng thành Kapilavatthu, tiện nghi
của Thái tử Tất Đạt Đa, chúng ta sẽ thấy đức Phạât mô tả lại
đời sống sung túc của mình trong kinh Tăng chi: “Này các tỳ
kheo, trong nhà phụ vương ta, các hồ nước được xây dựng lên,
trong một hồ có ao sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong
một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho ta. Không một
chiên đàn nào ta dùng, này các tỳ kheo, là không từ kàsi đến,
bằng vải kàsi là khăn của ta, này các tỳ kheo. Bằng vải Kàsi
là áo cánh; bằng vải Kàsi là nội y, bằng vải Kasi là thượng y.
Đêm và ngày một lọng trắng được che chở cho ta để tránh xúc
chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các tỳ kheo, ba lâu
đài được xây dựng cho ta, một cho mùa Đông, một cho mùa Hạ,
một cái cho mùa mưa. Và ta này các tỳ kheo, tại lâu đài mùa
mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây,
ta không có xuống dưới lầu …”. Qua đoạn kinh mô tả đó ,
chúng ta thấy Thái tử không có thiếu thốn bất cứ một thứ gì.
Như vậy Ngài ra đi hoàn toàn không phải vì tầm cầu ăn mặc hay
các nhu cầu vật dục của trần gian, nhằm làm thoả mãn hạnh phúc
cho riêng mình. Ngài ra đi với lý do cao quí và thánh thiện.
- Với trí tuệ bẩm
sinh Ngài nhìn thẩm thấu trong từng sự vật ngay khi chúng còn
hiện hữu một cách tốt đẹp chớ không phải đợi đến lúc hư hoại
rồi mới buông lên lời bi quan. Trong tác phẩm ánh đạo vàng Võ
Đình Cường có diễn tả lời tâm sự giữa Thái tử và Gia–du - đà-
la như sau: một hôm Thái tử nhìn chằm chằm vào mắt Gia du đà
la và thốt lên lời than thở rằng: “Ta nghĩ đến một ngày
chúng ta sẽ già yếu và xấu đi; thời gian sẽ phủ lên đầu chúng
ta những lớp tro bạc. Ôi ! đôi mắt em rồi sẽ mờ đục! môi đỏ
của em rồi sẽ úa màu! Và hai bàn tay đẹp đẽ thế này sẽ co quắp
lại thành như những que củi khô...”. Những chữ “rồi - sẽ”
mang một ý nghĩa cho cái nhìn vô cùng chính xác, cái nhìn giác
ngộ.
- Sau lần đi
dạo chơi bốn cửa thành, chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết,
lúc đó Ngài vỡ lẽ ra một sự thật phủ phàng, những điều Ngài
thấy không riêng gì dân chúng, chính bản thân của mình cũng
phải tuân theo qui luật tự nhiên đó, không thể cưỡng lại bằng
quyền uy hay tiền bạc. Và sự cảm nhận tinh tế hơn về tướng mạo
của một vị Sa Môn, hay đó chính là hạt giống được tiềm ẩn
trong tâm của một vị Bồ Tát. Chỉ cần nhìn qua hình ảnh của một
vị xuất gia theo truyền thống Bà la môn, Siddhattha đã phát
biểu rằng: “Đời sống tại gia thật là bất tịnh và thật là chật
hẹp, còn đời sống xuất gia tự do như bầu trời khoáng đạt”.
- Từ những
cái nhìn như thật, đức Phật bắt đầu khởi lên sự nhàm chán cuộc
sống hưởng thụ hạnh phúc ngũ trần. “Với ta, này các tỳ
kheo, được đầy đủ về sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi
dưỡng tế nhị như vậy, ta suy nghĩ rằng: “Kẻ vô văn phàm phu tự
mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị
gìa, lại bực phiền hổ thẹn ghê tởm, quên rằng mình cũng vậy.
Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, khi người khác già.
Ta có thể bực phiền, hổ thẹn ghê tởm sao? Như vậy thật không
xứng đáng cho ta. Sau khi quan sát về ta như vậy này các ty
økheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn”.
Rồi đến bệnh chết …v.v….cũng tương tự như trên. Do vậy Ngài
bắt đầu khởi tâm yêu thương những người đời. Mặc dù không có
một đời sống đầy đủ như Ngài, nhưng họ cũng cố tìm cách bám
lấy sự sống giả tạm nầy, họ tranh giành quyền lợi từng chút
nhỏ nhặt, để rồi lẩn quẩn trong vòng khổ đau. Họ đang nô đùa
vui vẻ mà không biết già bệnh chết đang phủ vây bên mình. Đức
Phật từng sánh ví họ như đàn bò trong lò sát sanh, từng ngày
phải thay nhau chết nhưng vẫn chẳng hay biết gì, cứ mãi miết
vui đùa tranh nhau, húc nhau.
- Cho nên đức
Phật đã nói trong một vài trường hợp, ngũ dục cũng có vị ngọt
nhưng cũng có nhiều lỗi lầm và chúng sẽ đem lại khổ đau (kinh
Tăng nhất A hàm).
- Và điều kiện cuối cùng, Thái
tử yêu cầu phụ hoàng thực hiện cho ngài bốn việc: nếu phụ
hoàng thực hiện được thì ngài sẽ bỏ ý định xuất gia, ở lại cai
trị đất nước.
- - Làm sao
cho con trẻ mãi không già.
- - Làm sao
cho con mạnh mãi không đau.
- - Làm sao
cho con sống hoài không chết.
- - Làm sao
cho mọi người hết khổ.
- Nghe qua
những yêu cầu như thế, vua cha đã hiểu được điều gì sẽ xãy ra
và Tịnh Phạn Vương chỉ còn chờ đợi một ngày gần đây sẽ chịu
cảnh sống nhớ nhung buồn tẻ trên ngôi vị hoàng đế mà Ngài
tưởng ai cũng tham vọng hướng đến để tước đoạt tranh giành. Kể
từ đó cuộc ra đi của một vị vương tử trẻ đã được xếp đặt kỹ
càng. Rồi cái gì đến nó sẽ đến. Mọi rào chắn của quyền uy tột
bực, của sự giàu sang phú quí, của sắc dục hay bức tường thành
vững chắc của kinh thành Kapilavatthu diễm lệ cũng không ngăn
cản được sự quyết tâm ra đi của thái tử. Đêm mùng 7 rạng ngày
mùng 8 tháng hai âm lịch (theo truyền thống Bắc tông) thái tử
với người hầu của Ngài là Channa cùng con Kiền trắc vượt thành
đi qua lãnh thổ ba vương quốc, thái tử Siddhattha đến dịng
sơng Anomà dừng lại . Rồi Ngaì giao ngựa và vàng ngọc trang
điểm cho Channa đem về thành Kapilavatthu. Lần đầu tiên trong
cuộc đời Ngaì bắt đầu sống ẩn cư không nhà, trong khu vườn xồi
gần làng Anupiyà, rồi tiến lên về phía Ràjagaha.
- 3.
Cuộc ra đi đầy quyết tâm.
- Khi bàn về
cuộc ra đi lịch sử mà chúng ta không bàn đến một vài khía cạnh
của tâm lý được diễn biến trước khi khởi hành cũng là một điều
thiếu sót.
- Những
người xuất gia như chúng ta hôm nay thì chẳng có gì đáng để
gọi là từ bỏ. Quá chăng chỉ là sự từ bỏ chút ít công danh phú
quí, tài sản cỏn con thậm chí cũng chẳng có, hay tạm rời xa
cha mẹ, nên một mặt nào đó xem như là thiếu bổn phận chăm sóc
đấng sanh thành. Đó là việc tất nhiên. Nhưng chúng ta không
phải bận tâm với nhiều mạêt khác. Phần lớn mọi người chỉ có
“một túp liều tranh hai qủa tim vàng”, một mảnh vườn nho nhỏ,
một đứa con bụ bẩm thơ ngây, là xem như cuộc đời chúng ta sẽ
bị sợi dây vô hình cột trói không có ngày thoát thân ra được.
- Đối với Gia
du đà la, là một điều vô cùng khó khăn cho thái tử. Bởi vì Gia
du đà la luôn là mọât người vợ lý tưởng, bổn phận chu toàn ,
thông minh hiền hoà, luôn tỏ ra đồng tình với tất cả mọi thiện
tâm của Thái tử, thì không có lý do gì để phải phiền trách hay
bỏ đi. Mỗi khi Thấy thái tử trầm ngâm không nói không rằng,
Gia du đà la an ủi: Thiếp có làm gì cho chàng buồn không mà
chàng tỏ ra trầm ngâm như vậy? Những lần được hỏi, thái tử đều
luôn tự trách những suy nghĩ vẩn vơ của mình, khuyên nàng nên
yên tâm, vì nàng là người vợ tuyệt vời. Do vậy, chúng ta phải
biết cuộc ra đi của thái tử phải có sự đồng tình một cách trực
tiếp hay gián tiếp của Gia du đà la, bởi không có sự đồng tình
này, thì đó có thể là một sự chạy trốn một vấn đề gì đó chớ
không phải là hy sinh? Cho nên sự ra đi này cũng có một phần
hy sinh của công chúa Gia du đà la cùng vun bồi cho lý tưởng
cao cả của Thái tử Tất đạt đa.
- Bởi có kinh
nghiệm trong việc ra đi này nên đức Phật đã dạy trong kinh Tứ
thập nhị chương, bài hai mươi điều khó trước tiên nhất: “Bần
cùng bố thí nan, hào quí học đạo nan, … nhẫn sắc nhẫn dục nan
…”. Như vậy, từ bỏ những vật chất thông thường còn thấy khó
huống hồ là từ bỏ tất cả sự phú quí vinh hoa. Đối với tình cảm
vợ chồng lại càng là một vấn đề khó xử. Cho nên người không có
tâm lượng rộng lớn thì sẽ không thực hiện được ước mơ cao xa.
Vì rằng: nếu từ bỏ cái này để được cái kia tốt đẹp hơn trăm
ngàn lần mà thấy rõ ràng trước mắt thì ngươi ta sẽ không có gì
để ngần ngại; còn đằng này sự từ bỏ sự vinh hoa phú quí để đi
tìm một lối sống khổ hạnh, kẻ ăn xin không nhà, mặc dù có lý
tưởng, nhưng khi đạo quả chưa thành thì biết mai kia nó là cái
gì, trong khi thực tế thì phải chịu khó khổ muôn vàn. Sau năm
năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh, suýt nữa Ngài phải bỏ mình bên
dòng sông Ni -Liên - Thiền. Đức Phật đã diễn tả lại quá trình
tu khổ hạnh như sau:.."Vì ta ăn quá ít mỗi ngày, nên cơ thể
ta trở nên hết sức gầy yếu. Tay chân ta như các lĩng tre khơ
đầy khúc khỉu. Hai bàn tọa của ta trở thành giống như mĩng
trâu, xương sống với cột tủy lồi ra trơng giống chuỗi hạt.
Xương sườn ta lộ rõ như rui cột của ngơi nhà đổ nát. Ðồng tử
của ta nằm sâu trong hố mắt thăm thẳm giống như ánh nước long
lanh từ dưới giếng sâu. Da đầu ta khơ héo nhăn nheo như trái
mướp đắng được cắt đem phơi nắng khơ héo nhăn nheo. Nếu ta
muốn sờ da bụng thì ta đụng nhằm xương sống vì hai thứ đã dính
sát vào nhau. Nếu ta muốn đi đại tiện hay tiểu tiện thì ta ngã
úp mặt xuống đất. Nếu ta chà xát tay chân thì đám lơng hư mục
rụng xuống trong tay ta". (MN 12.52 _ MN 36.21)
- Nhờ bát sữa
của nàng Su già ta Thái tử mới tĩnh ngộ rằng, khổ hạnh cũng
không phải là phương pháp tốt để đi đến giác ngộ. Và một lần
nữa Ngài kiên thệ dưới cội cây Tất bát la: “Nếu không thành
chánh giác, ta nhất định không rời khỏi cội cây này”. Sau bốn
mươi chín ngày đêm thiền định, khi sao Mai vừa mọc Ngài đạt
được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.
- Như vậy, bước đường đức Thế
tôn đã đi là một sự dấn thân đầy gian lao vất vả. Nếu không có
lòng yêu thương chúng sanh vô bờ bến, không có một nghị lực
phi thường, không có ý chí sắt thép, không có lòng tin vững
chắc thì Ngài không thể vượt qua những thử thách cam go, không
thể thành tựu được lý tưởng tối thượng của mình - lý tưởng
Giác ngộ. Chính những khó khăn
gian khổ mà Ngài dấn thân được mới là một đều đáng trân quí.
Thiết nghĩ: những người thường dân chịu cực khổ đã quen, nên
gặp những lúc khó khăn chịu cực thêm một chút, chắc có lẽ cũng
không đến nỗi. Còn như người giàu sang phú quí, chưa bằng Thái
tử, mà vừa gặp khó khăn hoặc hơi chật vật một nhu cầu nào đó
trong cuộc sống đời thường thì chắc hẳn người ấy chẳng dễ chịu
tí nào. Thế thì, Siddhattha là một vị Thái tử, mọi nhu
cầu quá mĩ mãn lại dấn thân vào một hoàn cảnh sống trái ngược
như thế mà Ngài chấp nhận và được những người bạn đồng tu, năm
anh em Kiều Trần Như, mến phục sức chịu đựng khổ hạnh của Ngài
như vậy là tối ưu không ai có thể hơn được, đủ để chúng ta
thấy được ý chí sắt thép, nghị lực phi thường của Ngài.
- 4.
Ý nghĩa xuất gia trong đạo Phật
- Xuất gia là
một hành động vô cùng cao quí, là hình ảnh đẹp của một số tôn
giáo được dân gian của mọi thời đại tôn kính ca tụng và giành
những gì thanh khiết nhất để khen tặng cho những nhà tu hành;
dù là hình thức tu sĩ nào, cũng vẫn được người đời quý kính.
Nhưng ấn tượng đẹp nhất trong các tôn giáo vẫn là hình thức tu
sĩ Phật giáo. Đây là một cái nhìn rất khách quan theo thông
tin đại chúng chớ không phải là ý chủ quan của người viết.
- Trước thời
đức Phật ra đời ở Aán độ người theo đạo Bà la môn muốn đi tu
phải trải qua bốn giai đoạn. Giai đoạn một gọi là học đạo
kỳ, tức trong thời tuổi trẻ, người Bà la môn phải học hết
các kinh điển Vệ đà; giai đoạn hai gọi là gia cư kỳ,
tức là người thanh niên ấy phải lập gia đình, nuôi dạy con
cái và phụng sự xã hội; giai đoạn ba là ẩn cư kỳ: khi
con cái lớn khôn thì rút lui khỏi cuộc đời trần thế làm mọât
ẩn sĩ tu hành và giai đoạn cuối cùng là du hoá kỳ, tức
là đem sở tu sở đắc của mình đi hoá độ mọi người. Mặc dù đây
cũng là một cách sắp xếp có thứ lớp rạch ròi, theo tinh thần
Bà la môn; nhưng với cái nhìn của Thái tử thì có khác đi. Ngài
xem đó là một công thức cứng nhắt, không mang đến hiệu quả
lắm. Bởi vì, theo Ngài, một là đến tuổi già mới tu thì mọi
nhuệ khí minh mẫn để tiếp nhận những điều cao siêu mầu nhiệm
sẽ yếu đi vì sức khoẻ kém. Thứ nữa là cuộc đời vô thường đâu
hẹn cho bất cứ một ai rồi cũng sống được đến tuổi già!? Đó là
một vài quan điểm khác biệt thuở đương thời về ý nghĩa xuất
gia. Ý nghĩa xuất gia trong đạo Phật vô cùng quan trọng. Xuất
gia có ba nghĩa: một xuất thế tục gia, tức đi ra khỏi nhà thế
tục; nói nôm na đó là đi vô chùa tu; hai là xuất phiền não
gia, tức là thanh tu gột rửa các tập khí phiền não, các tư
tưởng thấp kém, nhiễm ô và nghiã thứ ba là xuất tam giới gia,
giải thoát ra khỏi tam giới . Như vậy, nhìn lại quá khứ thì
hành động ra đi của thái tử chỉ mới mang một nghiã đầu tiên
của xuất gia, tức ra khỏi nhà thế tục. Kể từ khi thành đạo
dưới cội Bồ đề thì lúc đó xuất gia được viên mãn cả ba ý
nghĩa.
- Trong thực
tế, có những người mặc dù không ra khỏi nhà thế tục những vẫn
đạt được hai ý nghiã xuất gia mang tính quyết định cho chân
giá trị giải thoát. Đó là mẫu người lý tưởng, thực hành Bồ tát
đạo, bằng hình thức cư sĩ, sống đời thế tục nhưng hoàn toàn
cách ly khỏi các ràng buộc của phiền não nhiễm ô, như hình ảnh
của Tuệ Trung thượng sĩ, hay cư sĩ Bàng Uẩn … Đó là những hình
ảnh tiêu biểu cho hai ý nghĩa xuất gia sau cùng. Cổ đức dạy
rằng: “Tuy xử cư gia, bất trước Tam giới. Thị hữu thê tử
thường tu phạm hạnh”. Nghĩa là: tuy ở trong nhà thế tục mà cả
Tam giới này còn không ràng buộc được; mặc dù có vợ con, nhưng
lại là người chuyên tu phạm hạnh. Đó là ý nghĩa cao siêu của
hàng đại Bồ tát.
- Nhưng dẫu
sao đi nữa, một người xuất gia đúng nghĩa theo đạo Phật, phải
đủ cả ba yếu tố trên, mới thành tựu cả nội dung lẫn hình thức,
có thể làm niềm tin cho tất cả mọi người và giáo hoá chúng
sanh được dễ dàng. Đầu tiên việc xuấùt gia của đức Phật là
ngài cắt tóc đưa cho Sa nặc mang về. Kể từ đó Ngài trở thành
một vị sa môn xuất thế tục gia, sống đời không nhà. Đấy chính
là hình ảnh giải thoát đầu tiên của người tu Phật. Cho nên ý
nghĩa xuất thế tục gia, trở thành tiền đề cho một bản sắc Phật
giáo. Trong kinh Tứ thập nhị chương, đức Phật dạy: “Cạo bỏ râu
tóc làm bậc Sa môn, là người lãnh thọ đạo pháp, phải xả bỏ của
cải ở đời, mong cầu vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa, dưới gốc cây
ngủ một đêm, cẩn thận không trở lại (dòng thế tục)”. Tổ Qui
Sơn cũng có dạy: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm
hình dị tục”. Đây là một trong những ý nghĩa thù thắng của
Phạât giáo. Và phần tâm chứng là để hoàn tất cho hai ý nghĩa
xuất gia còn lại. Kinh tứ thập nhị chương, đức Phật dạy tiếp:
“Những bậc xuất gia làm Sa môn, dứt bỏ ái dục, nhận biết nguồn
tâm của mình, hiểu rõ lý mầu của Phật, ngộ pháp vô vi, trong
không sở đắc, ngoài không sở cầu…”.
- Đó là một
vài ý nghĩa cao quí của việc xuất gia và người xuất gia theo
Phật giáo.
- 5.
Bài học lớn cho chúng sanh đời sau
- a/ Tu phải
biết hy sinh
- - Hy sinh
tài vật:
- Người đời
sở dĩ khổ tâm nhọc trí cũng chỉ vì cái ăn cái mặc. Khi có được
chút ít ăn mặc thì phải khổ công bảo vệ giữ gìn cho có của dư
của để. Khi giàu có thì họ lại mong muốn làm giàu hơn nữa, chỉ
muốn gom vào mà không muốn bỏ ra. Những người có tâm ích kỷ
thì lại lấy thân che của, chẳng biết san sẻ cho ai, dù đó là
cha, mẹ, vợ, con. Thế thì, chính người thân của mình mà không
dám hy sinh thì làm sao dám san sẻ cho người khác, lại càng
không dễ từ bỏ của cải. Cho nên chúng ta kính phục sự hy sinh
cao cả của đức Phật, từ bỏ tất cả mà không phải tìm hạnh phúc
riêng mình. Trong Bồ tát Anh lạc giới đức Phật nói lên tâm
nguyện của Ngài như sau: “Ta nguyện đem thân ta chịu hằng
hà sa số khổ đau của chúng sanh, vì nguyện cứu khổ chúng sanh
nên ta nguyện thành Phật”. Vậy thì, nếu đã là người xuất
gia phải có tâm hy sinh cao cả thì mới mong làm lợi ích cho
chúng sanh trên cõi đời này. Vì nghĩ đến lý tưởng giải thoát
mà chúng ta quyết xa lìa sự cám đỗ của vật dục thế gian, chính
nó là một mối ràng buộc lớn, cũng vì nó mà chúng ta phải tạo
nghiệp trầm luân trong sanh tử. Nếu không tập tánh lìa bỏ vật
dục thì người xuất gia khó giải thoát ra khỏi tù ngục của Dục
giới. Sự hy sinh này không chỉ dừng lại ở chỗ từ bỏ vật chất
phù hoa mà còn phải tiến xa hơn nữa là hy sinh thân mình để
làm lợi ích cho chúng sinh. Đó mới đúng với tinh thần vị tha
vô ngã. Khi có tâm vô ngã thì không còn gì nữa để luyến tiếc
trong việc tu hành, dấn thân hoằng pháp lợi sanh, bởi vì khi
đạt được vô ngã thì chúng ta có tình yêu thương nhân loại
nhiều hơn và đó chính là chân giá trị của tình thương không
vướng chấp (vô duyên từ).
- - Hy sinh
tình cảm
- Trái tim
màu đỏ:“Ai ra đi mà chưa từng bịn rịn, xa người thương mà dễ
mấy ai quên”. Tình đời thế sự là thế. Tình cảm là một mối ràng
buộc vô cùng lớn; theo thế gian nó vừa là giá trị thiêng
liêng, vừa mang tính ích kỷ bảo thủ. Cho nên người đời cũng
lao tâm nhọc trí khổ sở không biết bao nhiêu trong việc đi tìm
hạnh phúc ái tình. Khi có được, mấy ai dám từ bỏ như đức Phật
để làm một điều gì đó lợi ích cho mọi người. Vì thương yêu
chúng sanh không thể kể xiết đức Phật sẵn sàng hy sinh tất cả
những tình cảm riêng tư, để đi tìm chân lý mong làm lợi ích
cho tất cả chúng sanh, dẫu biết rằng sự hy sinh đó là một niềm
đau lớn cho công chúa Gia du đà la. Cho nên có một đoạn thơ(?)
quen thuộc nói lên lời tâm huyết của Thái tử thay lời từ biệt
Vợ con:
- “…Gia du
ơi! Xin em đừng sầu khổ
- Để anh tìm
đạo lý cứu nhân sinh
- Tình ta nay
đẹp mai sau khổ
- Lưu luyến
làm chi một bóng hình
- Chiếc áo
cẩm bào nay gác lại
- Thay vào
chiếc áo khách điêu linh
- Chén cơm
hoàng tộc xin từ biệt
- Đổi bát
muôn nhà độ chúng sanh
- Đêm nay gác
cánh tình riêng lại
- Mở cánh
tình chung trải ánh vàng”.
- Điều đó
chính là sự biểu hiện một nghị lực phi thường của bậc xuất
trần thượng sĩ.
- Mang tâm
nguyện người tu hành, nói chung, dù là người xuất gia, nếu tái
sanh vào trong cõi đời này thì ai cũng mang ít nhiều nghiệp
chướng, nhưng có người thành tựu quả giải thoát người không,
không phải ai may mắn hơn ai, hay đức Phật gia hộ người này
không gia hộ người kia mà tất cả chỉ do tâm lực của mỗi người,
khả năng chuyển hoá đúng như pháp, khả năng từ bỏ của mỗi
người mà thôi; người có chí, có nghị lực, chiến thắng được
những tham lam dục vọng thì thành tựu, còn ai yếu đuối sẽ bị
đổ vỡ, đó là những nguyên tắc tất yếu, chớ không phải tu hành
là gắng gượng hay mong đợi kết quả một cách cầu may.
- b/ Sự khó khăn của người mở
lối
- Cổ ngôn
thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Đây là vấn đề khó khăn lớn
nhất của bất cứ một ai muốn dấn thân vào con đường sự nghiệp
của mình. Chúng ta thử hỏi tất cả những người thành tựu sự
nghiệp vẻ vang hôm nay, ai chưa từng phải đối đầu với nhiều
nghịch cảnh, nhất là đối đầu với những cái mới mẻ mà mình phải
mù tịt. Con đường nào chưa có ai kinh qua mà mình là người
tiên phong thì dường như luôn phải chịu lắm gian nan vất vả,
có khi phải đổi lấy bằng tính mạng. Vì vậy, cuộc ra đi của đức
Phạât chính là cuộc tiên phong đầy gian nan và thử thách, thử
thách đầu tiên chính là sự thay đổi hai lối sống vô cùng trái
ngược nhau. Chỉ cần nhìn lại qua khứ lịch sử của đức Thế tôn
thì lòng kính ngưỡng của chúng ta bao giờ mới hết được. Hôm
nay đây, chúng ta đã có sẵn bản đồ trong tay, chỉ cần nỗ lực
bước đi thì việc gì mà chúng ta còn phải lưỡng lự chần chừ. Có
phải vì thời nay tiện nghi vật chất qúa hấp dẫn, căn cơ chúng
sanh cạn mỏng, lòng tham chấp càng sâu dày, ý chí hạ liệt cho
nên chúng ta không dám từ bỏ những cái nhỏ nhặt để bước vào
con đường làm lợi ích cho chúng sanh. Đó chính là lý tưởng tối
thượng, là bức thông điệp mà đức thế tôn muốn gởi cho tất cả
hàng đệ tử của ngài. Krisknamurti có viết một bài thơ rằng:
- “…Nếu sau
này tôi có viết lên những vần thơ để nói
- Sẽ chẳng
bao giờ nói lên để ca ngợi tình yêu
- Vì tình yêu
là hình ảnh buổi chiều
- Tuy êm ái
nhưng sẽ vào đêm tối
- Nếu sau này
tôi có viết lên những vần thơ để nói
- Chỉ nói lên
để ca ngợi tình thương
- Của những
người vì nhân loại quê hương
- Của hạnh
phúc thoát ra ngoài tội lỗi”
- Như vậy,
con đường tầm đạo của đức thế tôn thật đáng cho chúng sanh
kính phục, nhưng không có nghĩa hôm nay chúng ta đi tìm sự
kính phục ngày xưa mà đức Thế tôn trải thân thử nghiệm. Mặc dù
thực hành theo lối chỉ dẫn sẵn nó sẽ không có giá trị bằng sự
đi tìm như đức Phật, nhưng đã có bản đồ hoàn chỉnh trong tay
còn tự đi tìm để vẽ bản đồ khác nữa thì đó chính là chuyện
liều lĩnh, phí thời gian. Đã có bản đồ tốt thì chúng ta chỉ
cần tiến bước mà đi; lúc đó người có chịu quyết tâm đi đến
cùng hay không là chuyện khác. Đức Phật khuyên dạy các hàng tỳ
kheo: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi, hãy tự mình làm hòn đảo cho
chính mình”. CoÙ nghĩa là khuyên người hãy tự giác; pháp của
Phật là ánh lửa, tâm ta là ngọn đuốc. Hãy thắp đuốc giác ngộ
tự tâm mang đi và bảo trì cho ngọn lửa đừng bị tắt, đó là
nhiệm vụ của cháu con dòng họ Thích, mang sứ mạng Như Lai
truyền đăng tục diệm cho chánh pháïùp được trường tồn trên thế
gian này.
- C/ KẾT LUẬN
- Mỗi năm khi
đến ngày kỷ niệm xuất gia của đức Thế tôn, những người con
Phật đều nao nao khi nhớ đến hình ảnh người cha tinh thần đầy
khả kính. Nếu không có sự ra đi lịch sử xưa, thì ngày hôm nay
cũng không có một tôn giaó lớn nhân bản như đạo Phật. Khi chưa
tầm ra lẽ đạo, nhưng với niềm tin đức Phạât vẫn không nản lòng
từ bỏ lý tưởng ban đầu. Những bước đường gian nan nhiều chông
gai thử thách là một bài học lớn khích lệ cho chúng đệ tử của
Ngài phải biết trân quí di sản của đạo sư quyết tâm tu hành và
truyền bá tư tưởng giải thoát khổ đau cho chúng sanh. Một ngày
ra đi lịch sử với đầy tâm huyết, đã đem lại hạnh phúc cho nhân
loại, chẳng những riêng con người mà còn có cả chư Thiên.
- Hơn hai
mươi lăm thế kỷ qua, những hình ảnh đã đi vào lịch sử chưa
phai nhoà trong tâm trí người con Phật. Mỗi lần hình dung đến
những đức tính cao quí thánh thiện của Người là một lần như
được sự khích lệ lớn lao, giúp cho hành giả có nhiều nghị lực.
Được xem như chính sự gia trì của đức phật, mà mỗi lần vượt
qua khó khăn, chúng ta đều khấu đầu trước đức từ tôn xin được
kính lễ tạ ơn Ngài. Cho nên, đứng về góc độ lịch sử, nếu bỏ
qua sự kiện trong đại này - ngày xuất gia của đức Phạât, là
một điều thiếu sót lớn, đối với giá trị tinh thần lại càng bị
mất mát nhiều hơn. Cho nên chúng ta cần phải nghiên cứu tìm
hiểu, ôn lại mọât cách nghiêm túc và đầy đủ để ngày này trở
thành những ngày kỷ niệm trọng đại, đối với cuọâc đời lịch sử
của đức Phật, mà tín đồ Phật giáo trong khắp năm châu bốn biển
đều trân trọng đón mừng.
-
- Tài liệu
tham khảo:
-
·
Phật học phổ thông HT. Thích Thiện Hoa
-
·
Ánh đạo vàng Võ Đình cường
-
·
Lịch sử đức Phật Cồ Đàm Thong Kham.
-
·
Đức Phật lịch sử Trần Phương Lan dịch.
-
·
Phật học khái luận HT. Thích Chơn Thiện.
-
·
Kinh Tăng Chi HT. Thích Minh Châu
dịch.
--o0o--
|
|