|
BỒ TÁT HẠNH
- Ý Nghĩa
- Vía Phật -
Bồ Tát Trong Năm
- ---o0o---
-
Bài Đọc Thêm
-
KINH HOA NGHIÊM VỚI THIỀN
-
Thích Trí Hiếu
-
--o0o--
-
-
Trong cuộc sống nhân
sanh, nếu không có sự định tỉnh sáng suốt trước mọi giông tố của
cuộc đời thì không thể vượt qua mọi bão táp phong ba. Không có
sự định tỉnh thì không có trí tuệ để thành tựu sự nghiệp. Trong
đạo Phật, Thiền định là cốt lõi hay tinh ba của Phật pháp. Vì
thế, Kinh Pháp Cú nói: “Tu thiền trí tuệ sanh, bỏ thiền trí tuệ
diệt. Người có thiền có huệ, nhất định có niết bàn”. Dù là đại
thừa hay tiểu thừa, căn bản hay phát triển, đều lấy thiền định
làm căn bản để thành tựu trí huệ giải thoát giác ngộ. Kinh Hoa
Nghiêm là bộ kinh thuộc về nhất thừa viên giáo cũng lấy thiền
làm nền tảng cho người tu tập để thành tựu Bồ Tát đạo.
-
Tuy nhiên, quan niệm
về Thiền định của Hoa Nghiêm lại khác biệt hơn so với các tư
tưởng khác, nếu Thiền định được gọi là tư duy tu hay tịnh lư
hoặc “đối cảnh không động gọi là thiền, trong tâm không loạn gọi
là định”. Hay ngoại dứt cảnh duyên, tâm không loạn động là thiền
định, thì Kinh Hoa Nghiêm cho Thiền là trí ứng dụng vào cuộc đời
làm an lạc chúng sanh. Như vậy, Hoa Nghiêm đứng về qủa đức hay
dụng mà nhìn thiền định. Bởi vì, tư duy tu hay Tịnh lự thuộc về
Thế gian thiền, các nhà Bác học, Học giả nghiên cứu tư duy bằng
thức đạt kết qủa thành tựu nghiên cứu đều do thức tâm định tỉnh
ứng dụng pháp mà thành. Đây là diệu dụng của thức.
-
Hàng ngoại đạo tu Thế
gian thiền chứng qủa Tứ Không cho đến Phi tưởng, phi phi tưởng
xứ. Không diệu dụng được trí, chấp ngoan không là cảnh giới Niết
bàn nên trú trong vọng thức chấp thủ.
-
Thành Nhị thừa chứng
thiền định của mình, nhưng còn thấy có pháp, còn xuất trụ nhập,
nên khi xã định nhập thế độ sanh bị phiền não bức bách. Vì còn
thấy phiền não là thật, không rõ tự tánh như không hoa, nên lo
sợ bị trần cảnh làm thối thất quả chứng. Do đó, thường trú Niết
bàn chẳng vào thế gian làm lợi lạc chúng sanh nên Trí Bát Nhã
chẳng sanh, ổn định trong bạch tịnh thức, vì không rõ nguồn tâm
nên chẳng phát đại nguyện độ sanh, viên thành Phật trí, chỉ có
những ai rõ suốt nguồn tâm xưa nay hằng thanh tịnh: “Sanh tử
Niết bàn như giấc mộng đêm qua”, mới dám dõng mãnh phát nguyện:
“Đời ác năm trược con nguyền vào trước, như còn một chúng sanh
chưa thành Phật, con nguyện chẳng riêng Thủ Niết bàn” như ngài A
Nan.
-
Theo Đại thừa, thiền
của chư Phật là lấy tâm truyền tâm không cần đến ngữ ngôn văn tự
để giải phóng con người ra khỏi phiền não thể nhập thực tại
tuyệt đối siêu việt. Mục đích của thiền là dẫn hành giả đến trực
ngộ giải thoát, đề cao nếp sống phóng khoáng, bình đẳng, yêu
thiên nhiên với phong thái tự tại do trực giác tâm linh bén
nhạy. Người tu thiền chỉ ngồi yên lặng, gạt bỏ ra ngoài mọi tư
tưởng và hình ảnh tốt xấu nhờ đó gạn lọc tâm hồn trở nên thanh
tịnh. Đó là phương pháp tập trung tinh thần để đạt tới trạng
thái ý thức hoàn toàn sáng suốt trong sạch, tức nhận được Phật
tánh ở ngay trong bản tâm của chính mình.
-
Kinh Hoa Nghiêm trình
bày cho Ta con đường tu Bồ tát đạo phải trải qua Pháp định, Tánh
định và Trí định mới có thể vào đời nhập thế độ sanh không bị
trở ngại. Không có định thì không có thể làm được bất cứ việc
gì.
-
Pháp định tức nương
pháp vào định như nương Quán hơi thở, Tứ niệm xứ hoặc Lục diệu
pháp môn hay niệm Phật, Trì chú để vào định v.v… Trong kinh Hoa
Nghiêm phẩm Nhập Pháp giới, ngài Thiện Tài đồng tử được Tỳ Kheo
Đức Vân dạy nương pháp “Ức niệm nhất thiết cảnh giới chư Phật”
thành tựu Pháp định.
-
Trí định tức đắc Pháp
định và rõ suốt tánh không bát nhã an trú vào tự thể không sanh,
không diệt, không thường, không đoạn, không đến, đi qua lại vô
sở trụ mà an lập; ngộ rõ nguồn tâm ngắm sóng biển ba đào của
thức tâm sanh diệt. Thiện Tài đồng tử được ngài Hải Vân dạy pháp
Phổ nhãn quán chiếu biển tâm hằng thanh tịnh. Thành tựu Trí định
làm lợi lạc chúng sanh.
-
Tánh định tức chơn
tánh hay tự thể xưa nay hằng thanh tịnh do phân biệt chấp trước
nên sanh mê lầm. Nhìn thẳng thấy ngay bổn tâm không qua phân
biệt suy nghĩ. Đây là chổ ngài Lục Tổ Huệ Năng chỉ cho Huệ Minh:
“Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bổn lai diện mục của
Thượng Tọa Minh ? Niệm đầu không phân biệt. Nhờ thế, khi ta nhập
Pháp giới, thấy cảnh, thấy sắc, tâm không động, không vướng mắc
các pháp, chẳng có pháp nào ngăn ngại được, thấy biết bằng tâm
thanh tịnh thường hằng tương ứng Căn bản trí và Sai biệt trí
diệu dụng trùm khắp pháp giới. Đây là thiền định của Phật và chư
Tổ.
-
Theo kinh Hoa Nghiêm,
Thiền định Ba la mật là hạnh tu của Bồ tát Ngũ địa (Nan Thắng
Địa). Khi mãn Thập địa, Bồ tát phải tu Thập thiền định để cho
thiền định của mình tự tại vô ngại, diệu dụng trùm khắp tất cả
pháp giới làm lợi lạc chúng sanh vô quái ngại.
-
Như vậy, Kinh Hoa
Nghiêm trình bày cho chúng ta thấy Thiền định của chư Phật, Bồ
tát có diệu dụng vô biên trên tinh thần Thiền trí không hai. Ở
các bậc thánh thế gian và Nhị Thừa còn có nhập – trụ – xuất. Cho
nên, không được tự tại. Chư Phật thì thường an trú trong Trí
định, Bồ tát hằng trụ trong Tánh định, nên việc làm vô ngại. Con
đường thiền định không hai nẻo. Như chúng ta thấy Đức thích Ca
Mâu Ni cũng phải trải qua từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ
thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ định, Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định, Diệt thọ tưởng định mới vào đại
thiền định của Chư Phật làm lợi lạc chúng sanh. Điểm khác biệt
của Ngài và thường nhơn là không an trú và chấp thủ Thiền định.
Cho nên, thẳng tiến trên con đường thiền định không ngừng lại.
Nếu sau khi chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và Diệt tận
định. Ngài thỏa mãn với thiền định mình sở đắc, không tu tập
thêm sáu năm khổ hạnh thì không thể có 49 ngày thiền định dưới
cội bồ đề và nếu sau khi thành đạo dưới cội bồ đề Ngài nhập Niết
bàn không Chuyển pháp luân hóa độ chúng sanh thì ai gọi Ngài là
Phật hay Thế Tôn ? Mà có chăng thế gian sẽ thêm một vị Độc Giác
Phật ra đời. Không vào đời hóa độ thì làm sao hiện thực được Trí
định và Tánh định đạt đến Thiền trí không hai, diệu dụng trùm
khắp pháp giới. Hoa Nghiêm kinh tuy chỉ rõ Thiền giáo, nhưng đây
chính là Tối thượng thừa thiền hay Niết bàn Diệu Tâm. Chư Phật
tuy chứng giải thoát Niết bàn nhưng không lìa pháp giới chúng
sanh tế độ quần mê, trang nghiêm Phật độ, vào thế độ đời mà Trí
định hàm tàng nhiếp khắp tất cả chúng. Như vậy, thiền định trong
kinh Hoa Nghiêm trình bày là thiền định của chư Phật và Đại Bồ
tát chứ không phải là Thiền định của thế gian hay Thanh Văn,
Duyên Giác. Đây là thiền trong cuộc sống nhật dụng thường hằng
chứ không phải kéo chân ngồi lại hành thiền định trong am cốc
hay núi rừng hoặc vào thiền viện hành đạo. Đây là pháp hành mà
tất cả sứ giả của Như Lai hay người Hoằng pháp độ sanh phải có
trong cuộc sống tu hành và giáo hóa nhân sanh.
--o0o--
|
|