|
BỒ TÁT HẠNH
- Ý Nghĩa
- Vía Phật -
Bồ Tát Trong Năm
- ---o0o---
-
-
HẠNH NGUYỆN ĐỘ SANH CỦA
-
ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI
-
Thích Nữ Từ Phước
-
--o0o--
-
-
A. DẪN NHẬP
-
Khổ – một thực trạng
tâm lý mà chúng sanh phải thọ nhận, cũng là một thách thức cho
bao thế hệ con người đã đi qua. Bằng cách này hay cách khác
người Phật tử phải tìm ra phương thức đoạn trừ nó. Nói Ta Bà
Khổ! Ta Bà Khổ ! Không có nghĩa là các vị Tổ sư chúng ta gieo
rắc chủ trương bi quan, yếm thế mà đó là tiếng nói của sự thật.
-
Nhưng đạo Phật không
chấp nhận hóa giải khổ đau bằng phương pháp tu tập khổ hạnh, ép
xác, cũng như phải tín ngưỡng trung thành, van xin một đấng thần
linh nào đó. Thế nên, trên lộ trình giáo hóa, độ sanh, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni bao giờ cũng xác nhận Ngài là vị đạo sư dẫn
đường, vị thầy cho thuốc, giúp chúng sinh tự chữa trị các căn
bệnh vô minh, phiền não. Sở dĩ các đức Phật, Bồ Tát thị hiện vào
cuộc đời cũng chỉ vì mục đích đó.
-
Ở đây, chúng ta tìm
hiểu về Đức Phật Dược Sư là để xây dựng sự hiểu biết, niềm tin
và sự nương tựa tu học đúng với chánh pháp.
-
B. NỘI DUNG
-
I. Hạnh nguyện độ
sanh là gì ?
-
Sơ phát tâm của bậc
Thượng Sĩ là chí nguyện cao quý, trong sáng, hồn nhiên chan hòa
ánh Đạo ở chốn Thiền môn. Phải chăng, đây là nền tảng khởi
nguyên để đạt đến hạnh nguyện của người xuất gia tầm đạo giải
thoát. Vậy Hạnh nguyện độ sanh là gì ? Theo từ điển Phật học Hán
Việt: Hạnh nguyện là dịch âm - có nghĩa là hành động của thân và
ý nguyện của tâm. Hai tướng này trợ giúp cho nhau làm nên việc
lớn. Thanh Long sớ quyển Hạ giải thích : “Do hành và nguyện
nương tựa vào nhau, cả hai cùng tu không lệch bên nào”. Do
đó, Hạnh nguyện có nghĩa là tự thân hành động những ý nguyện
của tâm. Ở đây, “độ sanh” là chỉ chung cho tất cả mọi
loài từ hữu tình cho đến vô tình chúng sanh, mỗi mỗi đều có thể
nương theo Phật, Bồ Tát vượt qua khổ ải trầm luân. Cũng tức là
tế độ, độ thoát, dìu dắt chúng sanh từ nơi mê mờ đến ánh sáng
rực rỡ bằng các phương tiện hay đẹp của chư Phật và Bồ Tát. Đức
Phật Dược Sư phát ra 12 thệ nguyện cứu chữa các căn bệnh nghiệp
cảm, vô minh của chúng sanh tức là hoạch định con đường tu tập
từ nhân đến quả của các Đức Như Lai.
-
II. Khái quát về Đức
Phật Dược Sư
-
1) Định nghĩa: Dược
Sư tiếng Phạn là Bhaisajyaguru (Bhaisayaguru), gọi đầy đủ là
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn có danh hiệu là Đại y Vương
Phật, Y Vương Thiện Thệ. Ngài là giáo chủ của nước Tịnh Lưu Ly ở
Phương Đông, phát ra 12 thệ nguyện cứu chữa bệnh tật cho chúng
sanh, chẩn trị căn bệnh vô minh.
-
Qua phần định nghĩa,
chúng ta có thể tìm hiểu chính xác hơn về Đức Phật Dược Sư qua
12 thệ nguyện.
-
2) Lược giản 12 thệ
nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly
-
+ Nguyện thứ nhất
: Nguyện thân ta và hết thảy các loài hữu tình có hào quang
rực rỡ.
-
+ Nguyện thứ hai
: Nguyện có quang minh rộng lớn, uy đức vời vợi để khai
nguồn thông suốt cho tất cả chúng sanh.
-
+ Nguyện thứ ba
: Nguyện cho chúng sanh không thiếu thốn, tùy theo lòng mong
cầu mà được toại nguyện.
-
+ Nguyện thứ tư
: Nguyện cầu hết thảy chúng sanh đều tu theo Đại Thừa liễu
nghĩa.
-
+ Nguyện thứ năm
: Nguyện cho tất cả chúng sanh tu hành Phạm hạnh thanh tịnh,
giữ gìn đầy đủ “tam tụ Tịnh giới”.
-
+ Nguyện thứ sáu
: nguyện hết thảy chúng sanh đầy đủ thiện căn, trang nghiêm
sáng suốt.
-
+ Nguyện thứ bảy
: Nguyện cho tất cả chúng sanh thân tâm thường an lạc, chứng
quả vô sanh.
-
+ Nguyện thứ tám
: Nguyện được chuyển nữ thành nam đủ tướng trượng phu, tu
chứng đạo vô thượng.
-
+ Nguyện thứ chín
: Nguyện cho các loài hữu tình được giải thoát mọi ràng buộc
của thiên ma ngoại đạo, tà kiến, ác kiến, dẫn dắt thu nhiếp họ
trở về chánh kiến.
-
+ Nguyện thứ mười
: Nguyện cho chúng sanh giải thoát các tai nạn bất thường,
giặc cướp lấn hiếp của ác ma.
-
+ Nguyện thứ mười
một : Nguyện cho chúng sanh bị đói khát được ăn uống ngon
lành và no đủ – sau đó Đức Phật ban cho “Pháp vị” để dựng
nên quả đức an vui.
-
+ Nguyện thứ mười
hai : Nguyện hết thảy chúng sanh bị nghèo cùng khốn đốn đều
được đầy đủ đồ dùng qúy báu trang nghiêm, “Sở nguyện tùy tâm,
sở cầu như ý”.
-
Để nhận thức tường
tận về Đức Phật Dược Sư trên bình diện tâm linh cũng như củng cố
niềm tin đúng với chánh lý, chúng ta sẽ từng bước tìm hiểu qua
các phần như sau.
-
III. Tín ngưỡng đạo
lý
-
1) Tin vào công năng
cứu độ qua đại nguyện của Phật Dược Sư
-
Như trên đã trình bày
12 Đại nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khiến cho tất
cả các loài hữu tình cầu gì cũng được. Bởi vì, 12 thệ nguyện là
biểu thị cho công năng thực hành hạnh cứu khổ, hàm nhiếp cả Tứ
vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả), của chư Phật, Bồ Tát. Nếu nói về
Thần lực hành đạo thì Đức Phật Dược Sư cũng có thể hóa thân làm
Bồ Tát để cứu độ chúng sanh thoát khỏi mọi tai ách. Đặc biệt,
Ngài chữa trị các loại bệnh tâm lý. Có người khi gặp tai nạn hay
bệnh chứng khó qua khỏi cơn nguy biến liền niệm danh hiệu “Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, hay đứng chấp tay nhớ tưởng hình
tượng của Ngài thì sẽ được hóa giải.
-
Từ đó, nếu chúng ta
tu tập 12 hạnh nguyện trong đi, đứng, nằm, ngồi mỗi mỗi đều nhất
tâm, tất nhiên sẽ cảm nhận một cách vi diệu trong từng ý niệm
trong sáng của tâm thức. Và từng ý niệm trong sáng đó tác động
đưa cơ thể vượt qua mọi bệnh tật. Ngày nay, khoa học đã công
nhận “Nhân điện” là một phương thức trị bệnh. Họ có thể nhận
“Thiên khí” vào cơ thể con người, sau đó kết hợp năng lượng sẵn
có để có thể chẩn trị tất cả mọi chứng bệnh. Thế nên, chúng ta
là đệ tử Phật sao không dùng pháp môn niệm Phật để điều hòa hơi
thở và tự chữa trị bệnh cho tự thân. Đối với những hành giả tu
tập, trên lộ trình chứng đắc đạo quả như Phật, tất nhiên phải
cần thể nhập một cách hoàn hảo về 12 hạnh nguyện của Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai. Vì Ngài là biểu thị cho chân lý và nhân
cách hoàn mỹ, là bậc giác ngộ thành tựu Phật quả làm giáo chủ
cõi Tịnh Lưu Ly
-
Đông phương Giáo chủ
Đại Y Vương
-
Tiêu Tai Diên Thọ bảo
an khương
-
Dược Sư Hải hội Dược
Vương Thượng
-
Thất Phật Như Lai
phương hộ trì.
-
Ngày nay, cứ mỗi độ
xuân về, trăm hoa khoe sắc sau 3 ngày Tết Nguyên Đán, Lễ Hội
Dược Sư được tổ chức thường niên. Theo truyền thống Phật Giáo,
vào ngày mồng 8 đầu năm, các chùa thường
“khai đàn Dược Sư”
hay còn
gọi là “Lễ Cầu An”. Hàng xuất gia cũng như tại gia chuyên
tâm trì chú để cầu nguyện “thế giới hòa bình, chúng sanh an
lạc”. Đặc biệt, gồm có 49 ngọn đèn thắp lên tượng trưng cho
ánh sáng và trí tuệ, đó là ánh sáng mầu nhiệm của Đức Phật Dược
Sư và chư Phật mười phương soi sáng đến cho nhân loại.
-
Đức Phật Thích Ca dạy
: “Ở phương Đông có một thế giới đặc biệt, đời sống an lạc và
hạnh phúc tương đương với thế giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà
ở phương Tây : - “Này Mạn Thù Thất Lợi! … Trong khi tu Bồ Tát
đạo ngài đã phát ra 12 đại nguyện làm cho tất cả chúng sanh có
chỗ sở cầu đều toại nguyện”. Thế nên :
-
“Lòng từ tế độ khắp
tam thiên
-
Trăm ngàn ức kiếp Đại
Y Vương
-
Thường đem mắt tuệ
soi phàm tục
-
Chúng sanh mong cầu
thảy hiện tiền”.
-
Mười hai thệ nguyện
của Đức Phật Dược Sư có mãnh lực rất lớn. Bất luận người xuất
gia học đạo hay cư sĩ tại gia, nếu tu tập, trì tụng kinh Dược Sư
nhớ nghĩ hình tượng hoặc niệm danh hiệu của Ngài đều có thể vượt
qua tất cả nguy hiểm, như bị giam cầm lao ngục được an vui tự
tại. Hoặc thờ tượng Đức Phật Dược Sư hàng ngày chiêm ngưỡng, lễ
bái thì được thân tướng đẹp đẽ, trang nghiêm, trí tuệ sáng suốt.
Đặc biệt, tại làng Hồng, Hòa Thượng chủ giảng :
-
“Đối với hàng xuất
gia trong lúc tu tập, nếu bị sai lạc thì Ngài gia hộ cho chúng
ta tu hành chơn chánh không bị tà ma ngoại đạo quấy nhiễu. Hoặc
đối với những người phạm giới phá trai, nếu chí thành cầu nguyện
Đức Phật Dược Sư thì sẽ được khôi phục lại giới thể, phát huy
những hạnh lành, tu hành tinh tấn chứng được đạo vô thượng Bồ
Đề”.
-
Cho nên trong kinh
Dược Sư có bài kệ :
-
Hạnh nguyện của Phật
khó nghĩ bàn
-
Đưa hết chúng sinh
lên cõi tịnh;
-
Muốn lên phải tụng và
phải tu
-
Bỏ hẳn đường tà, theo
đường chính
-
[Tuệ Nhuận]
-
Vậy, hạnh nguyện là
món ăn tinh thần của mỗi hành giả, bởi vì chúng ta thường quan
niệm “sống phải có ý nghĩa, tu phải có hạnh nguyện”. Điều đó
chứng tỏ trong việc mong cầu hạnh phúc, an vui người Phật tử
không thể thiếu hiểu biết, niềm tin và hạnh nguyện cũng như
những gì thuộc về tâm linh. Phật giáo vẫn thừa nhận người tu
hành chân chánh sẽ được Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp thiện thần hộ
niệm, nhưng muốn thành Phật thì phải áp dụng 12 hạnh nguyện của
Đức Phật Dược Sư trong đời sống tự thân. Những công đức hành trì
đó có thể tự trị các bệnh tật.
-
2) Công đức đọc tụng
và trì chú Dược Sư :
-
Thần lực của Đức Dược
Sư Như Lai sẽ giữ gìn che chở cho hành giả (người tu theo bản
nguyện của Phật Dược Sư) và được sự bảo hộ của 12 đại tướng :
-
(1) Cung – Tỳ – La
Đại Tướng, (2) Phạt chiếc – La Đại tướng, (3) Mê – Súy – La Đại
tướng, (4) An Để – La Đại tướng, (5) Át – Nễ – La Đại tường, (6)
San – Để – La Đại tướng, (7) Nhơn Đạt La Đại tướng, (8) Ba – Di
- La Đại tướng, (9) Ma – Hổ - La Đại tướng, (10) Chơn – Đạt - La
Đại tướng, (11) Chiêu Đỗ La Đại tướng, (12) Tỳ Yết La Đại tướng.
-
Trong cuộc sống bình
nhựt của người xuất gia cũng như tại gia, nếp sống tâm linh ảnh
hưởng rất lớn đối với tự tâm của mỗi người. Nếu hằng ngày chúng
ta trì niệm, đọc tụng hoặc xưng danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai thì sẽ được ứng nghiệm ngay trong hiện tại. Đặc
biệt “Chú Dược Sư” mang một ý nghĩa rất quan trọng khi
chúng ta hành trì, vì chẳng những vượt qua mọi khổ ách, mà sau
khi mạng chung còn được sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly, dần dần tu
chứng đến đạo qủa Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.
-
Duyên khởi của thần
chú Dược Sư, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy cho Mạn Thù Sư Lợi
Bồ Tát trong Kinh Dược Sư Bổn Nguyện công Đức trang 74 :
-
“Này Mạn Thù Thất
Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi chưa chứng được
đạo Bồ Đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu
tình, gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt
thương hàn”…
Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu an lạc
của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên
là “Định diệt trừ tất cả khổ não cho chúng sanh”. Khi
Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn,
trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà La Ni :
-
“Nam mô bạc già phạt
đế, bệ sát xã, lũ lô thích lưu ly bác lặc bà, hắc ra xà giả. Đát
tha yết đa gia, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột Đà gia, dát điệt
tha, Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tammột yết đế tóa
ha!!”
-
Phạn Âm :“Namo
bhagavate bhaisajya guơu vaidurya prabharajaya tuthàgtàya
asahate Samyak Sambuddhaya tacljathà : Om bhaisajye bhaisajya
Samudgate Svàhà!!”
-
Như vậy, công đức đọc
tụng, hành trì chú Dược Sư rất vi diệu. Chúng ta có thể gặt hái
những thành qủa tốt đẹp ngay trong hiện tại. Bời vì, đó là,
những âm thanh của Chư Phật nói ra có ảnh hưởng trực tiếp đến
nhịp điệu rung chuyển của làn sóng quang minh trong tâm thức
chúng sanh. Từ đó, niềm tin được vững chắc, chí nguyện được viên
mãn, chính là nhờ công đức bất khả tư nghì của bản nguyện Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nhất là lúc lâm chung chỉ cần nghe danh
hiệu của Ngài liền có tám vị Đại Bồ Tát có sức thần thông đến
chỉ lối đưa đường sang thế giới Cực Lạc, hoa báu trang nghiêm.
-
3) Ảnh hưởng cuộc
sống tinh thần tín ngưỡng
-
Phàm là con người ai
cũng muốn sống một cuộc đời hạnh phúc an lành, cho dù là ít học
hay là người trí thức. Nhưng đường đời đã có thuận ắt phải có
nghịch. Những vấn đề cuộc sống khi không giải quyết được chắc
chắn họ sẽ tìm đến tôn giáo. Điều đó có nghĩa là trong cuộc
sống, vấn đề tín ngưỡng ảnh hưởng rất lớn đối với tinh thần của
mỗi người. Song thực tập 12 hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư có
lợi ích gì?
-
Dĩ nhiên, trong thời
đại ngày nay đối với người xuất gia hay cư sĩ ít có ai thực hành
hay phát nguyện điều gì gọi là “theo dấu chân xưa” của Đức Phật
Dược Sư. Vì sao ? Đa phần, niềm tin bị hạn chế bởi những người
đặt nặng vấn đề vật chất lên trên đời sống tinh thần. Vì thế,
mặc dù hàng ngày có trì niệm đọc tụng kinh Dược sư nhưng hiệu
quả rất thấp, đó là vì họ không thành tâm thành ý. Mỗi hạnh
nguyện có một công năng đặc thù, nếu trong đời này, bất cứ hành
giả nào khi có tín tâm rồi nên phát nguyện sanh về cõi Tịnh Lưu
Ly của Đức Phật Dược Sư. Sự phát nguyện này, đòi hỏi hành giả
ứng dụng 12 lời nguyện vào cuộc sống để phát huy công đức lành
của tự tâm, đưa tâm mình thể nhập chân lý tuyệt đối. Chẳng hạn
chuyện cách đây 10 năm : “Có một gia đình giàu có, nguồn gốc Tổ
tiên vì theo truyền thống Phật Giáo nhiều đời nên rất mộ đạo. Họ
chỉ có một người con trai độc nhất, bất hạnh thay! người con
trai ấy chỉ biết theo những bạn bè xấu ăn chơi, sa đọa, vào tù
ra khám. Những hành động như vậy khiến cha mẹ buồn rầu, khổ não.
Vì thế, người mẹ hàng ngày thường đến chùa cầu nguyện. Được Quý
thầy hướng dẫn nên cô thờ đức Phật Dược Sư, mỗi đêm quỳ trước
hình tượng của Ngài niệm danh hiệu hoặc trì tụng kinh Dược Sư…
Vi diệu thay ! Sau một thời gian thành tâm cầu nguyện như vậy,
dần dần chuyển hóa được tâm tánh của cậu con trai…”
-
Qua câu chuyện trên,
từ niềm tin tín ngưỡng tác động đến hiện thực cuộc đời qua 12
hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư. Thực sự nó ảnh hưởng rất sâu
sắc, quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người đệ tử Phật.
Những hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư được ví như là những
phương thuốc đặc trị những tâm bệnh của chúng sanh.
-
Như vậy, đối với hàng
xuất gia và tại gia trong cuộc sống hiện thực, không thể không
thực hành những hạnh nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai.
-
Hạnh nguyện độ sanh
của Đức Dược Sư với bao năng lực huyền bí để tế khổ bảo an, như
chiếc thuyền “Từ” luôn sẵn lòng “vị tha vô ngã” để
chuyên chở bao chúng sanh từ bể khổ lầm than đến bờ giác ngộ,
giải thoát.
-
Đó là chân giá trị
bất hũ, bởi vì sự hành trì hiện tại vẫn mang lại hữu ích lớn lao
cho hành giả tu tập “bản nguyện công đức của Đức Dược Sư
Quang Như Lai”.
-
Như vậy, hy vọng rằng
với nhận thức trên, có thể góp phần xây dựng niềm tin về hành
nguyện độ sanh của Đức Dược Sư Như Lai.
-
IV. Giá trị biểu
trưng và hiện thực
-
Theo Phật Giáo, lộ
trình thể nhập cõi đạo có nhiều phương tiện, trong đó có giáo
pháp dựa trên cơ sở khai quyền, hiển thật (mở phương tiện để
hiển bày thật tướng), hoặc từ thật tướng mở ra phương tiện
(quyền). Do đó,ngoài góc độ tín ngưỡng, siêu hình, Triết học
Phật giáo bao giờ cũng đặt giá trị biểu trưng và hiện thực để
giúp người Phật tử trở về với cội nguồn tuệ giác chính mình. Thế
thì, hình ảnh biểu trưng cũng như giá trị hiện thực về Đức Phật
Dược Sư có ý nghĩa như thế nào ?
-
1) Hình ảnh biểu
trưng
-
Như chúng ta đã biết,
chân dung Đức Phật Dược Sư được tín ngưỡng xưa nay là hình tượng
có tóc xoắn ốc, tay trái cầm bình thuốc (còn gọi là ngọc qúy),
tay phải kiết ấn thí vô úy. Hai bên có 2 vị Bồ tát làm thị giả
Đức Phật, như bên trái là Bồ tát Nhật Quang, bên phải là Bồ tát
Nguyệt Quang. Đây là hình ảnh được gọi là Dược Sư tam tôn.
-
Về hình tượng tóc
xoắn ốc là một trong những tướng tốt của Đức Phật. Tay cầm bình
thuốc (hoặc cầm ngọc qúi) là biểu thị cho ý nghĩa – Đức Phật
Dược Sư có vô lượng công đức, báu vật và diệu pháp mầu nhiệm để
giúp Hành giả tu tập, chuyển hóa tự thân. Điều đặc biệt ở đây là
tay phải Ngài kiết ấn vô úy. Vô úy chính là không sợ hãi. Hình
ảnh kiết ấn của Đức Phật Dược Sư với mục đích giúp Phật tử tự
tin để thiết lập sự bình yên cho thân và tâm.
-
Hai vị Bồ tát đứng
hầu Đức Như Lai Dược Sư là biểu trưng cho căn bản trí (nhật
Quang Biến Chiếu) và hậu đắc trí (Nguyệt Quang Biến chiếu). Điều
đó, xác định mọi phương tiện mà Ngài vận dụng đều phát xuất từ
hai Trí này. Hơn nữa, Lưu Ly là chỉ cho một trong bảy báu vật,
đó là loại đá quý màu xanh. Màu xanh là biểu thị từ bi và sự
sống. Hình ảnh Đức Phật trụ Phương Đông là biểu trưng nơi có
nguồn sống vô tận. Thế nên, Đức Phật Dược Sư là tổng thể, bao
hàm mọi hình ảnh, có tác dụng khai phóng tâm thức hành giả. Từ ý
nghĩa trên, có thể khẳng định rằng, mọi chúng ta là một Đức
Phật Dược Sư, nếu phát huy tận cùng công đức, trí tuệ và diệu
pháp nhiệm mầu của Bản tâm. Thế nhưng, muốn đạt được, chúng ta
phải ứng dụng 12 đại nguyện Đức Dược Sư vào đời sống tự thân,
thì chắc chắn những đức tính cao qúy đó sẽ được thành tựu.
-
2) Giá trị hiện thực
:
-
Cũng như Phật A Di
Đà, Đức Dược Sư Như Lai đã trang nghiêm tự thân và cõi nước của
Ngài bằng 12 đại nguyện. Từ khi phát tâm, lập nguyện cho đến
ngày thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là cả quá
trình hành đạo Bồ Tát. Đây là kết quả của sự nỗ lực, tinh tấn
không ngừng trong việc tu tập, ban vui cứu khổ chúng sanh nhiều
đời.
-
Ở đây, dựa trên 12
đại nguyện, chúng ta thấy Đức Phật Dược Sư đã xây dựng mô hình
tịnh độ, trong đó lấy chúng sanh làm trung tâm để hoàn thiện. Do
đó, nội dung mỗi lời nguyện đều nói lên mục đích là giải phóng
khổ đau cho tất cả chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng để Bồ tát
thực hiện viên mãn về hạnh nguyện. Hơn nữa, theo quan niệm của
Phật giáo, sự thành tựu mỗi vị Phật, ngoài yếu tố hạnh nguyện,
mục đích, bước tiếp theo còn phải cụ thể hóa bằng hành động.
Chính hành động lợi mình lợi người mới là điều kiện căn bản để
trang nghiêm cho báo thân Phật (chánh báo) và cõi nước (y báo)
đạt đến hoàn bị. Và khi còn ở lộ trình tu nhân, Đức Phật Dược Sư
đã thể hiện được điều đó, nên cảnh giới tịnh độ của Ngài là một
mô hình lý tưởng cho Phật tử chúng ta hướng về noi gương, tu
học.
-
Trên cơ sở này, sự
tôn kính, lễ bái đi đôi với việc thực hành 12 đại nguyện sẽ giúp
chúng ta xây dựng cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh như Ngài.
Điều đó hành giả phải hoàn thiện trên hai mặt, nghiêm tịnh tự
thân và cõi nước. Về tự thân, chúng ta cần giữ gìn tịnh giới,
thực tập thiền định, phát huy trí huệ vô lậu để chuyển hóa những
ý niệm tham muốn, hờn giận, si mê, ích kỷ, ghen ghét, chấp ngã,
pháp v.v… trở về tự tánh sáng suốt, bình đẳng, thanh tịnh. Sự
chuyển hóa đó cần phải thực hiện với tâm vô trú, vô hành. Đây
cũng là cách kiến tạo thế giới tịnh độ nơi lòng mình.
-
Song song với việc
hoàn thiện tự thân, hành giả còn phải tu tập hạnh Bồ tát trên cơ
sở mười hai đại nguyện, tức lấy chúng sanh làm đối tượng, hướng
dẫn họ đạt đến an lạc và giải thoát; làm được điều này cũng có
nghĩa là kết duyên quyến thuộc với chúng sanh, cùng sống chan
hòa trong ánh đạo, biến cõi ta bà thành nước Phật.
-
Ngày nay, trên thế
giới, có những quan niệm, khuynh hướng và hành động đẩy nhân
loại đến vực thẳm tương tàn, tương sát, nhất là nạn chiến tranh,
khủng bố, thù hận, bệnh tật đang hoành hành. Là người Phật tử,
tại sao chúng ta không đem mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược
Sư, ứng dụng cho đời sống tự thân và mọi người, mọi thành phần
xã hội, giúp họ một hướng đi đích thực trong việc phục vụ nhân
sinh. Đây là hành động tích cực, nhằm xây dựng cõi nhân gian trở
thành cảnh giới Tịnh độ đầy đủ chánh báo và y báo trang nghiêm.
Nếu làm được điều đó, mỗi người Phật tử sẽ là một thành viên
tích cực trong công tác kiến tạo nền hòa bình, tự do và thịnh
vượng cho thế giới.
-
C. KẾT LUẬN
-
Đức Phật Dược Sư là
vị Đạo sư đầy đủ diệu pháp, diệu dược, có khả năng hóa giải mọi
khổ đau chúng sanh. Qua mười hai hạnh nguyện cũng như sự thành
tựu viên mãn về sự kiến tạo Tịnh độ của Ngài đã cho chúng ta
nhiều bài học thực tiễn trong con đường tu tập và hành đạo Bồ
Tát.
-
Từ thành quả và những
năng lực siêu việt của Ngài, nên không những Phật giáo đồ Việt
Nam, mà Phật giáo các nước Châu Á đều luôn tôn kính và ngưỡng
vọng.
-
Sự sùng tín bằng niềm
tin có thể đem lại một kết qủa nào đó nhất định, nhưng nếu coi
đây là điều kiện tuyệt đối, sẽ dẫn đến xem Đức Phật Dược Sư là
vị thần linh.
-
Song căn cứ trên tính
biểu trưng và giá trị hiện thực, Phật tử chúng ta cần nên nhận
thức Đức Phật Dược Sư là vị thầy có vô số diệu pháp, giúp tự
thân chúng sanh chuyển hóa khổ đau thành an lạc, giải thoát,
biến cõi Trần gian thành Tịnh độ huy hoàng, hơn là chỉ biết cầu
nguyện, van xin…
-
Con đường dẫn đến an
lạc và hạnh phúc cho tự thân và muôn loài đang nằm trong tầm tay
mọi người, nếu chịu quay về sống với đạo lý từ bi, trí tuệ và
mười hai hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư./.
--o0o--
|
|