|
BỒ TÁT HẠNH
- Ý Nghĩa
- Vía Phật -
Bồ Tát Trong Năm
- ---o0o---
-
ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
-
Thích Hữu Thiện
-
--o0o--
-
-
I. DẪN NHẬP
-
Nói đến Phật A Di Đà,
là người ta nghĩ ngay đến một vị Phật của đại chúng, công đức
hoá độ khắp các quốc gia trên khắp thế giới. Mọi thành phần xã
hội từ thấp đến cao, không phân biệt giới tính, màu da sắc tộc,
ai cũng có thể niệm đến danh hiệu ngài từ một đến mười niệm;
hoặc niệm liên tiếp từ một đến bảy ngày, tâm được chuyên nhất
thanh tịnh, chỉ trong giây phút niệm cũng cảm ứng được sự mầu
nhiệm từ tự tâm phát khởi thánh thiện. Mọi nguyện vọng chính
đáng đều được đáp ứng.
-
Do đó danh hiệu ngài
như một bài Kinh được truyền tụng phổ thông. Kể cả thuyền tông
giáo ngoại chủ trương tự lực, mỗi thời đại vẫn có một số thiền
sinh niệm danh hiệu ngài để được minh tâm Kiến tánh.
-
Lưu ý, cầu nguyện
không niệm Phật nhất tâm không hiệu quả. Vì đạo phật là đạo giác
ngộ chứ không phải một tôn giáo quyền năng. Đức phật được xem
như một vị đạo sư gương mẫu đáng tôn kính cho đệ tử noi theo hơn
là ban phát ơn phước cho những kẻ cầu xin thiếu phần tự lực.
-
II. NỘI DUNG
-
1. Tiểu sử:
Theo kinh Bi Hoa, thuở xa xưa vào một đại kiếp gọi là Thiện Trì,
cõi nước Tản đề Lam, có một vị chuyển luân Thánh Vương là vô
Tránh Niệm, thống trị bốn châu thiên hạ: Một là Đông Thắng Thần
Châu, hai là Nam Thiện Bộ Châu, ba là Tây Ngưu hoá Châu, bốn là
Bắc cưu lô Châu. Theo cách nói nay, bốn châu này gồm các nước
trên mặt đất, tức là tất cả địa lý nhân sinh trên thế giới (?)
-
Bắt đầu từ chữ Phạn
La tinh hoá Cakra-Var-Tira. Vị chuyển luân Thánh Vương có 32
tướng tốt như Phật, dùng pháp hiền thiện minh triết giáo hoá
thống trị quốc dân. Người hành Thập thiện được khen thưởng quí
trọng, người hành Thập ác bị trừng phạt bằng tiếng sét như sấm
trời xẹt lửa loại người ấy ra khỏi cộng đồng sự sống. Đến khi
nhiều người sống thập ác, vị chuyển luân thánh vương ấy và triều
thần quyến thuộc không xuất hiện nữa, vì ngài không nỡ diệt hết
bọn xấu, để cho quy luật nhân quả đủ cơ duyên vận hành dạy cho
chúng kinh nghiệm. “Bài học kinh nghiệm bao giờ cũng đánh trước
dạy sau!”
-
Theo luận Câu Xá
quyển 12, thời vua chuyển luân thánh vương xuất hiện tuổi thọ
nhân loại cao đến tám vạn tuổi, môi trường sinh thái tinh khiết,
đất đai mầu mở, cây cỏ xinh tươi, vật chất sung mãn. Vị vương
này chuyển luân ứng phó nên gọi chuyển luân vương. Có bốn loại
chuyển luân vương là Kim, ngân, đồng, thiết. Theo thứ tự đó các
vị vương ấy lần lượt cai quản bốn Châu thiên hạ.
-
Khế kinh ghi: Vua
sinh vào dòng Sát đế lợi ( giai cấp quyền quý của Ấn Độ xưa),
đến tuổi trưởng thành nối ngôi soái đỉnh, sau 15 ngày tắm gội
sạch sẽ nghiêm tịnh khiêm cung cử hành đại lễ, thụ đủ các loại
giới luật của Đại Phạm Thiên Vương, rồi bay lên đài cao, thần
liêu phụ tá. Phía đông tức thì Kim luân bảo xuất hiện hai ngàn
luân xa, vành trục mọi thứ đều toả ánh hào quang lóng lánh chiếu
dọi đến vương sở; vị ấy chắc chắn là Kim chuyển luân Vương.
-
Theo Chuyển luân
Thánh Vương tu hành kinh, Trường A Hàm quyển sáu, chuyển luân
Vương có bảy báu: 1. Kim luân bảo; 2. Bạch tượng bảo; 3. Cam mã
bảo; 4. Thần châu bảo; 5. Ngọc nữ bảo; 6. Cư sĩ bảo; 7. Chư binh
bảo và Ngài có một ngàn người con thông sáng hùng dũng!
-
Bảo thứ sáu, Kinh
Niết Bàn gọi là Chủ tàng thần bảo, Kinh Tạp thí dụ gọi là: Điển
Tài Bảo. Bảo vật dùng để trấn quốc, gọi Chung Thất bảo. Vua chúa
xưa có nhiều vợ thì có nhiều con. Ngày nay ở thành phố Hồ Chí
Minh cô Tiểu Hương ở dưới đáy xã hội vươn lên cao sống độc thân
có hơn một nghìn người con nuôi được cô cho đào tạo trí thức,
đạo đức, tài nghề từ tiểu học đến đại học sống tốt với xã hội.
-
Vua Vô Tránh Niệm cai
quản Bốn Châu Thiên hạ là vị Chuyển luân thánh Vương địa vị
thống soái đĩnh cao nhất thời bấy giờ. Trong triều đình của vua
có quan đại thần Bảo Hải, dòng Phạm Chí rất tinh thông Thiên văn
học, mến mộ Phật giáo ( Bảo Hải là tiền thân Phật Thích Ca) ông
có người con trai tướng hảo thông tuệ, khi mới đản sinh được các
nhà tôn quí kính tặng nhiều châu báu nên đặt tên là Bảo Tạng.
-
Bảo Tạng nhận thấy
thân tâm thế giới vô thường khổ, nên xin với cha mẹ xuất gia tu
Phật. Cha mẹ thương mến không nở xa lìa, nhưng thấy con kiên
quyết quá đến quên ăn bỏ ngủ, rồi cũng chiều ý con. Thế là vị
đại công tử hưởng thụ cao lương mỹ vị xa hoa trở thành Sa Môn
Khất sĩ đầu trần chân đất xin giáo pháp Phật nuôi tâm, xin cơm
bá tánh nuôi thân, tam y nhất bát, mỗi ngày độ ngọ một lần, đêm
ngủ một giấc, dùng trí bát nhã ba la mật giãi trừ ác kiến, tự
phá ma tâm, thiền định kiên cố. Tu tập tinh chuyên không bao
lâu sau tu sĩ Bảo Tạng chứng quả vô thượng chánh đẳng giác thành
Phật hiệu Bảo Tạng Như Lai.
-
Đức Phật Bảo Tạng đến
nhiều nơi đô hội trong nước hoằng khai đạo tràng giảng dạy Kinh
Pháp, người đến nghe quy ngưỡng rất đông. Người nhàm chán sinh
tử xin xuất gia, tu hạnh Thinh văn, Phật thuyết Trung đạo Tứ đế;
Người thích hạnh độc cư nghiên cứu tu quả Duyên giác Bích chi
Phật siêu thoát sinh tử, ngài thuyết Thập Nhị Nhân duyên; người
tích cực nhập thế giúp đời ngài thuyết Bồ tát Lục độ vạn hạnh,
người cầu thành Phật, thượng báo Tứ đại trọng ân hạ tế tam đồ
khổ, ngài thuyết Nhất thừa Phật đạo; Người muốn vượt Giáo môn
minh tâm Kiến tánh thành Phật, ngài chỉ thẳng chân như tự tính.
Hạng người nào đến thính pháp qui y cũng đều được tăng tiến phúc
huệ.
-
Danh thơm tiếng tốt
của Phật Bảo Tạng đến tai Vua Vô Tránh Niệm, Vua cũng thỉnh Phật
và chư tăng vào vương cung cúng dường y phục, phẩm thực, y dược
toạ cụ trong ba tháng hạ chu đáo. Lúc bấy giờ quan đại thần Bảo
Hải, giống như vua Tịnh Phạn sau khi nghe pháp chứng thánh quả
Tu đà hoàn trở thành cư sĩ Bồ Tát, nhân một buổi thiết triều bàn
luận quốc sự xong, hành lễ tâu với vua Vô Tránh Niệm: “-Bệ hạ
cúng dường cầu quả phúc nhân thiên mỹ mãn cũng chỉ ở trong tướng
vô thường biến đổi như gió thoảng mây tan. Do túc nghiệp tu phúc
huệ hữu lậu đời trước nay được quả vị tôn quí không ai sánh kịp,
thuận tiện giúp đời khôn sáng, cơm no, áo ấm; nhưng chiều sâu
tâm lý bệ hạ và thần dân vẫn bất an vì sanh lão bịnh tử khổ. Chi
bằng phát tâm bồ đề, hành Bồ tát đạo Kiến tạo nước Phật thì hạnh
phúc cho toàn dân biết mấy!
-
Vua vô Tránh Niệm
nghe qua đẹp ý, thu xếp việc triều chánh, xa giá đơn giản, quan
đại thần Bảo Hải cởi ngựa tháp tùng đến vườn Diêm phù đàn cận
thành vua cúng dường Phật tăng thính pháp. Đến nơi thấy Bảo Tạng
Như Lai nhập định phóng quang sáng suốt, soi rõ mười phương thế
giới Tịnh Độ của chư phật cho chúng hội Chiêm bái. Vua Vô Tránh
Niệm cũng nhập chúng, xét thấy nhân dân của mình sắc thân không
ngời sáng như dân Phật, trí tuệ cũng kém hơn, quốc độ đền đài
cung điện thô thiển bằng cây đá chạm trổ, trong khi đó cung điện
xứ Phật làm bằng bảy báu lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san
hô, hổ phách v.v... Đặt biệt không có cõi Phật nào có dân nghèo
khó, bệnh viện, nghĩa trang!
-
Chiều đến quan đại
thần Bảo Hải từ tạ Vua về dinh thự riêng, vua hồi cung suốt đêm
không ngủ hồi tưởng tư duy, suy xét rút tinh tuý các nước Phật
làm thành đại nguyện xây dựng nước Phật cho mình. Sáng sớm Vua
đến lễ bái Phật Bảo Tạng xin chứng minh đại nguyện Bồ đề, dù
trăm ngàn kiếp khổ khó thực hiện quyết không thối chí như sau:
-
- “Bạch đức thế tôn!
Nguyện khi tôi thành Phật, đặng một thế giới đủ sự vui đẹp, hình
dáng nhân dân trong cõi ấy toàn sắc vàng, không có những đường
địa ngục, ngã quỉ, súc sanh xen ở. Hết thảy chúng sanh cõi ấy
hiền thiện tu tiến không thối đoạ vào ba đường dữù, người nào
cũng có sáu phép thần thông, căn thân tốt đẹp.
-
- Tôi nguyện tất cả
chúng sanh được về cõi ấy đều hảo tướng nam tử, không thọ báo nữ
thân. Hết thảy chúng sanh được sanh vào đó, thần thức gá vào hoa
sen báu, hoa nở căn thân xinh tốt thọ mạng lâu dài.
-
- Tôi nguyện cõi ấy,
cảnh vật xinh tươi thanh tịnh trang nghiêm thường có hoa tốt,
hương thơm thoảng bay lan toả các hướng.
-
- Tôi nguyện chúng
sanh trong cõi ấy, vị nào cũng có ba hai tướng tốt, sáu phép
thần thông, trong một giây phút dạo khắp các cõi Phật mười
phương cúng dường Phật nghe pháp rồi trở về không trễ bữa ăn
trưa.
-
- Tôi nguyện nhân dân
trong cỏi ấy đều được thọ dụng như ý, đúng giờ thọ thực, có đủ
các món ngon vật lạ hiện ra trước mặt, y phục tinh tươm hiện đến
bên mình, không cần sắm sửa như cõi nhân gian bận bịu.
-
- Tôi nguyện cầu cõi
Phật được như thế, để đời đời kiếp kiếp vị lai thường tu Bồ tát
hạnh lợi ích chúng sinh, làm phật sự hy hữu tạo thành cõi Tịnh
Độ. Đến khi chứng đạo, thân ngồi nơi cội cây bồ đề, tâm toả sáng
thành quả chánh giác, phóng hào quang đến tận cùng mười phương
pháp giới, chư Phật xem thấy khen ngợi danh hiệu tôi.
-
- Tôi nguyện sau khi
thành Phật, các loài chúng sanh ở thế giới khác, đã có tu tập
thiện căn ( tín, tấn, niệm, định, tuệ) muốn sanh về cõi nước
tôi, khi lâm chung, tôi và thánh chúng hiện thân đến trước người
ấy tiếp dẫn về Tịnh dộ.
-
- Tôi nguyện khi tôi
nhập Niết Bàn đến vô số kiếp mai sau, nữ nhân trong thế giới
mười phương nghe đến danh hiệu tôi, phát bồ đề tâm chăm chỉ tu
niệm đến khi thành phật, luôn cảm quả thân đại trượng phu chứ
không mang thân người nữ nữa.
-
Bạch đức thế tôn, tôi
nguyện được cõi phật chúng sanh thanh tịnh trang nghiêm viên mãn
mới thành Phật.
-
Đức Bảo Tạng Như Lai
và đại chúng lắng nghe vua Vô Tránh Niệm phát đại nguyện xong
hoan hỉ thọ ký:
-
- “Lành thay đại
vương, ông hãy nhìn qua phương tây, cách nơi đây muôn ngàn trăm
ức cõi Phật có một thế giới là Thiện vô cấu thanh tịnh hoàn hảo,
giáo chủ cõi ấy hiệu Tôn ÂmVương Như lai hiện đang thuyết pháp.
Vị Phật nối pháp đời thứ hai là Bất Khả Tư Nghị công Đức Như
lai, đổi hiệu thế giới ấy thành An Dưỡng quốc và Kiến thiết Cực
lạc thế giới; Vị Phật ấy là thân sau của ông đấy! –Thời gian còn
dài, nay tôi đặt pháp danh cho ông là vô lượng Thanh Tịnh. Vua
vô Tránh Niệm nghe qua rất mừng, tâm lành phát khởi trí tuệ vô
nhiễm vi diệu, Phật Bảo Tạng mỉm cười cất tiếng phạm âm: “Thiện
lai Tỷ Khưu!” tức thì vua Vô Tránh Niệm râu tóc rụng hết, áo
hoàng bào đổi thành manh áo vá nhiều mảnh của một nhà sư đầu
trần chân đất tinh tiến tu học.
-
- Kinh vô Lượng Thọ,
quyển thượng ghi rằng: “Lúc bấy giờ có vị đế vương cung kính
nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, tâm đắc, phát tâm bồ đề
vô thượng, xả bỏ quốc thành, thê tử quyến thuộc, xuất gia thực
hành hạnh Sa môn hiệu là Pháp Tạng. Ngài có tài đức cao siêu mà
rất khiêm tốn đến dưới pháp toà của Phật đãnh lễ, đi nhiễu ba
vòng quỳ xuống chấp tay nói kệ khen ngợi:
-
Dung nhan Phật cao
vời
-
Oai đức lớn cùng cực
-
Chiếu sáng thật rực
rở
-
Soi đến chổ tối tăm
-
Giãi trừ các phiền
não
-
Cho chúng sanh an
lành.
-
(...)
-
Tỳ kheo Pháp Tạng nói
bài tụng xong liền bạch Phật: -Kính lạy đức Thế Tôn, nguyện thế
tôn vì con diễn nói pháp vô thượng chánh giác, để con tu hành
gìn giữ cõi Phật nhiệm mầu trang nghiêm, sớm thành tựu quả chánh
giác giáo hoá chúng sanh thoát khỏi mê lầm đau khổ trong sinh
tử.
-
Phật Thế tự tại vương
biết được ý chí cao siêu, tín nguyện sâu chắc của Tỳ Kheo Pháp
Tạng nên thuyết giảng: “Nếu có người tinh tấn chí tâm cầu đạo
không dừng sẽ được kết quả. Rồi ngài nói rõ 210 ức quốc độ của
chư Phật, từ thô sơ đến vi diệu, việc lành dữ của nhân thiên. Do
thần lực của Phật tác động các cỏi Phật mười phương cũng hiển
hiện trước pháp nhãn của Tỳ Kheo Pháp Tạng. Ngài biết được phải
làm thế nào cho tâm thanh tịnh để nghiêm tịnh quốc độ, rồi thực
hành tư duy, Thiền định cho phát sanh trí tuệ; thực hiện nghiêm
túc, trải qua năm kiếp tinh chuyên cần mẫn, Phật Thế Tự Tại
Vương thấy Tỳ Kheo Pháp Tạng đã viên mãn hạnh trang nghiêm Phật
độ nên bảo: “Thật đúng thời, ông nên vì tất cả đại chúng, rút
tinh tuý 210 ức cõi Phật lập thành nguyện lớn tuyên thuyết để
các vị Bồ Tát ấy tu hành theo cho đúng pháp.
-
Tỳ kheo Pháp Tạng
bạch Phật: “Cúi mong đức Thế Tôn từ mẫn chứng minh 48 điều
nguyện lớn của con sau đây:
-
1. Nguyện khi tôi
thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác.
-
(....)
-
Tỳ kheo Pháp Tạng
thuyết xong 48 điều đại nguyện, cõi đất sáu thứ chấn động. Trời
rưới mưa hoa trỗi nhạc vui mừng khen ngợi. Trong hư không tiếng
chư Phật như hải triều âm vang vọng: “ Tỳ kheo Pháp Tạng quyết
thành tựu quả vô thượng chánh giác”. Từ đó về sau số kiếp nhiều
không thể nghĩ bàn, Tỳ kheo Pháp tạng thực hành đầy đủ đại
nguyện lực ấy, Kiến tạo xong Thế giới cực lạc, thành Phật hiệu A
Di Đà.
-
Có đôi điều khác biệt
giữa hai Kinh. Kinh Bi Hoa nói Bảo Tạng Như Lai, (là vị Phật nắm
giữ tạng pháp quí báu dùng hoá độ nhân thiên.) Kinh vô Lượng Thọ
nói đức Thế Tự Tại Vương Như Lai (là vị Phật nắm giữ tạng pháp
tự tại giữa thế gian hoá độ nhân thiên.) Phật hiệu hai đức Như
Lai khác, ý nghĩa không khác. Phật nào cũng có đủ 10 danh hiệu:
Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế
gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư,
Phật thế tôn.
-
Kinh Bi Hoa nói Vua
Vô Tránh Niệm phát nguyện lớn, được đức Phật Bảo Tạng Thọ ký sẽ
thành Phật A Di Đà và đặt pháp danh ngay thời điểm ấy là Vô
Lượng Thanh Tịnh. Kinh vô lượng Thọ nói, thuở ấy có vị quốc
vương xuất gia hiệu là tỳ kheo Pháp Tạng, phát 48 điều đại
nguyện được đức Phật Thế tự tại vương thọ ký cho sẽ thành Phật A
Di Đà giáo chủ cực lạc thế giới ở phương tây. Tạng pháp của Phật
hàm chứa vô lượng thanh tịnh người sử dụng sẽ vô tranh, được vô
tránh tam muội (chánh định). Tiền thân đức Phật A Di Đà có quá
nhiều kiếp là quốc vương xuất gia làm Bồ Tát Tăng, nghiêm tịnh
quốc độ thì mỗi đời quy y với mỗi vị Phật khác, được pháp danh
khác, nhưng đặc biệt ý nghĩa nghiêm tịnh vẫn y như mãi mãi thì
người mới nhận ra tâm lý của một vị Bồ Tát tu chứng chuyển thân,
tuy danh tướng có khác, nhưng nguyện vương không dời đổi.
-
Đối chiếu đại nguyện
của vua vô Tránh Niệm và 48 đại nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng,
lời văn có đồng dị nhưng ý nghĩa vẫn một. Đại nguyện của vua Vô
Tránh Niệm như bản văn cô động 48 điều đại nguyện của Tỳ Kheo
Pháp Tạng.- Trái lại 48 điều đại nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng
như khai triển đại nguyện của vua Vô Tránh Niệm.
-
Vua Vô Tránh Niệm (Bồ
Tát vô lượng Thanh Tịnh), Tỳ Kheo Pháp Tạng là hai hay một tiền
thân Phật A Di Đà, cũng không cần phải đào sâu tìm biện chứng,
bởi trí Phật không vướng bận danh tướng, chỉ nhấn mạnh chỗ giác
ngộ duyên sanh vô ngã nhìn ra thực tướng, là đệ tử Phật cần thực
hành Phật trí vô ngã, vô ngại, toả sáng.
-
- Vì Kinh sách Tịnh
Độ không ghi rõ ngày đản sinh, xuất gia thành đạo của Phật A Di
Đà, nên người tu Tịnh Độ chọn ngày sinh của Vĩnh Minh Thọ Thiền
Sư là ngày 17 tháng 11 âl cữ hành lễ vía, nhớ lại đức Phật A Di
Đà. Vĩnh Minh Thọ Thiền Sư được xem như là hoá thân của Phật A
Di Đà, qua câu nói của Hoà thượng Hành Tu giải đáp câu hỏi của
Ngô Việt Vương. Ngài Vĩnh Minh Thọ thiền sư cũng được tôn là tổ
thứ sáu, của Tông Tịnh Độ, Trung Hoa. Theo sách Đường về cực
Lạc:- Ngài sinh vào đời Tống, người Tiền Đường, họ Vương tự Xung
Huyền. Thuở thiếu niên thường trì tụng Kinh Pháp Hoa, cảm bầy dê
quì mọp nghe Kinh.
-
Trưởng thành làm quan
coi về thuế vụ cho Văn Mục Vương, nhiều lần lấy tiền công đến
Tây Hồ mua cá trạnh phóng sanh. Bị phát giác hình quan thẩm định
án tử. Khi áp giải ra pháp trường sắc mặt vẫn bình thản, vì tin
rằng do công đức phóng sinh hồi hướng sẽ được sinh Tịnh độ. Văn
Mục Vương cảm động tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương cho phép,
ngài đến Tứ Minh thọ pháp với Tuý Nham Thiền Sư. Sau tham học
với Thiền Quốc sư tỏ ngộ chân tánh được ấn khả. Ngài tụng Pháp
Hoa Sám, thấy Bồ Tát Quan Thế Âm rưới nước cam lồ vào miệng,
được biện tài vô ngại. Ngài tu Thiền nhưng rất mến mộ Tịnh, một
hôm đến thiền viện của Trí giả đại sư làm hai lá thăm: Một đề
Nhứt tâm thiền định, một đề Trang nghiêm Tịnh độ. Sau 7 lần rút
thăm đều rút nhằm lá thăm Trang Nghiêm Tịnh độ. Từ đó ngài tận
lực tu niệm hoằng hoá pháp môn Tịnh độ.
-
Năm long Kiến thứ
hai, Trung ý vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu
Trí giác Thiền Sư, ngài trụ ở đây 15 năm, độ được 1700 vị tăng
và cư sĩ qui hướng Tịnh độ rất nhiều. Ngài trứ tác tập Vạn Thiện
đồng quy, chủ ý khuyến tu các pháp lành qui hướng về Tịnh độ,
lời văn thiết yếu như sau: “Sanh về duy tâm Tịnh Độ là phần của
bậc liễu đạt tự tâm (...).Người quán trí cạn, tâm tưởng thô,
trần cảnh mạnh, tập khí nặng, cần phải sanh Tịnh độ, để được nơi
duyên thù thắng, nhẫn lực mới dễ thành, mau viên mãn Bồ Tát Đạo”
– Năm Khải Bửu thứ 8, ngày 26 tháng 02, sáng sớm thức dậy, ngài
lễ Phật xong, gọi đại chúng lại răn dạy, dặn dò, rồi ngồi Kiết
già thẳng lưng thị tịch, thọ 72 tuổi.
-
2. Danh hiệu và hình
tượng biểu trưng
-
-
Danh hiệu
Phật A Di Đà:
-
Bắt đầu từ tiếng Phạn
Brahama, ở Ấn Độ, nguyên âm đọc là Amita; La tinh hoá là
Amitabha. Từ điển Phật học Hán Việt, dịch là Vô lượng thọ, cộng
với 12 danh hiệu trong Kinh Vô Lương Thọ và giải đến 13 danh
hiệu: Vô lượng quang Phật, Vô biên quang Phật, Vô đối quang Phật
v.v... nói lên những đặc tướng của Phật tính. Kinh A Di Đà yếu
giải Sa môn Trí Húc dịch là Vô lượng Thọ, vô lượng quang; dung
hội lại có 3 nghĩa: Vô lượng Thọ, vô lượng quang, vô lượng công
đức.
-
Vô lượng quang, là
hào quang thanh tịnh của Phật A Di Đà toả sáng tận cùng mười
phương pháp giới như ánh sáng mặt trời soi rọi bóng đêm. Có
người thấy được người không. Người thấy được do niệm danh hiệu
Phật ý thức Thanh tịnh như hoa sen vượt khỏi mặt nước tham dục
tự tâm sáng tõ; người không thấy được là vì bóng tối vô minh che
phủ như mặt trời bị mây áng, hoặc tâm xoay vòng theo ngũ dục
như trái đất xoay vòng lẩn khuất nên có tối, có sáng khi ẩn, khi
hiện.
-
Vô Lượng Thọ, là thọ
mạng của Phật A Di Đàvà nhân dân của ngài vô cùng lâu xa. Ngài
thành đạo trước Phật Thích Ca rất lâu mà hiện tại vẫn còn đang
thuyết pháp và tiếp dẫn người hữu duyên. Ở cõi này thân ngũ uẩn
sống trong môi trường ô nhiễm dễ hư hoại, phúc đức kém, người
sống đến trăm tuổi là hiếm. Thế mà các vị sư thiền định yoga
trên núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn, Ấn Độ sống đến ba, bốn trăm tuổi,
thì Cực lạc thế giới liên hoa hoá thân, môi trường tinh khiết,
thức ăn chính là thiền duyệt vi thực, thiền duyệt vi lạc trường
thọ là lẽ đương nhiên.
-
Vô Lượng công đức,
ngài có nhiều công đức không cùng tận như là trí tuệ, thần
thông, đạo lực, chánh báo ( căn thân) y báo (cảnh giới) trang
nghiêm, thuyết pháp, giáo hoá, tế độ v.v... Trước khi thành đạo,
ngài có nhiều kiếp vì chúng sanh hành Lục độ ba la mật. Có thể
nói ngày xưa trên mặt đất nầy nơi nào cũng có dấu chân hành đạo
của ngài. Đến khi kiến tạo Thế giới Cực lạc Phương Tây xong,
ngài tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới về nước Phật của
ngài định cư, sinh sống tu học thành thanh tịnh đại hải chúng
không thể nghĩ bàn. Hiện nay trên mặt địa cầu có khoảng 6 tỷ
người, Phật giáo đồ khoảng 600 triệu, trong đó số người niệm
Phật A Di Đà hành thiện, bố thí giúp đời hơn 300 triệu người.
Các ngành công an, an ninh trật tự, giáo dục... canh chừng giáo
hoá tội phạm của các quốc gia có Phật giáo đồ Tu tịnh được lợi
ích vơi bớt đi gánh nặng không phải là nhỏ !
-
-
Hình tượng
biểu trưng:
-
Trong Phật giáo, nơi
chánh điện chùa Thiền Tông và các tông phái khác thường thờ đức
bổn Sư Thích ca ngự chánh giữa, bên phải là Phật A Di Đà, bên
trái là Đại Bồ Tát Di Lặc.- Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật
A Di Đà là Phật quá khứ, Đại Bồ Tát Di Lặc là Phật tương lai.
Đối với người dụng tâm hành đạo giác ngộ, Phật Thích Ca tượng
trưng cho bản giác, phật Di Đà tượng trưng cho thỉ giác, Đại Bồ
Tát Di Lặc tượng trưng cho hoạt dụng từ bi trí tuệ của thỉ bản
giác từ pháp tánh Tỳ lô giá na! Thì nơi chánh điện chùa Tịnh Độ
thờ Tam Thánh Tây phương cực lạc. Chính giữa là tượng Phật A Di
Đà đứng trên toà sen, tượng Bồ Tát Đại Thế Chí đứng trên toà sen
bên phải, tượng Bồ Tát Quan Thế Âm đứng trên toà sen bên trái.
Hai vị đại sĩ này thường phụ trợ Phật A Di Đà giáo hoá, tiếp dẫn
chúng sanh. Toàn thân Tây phương tam thánh đều rực rỡ toả ánh
hào quang như sắc vàng Diêm phù đàn. Đức Phật A Di Đà cao 1
trượng sáu, trên đảnh có tướng nhục kế đỏ tươi như sen hồng biểu
thị cho trí tuệ tuyệt vời sáng suốt. Tướng bạch hào sáng trắng
như ngọc uyển chuyển xoay về bên hữu phóng hào quang. Đôi mắt
Phật sáng ngời như nước biển long lanh, tay trái ngài nâng hoa
sen, tay phải duổi xuống tiếp dẫn.- Bồ Tát Đại Thế Chí đầu đội
thiên quang có 500 bảo hoa, mỗi bảo hoa có 500 bảo đài. Trong
mỗi bảo đài hiện rõ tướng quốc độ tịnh diệu của chư Phật. Nhục
kế nơi đỉnh đầu ngài hình hoa bát đầu ma. Trên nhục Kế có một
bình bảo tượng đựng các thứ quang minh hiện thân khắp mười
phương giúp người niệm Phật thu thúc sáu căn đi vào địa vị bất
thối chuyển. Tay trái của Bồ Tát đưa lên ngang ngực hình nửa hoa
sen búp, lòng bàn tay hướng về phía trước như sẳn sàng chào đón
chúng sanh tu tịnh, tay phải hình nửa hoa sen búp lật ngửa trân
trọng những ai tìm đến cõi Phật.- Bồ Tát Quán Thế Âm đầu đội
thiên quang bằng chất báu Tỳ Lăng già Mâu Ni, nơi thiên quang có
một vị Phật ngồi nhập định. Tay trái Bồ Tát cầm tịnh bình trút
xuống cõi đời nóng bức, tay phải hình nửa hoa sen búp đưa lên
ngang ngực; tai lắng nghe, xem xét tiếng kêu đau thương của
chúng sanh cứu giúp.
-
Đối với hành giả dụng
tâm hành đạo, Bồ Tát Đại Thế Chí tượng trưng cho ý chí dũng
mãnh, bồ đề tâm kiên cố niệm Phật thu thúc 6 căn. Đức Phật A Di
Đà tượng trưng cho tâm thanh tịnh toả sáng. Bồ tát Quán Thế Âm
tượng trưng cho hoạt dụng của tâm thanh tịnh trí tuệ từ bi.
-
Xuất xứ tượng Tây
phương Tam thánh từ pháp quán thứ 13, Phật Bồ Tát của Quán Kinh.
-
Cũng có nơi thờ tượng
đức A Di Đà Phật đứng lơ lững giữa hư không, phía dưới là biển
cả sóng dậy chập chùng, mắt ngài nhìn xuống, tay trái Kiết ấn,
tay phải duỗi xuống tiếp dẫn. Gọi là tượng Di Đà phóng quang.
Căn cứ vào ý nghĩa tượng trưng nầy bậc Cổ Đức làm kệ khuyến tu:
-
“Sông ái sóng cao
ngàn thước
-
Bể khổ dậy muôn trùng
-
Muốn thoát luân hồi
khổ
-
Phải gấp niệm A Di
Đà!”
-
- Phật, Bồ Tát ngự
trên hoa sen tượng trưng cho tâm vô nhiễm, tác pháp thanh tịnh
lợi ích chúng sanh, như hoa sen “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn.” - Nhưng hoa sen trên đời này phải chịu quy luật vô thường
sinh diệt, dù tươi đẹp, có hương thơm cũng phải tàn héo. “Hoa nở
để rồi tàn, trăng tròn để rồi khuyết, người hợp để mà tan.” Hoa
sen ở thế giới cực lạc là tinh tuý của bảy báu: Vàng, ngọc, lưu
ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não... lưu xuất từ tánh chân
như diệu dụng. Cho nên nói hoa sen trong cỏi hồng trần cũng chỉ
mang ý nghĩa biểu trưng mà thôi!
-
3. Niệm Phật hiệu quả
hiện tiền
-
Ảo và thật là hai vấn
đề khó phân tách. Giống như Trang Chu mộng thấy mình hoá bướm,
thức dậy không biết ông là bướm hay bướm là ông. Nhưng nếu chịu
sưu tầm nghiên cứu, tư duy có biện chứng thì người ta có thể
thuyết minh được. Pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu sinh cực lạc
thế giới có ba thành phần: -Tịnh độ truyền thống, Tịnh độ nhân
gian, Tịnh độ tâm. Tịnh độ nào vừa dẫn cũng lấy tâm làm chủ. Nơi
đây vấn đề hiện thực liên quan đến Tịnh độ nhân gian. Trong Tịnh
độ nhân gian có hai yếu tố: Thứ nhất, bậc đại thiện trí thức rao
giảng, kêu gọi những người tu tịnh nhóm họp định cư lại thành
một tập thể xã hội. Nơi ấy Tam quy ngũ giới được duy trì nghiêm
túc, nhất quán, không có phần tử nhiễm ô bất tịnh; tức không có
ba đường dữ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là tham sân si mạn
nghi; ngũ trược giảm thiểu tối đa, ác thế không có. -Kế đến là
người tu tịnh độ niệm Phật nhất tâm định tỉnh ứng xử, đối phó
hằng ngày với sinh hoạt rối ren, biến động có hiệu quả tốt.
-
Ví dụ, một học sinh
học bài lâu thuộc, em liền cầu đức Phật A Di Đà gia hộ, rồi cung
kính niệm danh hiệu ngài liên tiếp trong mười phút, sau đó em
học thuộc bài nhanh chóng. -Một thương gia sắp sạt nghiệp vì
thua lỗ, lo sợ buồn rầu, thay vì dùng gian kế cũng cố sự nghiệp,
ông cầu Phật gia hộ rồi niệm danh Phật A Di Đà liên tiếp ngày
đêm đến khi tâm ổn định ông giải quyết vấn đề ổn thoả, hợp lý
đạo và pháp luật qua kiểm soát của trọng tài kinh tế, tuy có
nghèo hơn trước rồi từ từ khắm khá. -Một ông bác sĩ phục dược
sai lầm bệnh nhân chết ngay trong phòng điều trị; hoảng hốt, lo
toan, nhưng ông dám chịu trách nhiệm, không nhờ một luật sư nguỵ
biện trước toà, vị bác sĩ này cầu Phật A Di Đà gia hộ cho tai
qua nạn khỏi rồi niệm danh hiệu Phật liên tiếp cho đến khi tâm
an ổn nhẹ nhàng. Ít ngày sau, thân nhân người bệnh chết nộp đơn
xin bãi nại. Ta có thể giải thích em học sinh tâm phân tán không
thuộc bài, niệm phật tâm tập trung học bài mau thuộc? Ông thương
gia niệm Phật tâm định tỉnh sáng suốt giải quyết việc thương
hiệu thuận tiện? Vị bác sĩ ăn năn niệm Phật tinh chuyên, tâm
hiền hậu hiện lên nét mặt cảm hoá được người; Hay cả ba người
nầy niệm Phật được Phật gia hộ? –Điều quan trọng xin đừng quên
hiệu quả của niệm Phật nhất tâm, tâm người niệm và tâm Phật chan
hoà cảm ứng.
-
Pháp môn niệm Phật
hiệu quả hiện tiền trong Tịnh độ nhân gian còn nhiều, quí vị hãy
thực hiện niệm Phật để có kinh nghiệm phong phú.
-
4. Tâm linh diệu dụng
-
Nếu Kinh tạng Nguyên
thỉ dùng Giới - Định -Tuệ làm thể chất (cốt tuỷ), thì các Kinh
điển đại thừa đều lấy thực tướng làm thể chất. Đặc biệt trong
các Kinh Tịnh độ thực tướng được phát triển cùng cực vi diệu qua
sự mô tả cảnh giới, nhân dân và pháp tu tịnh ở cực lạc thế giới:
Đất bằng vàng, thảo mộc bằng châu, liên hoa hoá thân, ao thất
bảo, nước bát công đức... hàng xóm là thánh nhơn, bồ tát, Phật,
chư thượng thiện nhơn câu hội về một xứ an dưỡng tu học. Chim,
nước, rừng cây, tiếng gió đều phát ra tiếng pháp: Ngũ căn, ngũ
lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần và các môn chánh định
tam muội ba la mật khác.
-
Tâm người ta có ba
phần: Một là trung tâm điều phối máu luân lưu cơ thể là trái
tim. Hai là tâm vọng tưởng như khỉ vượn leo trèo khó đứng yên.
Ba là chân tâm thực tướng. Nơi người thực tướng gọi là pháp
thân, nơi cảnh vật gọi là pháp tính. Gọi chung là pháp tính
thân. Pháp tính thân chan hoà khắp nơi, khắp chốn như chân không
trong vũ trụ.
-
Thực ra, chơn vọng
tâm chỉ là một thể tánh đối với người có thâm độ công phu tịnh
niệm luyện thành một khối nhất như.
-
Theo Trí Húc Đại Sư,
viết trong quyển Phật thuyết A Di Đà kinh yếu giải, thể chất của
thực tướng chẳng phải yên lặng (tịch), chẳng phải soi sáng
(chiếu), thường soi mà vắng, thường vắng mà soi. Tịch mà chiếu,
chiếu mà tịch, nên gọi Thường tịch quang độ.
-
Suy rộng ra, trong
thực tướng có hai đức: Một đức thuộc về phần tính, “Bất tăng bất
giảm, bất cấu bất tịnh”. Một đức thuộc về phần tu, tức vừa tịch
vừa chiếu gọi pháp thân. Vừa chiếu vừa tịch gọi báo thân. Vừa
tịch vừa chiếu nội quan được thọ dụng thân. Tịch chiếu tiến dần
lên giúp đời gọi Ứng hoá thân.
-
Tam thân Phật A Di
Đà, nhân dân và cảnh giới cực lạc cũng từ chơn tâm phát sinh.
-
Trong quyển sách
Đường về cực lạc, có ghi lời dạy của Diên Thọ Đại Sư như sau:
-
“Nếu tâm niệm thanh
tịnh thời đài vàng hoa báu, hoá sanh nơi Tịnh độ. Còn tâm niệm
nhơ đục thời gò nổng hầm hố, thọ thai nơi cõi ô uế. Đây đều là
“quả đẳng luân”, cảm lấy “duyên tăng thượng”. Cho nên nhơn cùng
quả, rời ngoài tâm nguyên, không có tự thể riêng khác. Muốn đặng
quả báo thanh tịnh thời phải thực hành nhơn thanh tịnh. Như nước
thời tánh chảy xuống, lửa thời tánh bốc lên, tất nhiên như vậy!”
-
Như thế, người tu
tịnh hay tu pháp môn nào trong Phật giáo cũng phải công phu niệm
Phật, hành thiền, quán tưởng trong khuôn khổ Giới-Định-Tuệ để
ngộ chân tánh là điều trọng yếu!
-
5. Phật A Di Đà như
một tấm gương soi:
-
Xét về mặt thế gian
Sa Hoàng cải trang thành thường dân du học các nước văn minh về
xây dựng nước Nga hùng mạnh một thời. Tổng thống Lý Quang Diệu,
cha già dân tộc Singapor đã kêu gọi nhân tài nước nhà ở các nước
văn minh trên thế giới rút tinh tuý văn minh về biến đảo quốc
không quá 7 triệu dân thành một nước đoàn kết, tiên tiến, hưởng
thụ tiện nghi khoa học đỉnh cao. Bác Hồ, cha già dân tộc Việt
Nam, một thân một mình rời bến Nhà Rồng ra đi du học trên thế
giới rèn luyện tài đức trở về giúp dân thoát khỏi ách nô lệ của
Thực dân đế quốc xây dựng độc lập tự do hạnh phúc cho nước Việt
Nam. Thì về mặt xuất thế gian đức Phật A Di Đà rút tinh tuý 210
ức Thế giới Tịnh độ của chư Phật kiến tạo An dưỡng Quốc thành
Cực lạc thế giới cũng không có chi lạ.
-
Đối với toàn thể nhân
sinh thế giới ngày nay, trong đó có Phật giáo đồ Việt Nam, tiểu
sử nói về thân thế, sự nghiệp của Phật A Di Đà qua ý chí hướng
thượng, phấn đấu cùng cực phi thường như một tấm gương soi. Đã
là một vị Chuyển luân thánh vương phúc đức, trí tuệ, quyền oai
và sự huởng thụ tột đỉnh mà ngài xét đến qui luật vô thường của
kiếp sống tìm cách vươn lên, không phải cho riêng ngài mà cho
toàn thể quốc dân trong nước và chung cho tất cả chúng sinh nhàm
chán cõi đời Ngũ trược ác thế khắp mười phương thế giới.
-
Khi ngài thành tựu
quả Phật, làm giáo chủ cực lạc thế giới đứng duỗi tay tiếp dẫn
chúng sinh, thân sắc vàng ròng, hào quang tõ rạng. Người ta dễ
liên tưởng đến một vị sư được cúng dường hậu hỉ, sắc mặt hồng
hào làm Phật sự nên quên đi một vị Bồ tát tăng khổ hạnh áo thâm
vá đùm vá đụp trăm khiếp nghìn đời, chắt mót từng chút phúc tuệ
cho mình, cho đệ tử và cho tất cả chúng sanh!
-
Chí nguyện ngài cao
xa, tâm Phật thanh tịnh bao la, đạo lực thần thông quảng đại. Bi
trí thiết tha vì chúng sanh nhân loại. Ngài không bao giờ ở yên
hưởng thụ quả vị Phật, vẫn tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật hướng
về cực lạc thế giới.
-
Chúng ta, là một công
dân Phật tử yêu nước có tài đức, đủ điều kiện du học hải ngoại
phải làm sao? Lo hưởng thụ riêng mình hay lo phục vụ tổ quốc, là
một tu sĩ Phật giáo Việt Nam, chúng ta phải làm gì cho đạo pháp
dân tộc? Câu giãi đáp thông thường là tuỳ theo đạo đức, trí thức
và năng lực của mỗi người. Nhưng hãy nhìn lên, Kia! Là một tấm
gương soi lớn!
-
6. Nhận Định
-
Đức Phật A Di Đà
thành đạo trước Phật Thích Ca 10 kiếp. Thời đức Phật Thích Ca
chữ viết chưa có người phát minh! Cũng có thể thời đức Phật A Di
Đà thành đạo, có chữ viết ghi thành tiểu sử; trãi qua các cuộc
đại chấn của quả địa cầu chữ viết mất đi. Hơn nữa, ngài là một
vị Phật quá khứ lâu xa, giai đoạn tu nhơn ở cõi Ta Bà thời Vua
Chuyển luân Thánh vương, tuổi thọ loài người rất cao, như Phật
Thế Tự Tại Vương trụ thế đến 12 kiếp, giai đoạn cuối kết Phật
quả Kiến tạo Cực lạc thế giới ở phương tây (phương tây có nhiều
cõi chúng sanh và cõi Phật) cách xa quả địa cầu chúng ta 10 muôn
ức Phật độ. Mỗi Phật độ một triệu ngàn triệu thế giới tinh cầu
làm sao người viết sử nơi đây ghi nhận được!
-
Nếu người tin đức
Phật Thích Ca lịch sử truyền bá pháp tu tại Ấn Độ và thánh chúng
của ngài có thật, nên quy y Tam bảo. Trong đó, đức Phật Thích Ca
có tuyên thuyết về pháp tu Tịnh độ giới thiệu đức Phật A Di Đà,
làm sao dám lấy tâm phàm xét đến Phật trí không tin được? Vị Tỳ
kheo Bồ Tát nào muốn thành Phật cũng phải nghiêm trì giới luật
trăm đời nghìn kiếp mới thành Phật. Đã là Phật, phải nói chơn
thật ngữ, khuyên bảo chúng sanh không vọng ngữ.
-
Qua Kinh pháp lưu
truyền của Phật Bổn Sư Thích Ca, người tin có đức Phật A Di Đà,
thì cũng tin được Nhân dân và Cảnh giới cực lạc. Đọc quyển Đường
về cực lạc, Mấy điệu sen thanh, sự tu tịnh độ chứng đắc của
người xưa và người tu tịnh độ thời nay phút lâm chung xả bỏ thân
phàm biết trước ngày giờ, có hương thơm ánh sáng, biện minh cho
việc tiếp dẫn của Phật A Di Đà là thật thì pháp môn Tịnh độ càng
thêm được xác chứng.
-
III. KẾT LUẬN
-
Đức Phật A Di Đà,
nhân dân thế giới cực lạc có thật hay chỉ là huyền thoại biểu
trưng cho chơn tánh, thì pháp môn niệm Phật từ xưa đến nay cũng
đem lại nhiều lợi ích cho chúng sanh.
-
Nếu ta tin đức Phật A
Di Đà có thật, lại để cho tâm nhiễm ô bất tịnh, cũng không làm
nên tích sự gì! Nếu người tin đức Phật A Di Đà là hình tượng
biểu trưng cho chơn tánh rồi hạ thủ công phu tu niệm cho tâm vô
nhiễm tương tự Phật trí sẽ được nhiều phúc lạc và ảnh hưởng tốt
đến xã hội. Còn như bàn cãi suông có được gì ngoài hơn thua buồn
phiền nhân ngã! -Những ai tin được pháp môn Tịnh độ kết quả hữu
hiệu phát bồ đề tâm, với tín nguyện niệm Phật cho tâm an lòng
tịnh cũng không lỗi lầm gì, lại có thêm phúc trí, vì pháp môn
tịnh độ vào cửa bằng đức tin. Ai vào ra được sẽ trở nên hiền
thánh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ sanh công đức”; phải
vậy!
-
Trong khi sưu tầm tài
liệu tham khảo, chúng tôi thấy có nhiều Kinh sách nói về tiền
thân đức Phật A Di Đà, sanh ở cõi nước, thân thế, pháp hiệu, quy
y với mỗi vị Phật khác nhau như Kinh Pháp Hoa, phẩm hoá Thành Dụ
thứ 7, Kinh Đại thừa phương đẳng tổng trì, Kinh hiền kiếp, Kinh
quán Phật Tam muội, quyển thứ 9; Kinh Như huyển Tam Ma địa vô
lượng Ấn pháp môn, Kinh Nhất hướng xuất sanh Bồ Tát v.v... Để
tránh phân tâm cho người đọc tiểu sử ngài, chúng tôi chỉ sử dụng
Kinh Bi Hoa, Kinh Vô Lượng Thọ, Văn khố từ bi âm, Phật học phổ
thông, quyển nhứt; Phật thuyết A Di Đà Kinh yếu giải, Đường về
cực lạc v.v...
-
Tiểu sử ngài như một
câu chuyện cổ tích hay đẹp, nội dung nghĩa lý thâm thuý, tình
đại bi chan hoà, ánh sáng trí tuệ toả chiếu qua từng chi tiết
sáng tõ bổn nguyện (48 điều nguyện). Những ai muốn làm được như
ngài nên nghiên cứu Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật
thuyết A Di Đà Kinh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh, kinh Hoa Nghiêm phẩm
phổ hiền hạnh nguyện và Vãng sanh Tịnh độ luận của Thiên Thân Bồ
Tát...Tinh tấn tu Tịnh độ sẽ thành tựu như ý nguyện bởi lực gia
trì hộ niệm của đức A Di Đà Phật.
--o0o--
|
|