|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
AM
MÂY NGỦ
Tác giả: Nhất Hạnh
PL. 2537-1993
--o0o--
-
-
Thuyền
ghé bến Vũ Xá. Tay nải trên vai, Thị Ngọc theo mọi người lên
bến. Thuyền rời bến từ chiều ngày hôm qua; cả đêm Ngọc đã phải
ngủ ngồi trong khoang, như tất cả mọi người. Trời ban mai thật
mát, Ngọc dự tính sẽ không nghỉ dọc dường. Từ đây đến làng Hổ
Sơn đi bộ cũng gần hết cả buổi sáng. Ngọc muốn khi trời bắt đầu
nắng thì nàng đã tới được chùa Nộn Sơn trên núi Hổ để được ngồi
dưới những hàng cây im mát trước chùa, Ngọc thấy hăng hái thêm
lên. Đây không biết là lần thứ mấy Ngọc về thăm Ni Sư Hương
Tràng. Mỗi chuyến đi như vậy ít nhất là mất ba ngày. Chuyến đi
chậm lắm. Lần này nàng xin phép quan Tư đồ Văn Huệ Vương được
năm ngày vì có lễ Phật Đản.
-
Khu chợ trước bến đã họp, tuy người bán còn đông hơn người mua.
Băng qua chợ, Ngọc đi vào con đường làng. Nàng gặp nhiều người
trên con đường vào chợ. Đi hết con đường ngang qua đình làng,
nàng rẽ vào con đường lúa. Lúa vụ Chiêm xanh mơn mởn. Hương lúa
và hương buổi sáng thơm ngát. Ngọc hít một hơi dài và cảm thấy
khỏe khắn. Ngọc đã quen đường về huyện Thiên Bản nên không cần
phải dừng lại để định hướng. Nàng đi thoăn thắt. Thỉnh thoảng
nàng lại đổi tay nải sang vai khác.
-
Trong tay nải của nàng chỉ có hai thỏi mực tàu, một ngọn bút ô
long, mười bốn ngọn bút thường, năm trăm giấy và một ít bánh
trái mà nàng mua được chiều hôm qua trước khi xuống thuyền. Mực,
giấy và bút là để cho Ni Sư Hương Tràng, còn bánh trái là để
cúng chùa. Ngọc đã mua toàn bánh chay, bởi vì hôm nay là ngày
mồng năm tháng tư, ở kinh đô người ta làm bánh chay để bán nhiều
lắm. Ni Sư Hương Tràng có dặn nàng kỳ này lên thì mua cho Ni Sư
một giấy để đóng quyển cho bọn học trò nhỏ của Ni Sư. Năm trăm
giấy chắc là tạm đủ. Chiều hôm qua Ngọc ghé quán sách của Thị
Khanh ở đầu phố Trường Thi, và Khanh đã gưỉ biếu chùa Nộn Sơn số
giấy ấy, còn mực và bút thì Khanh gửi biếu riêng Ni Sư Hương
Tràng. Khanh đã có chồng, không thể bỏ nhà để cùng với Ngọc đi
thăm Ni Sư được.
-
"Hy vọng anh chàng sẽ may mắn hơn vào khóa Quý Sửu", Ngọc nói
một mình. Nàng nghĩ tới Vận, chồng của Khanh. Khanh lấy chồng từ
năm Mậu Thân, nghĩa là bốn năm về trước. Vận hồi đó đã là học
sinh đại tập. Khoa Canh Tuất, anh chàng thi hỏng. Khanh mở cửa
hàng bán bút chỉ và sách vở học trò tại phố Trường Thi, tiếp tục
nuôi chồng ăn học. Vận muốn giúp đỡ vợ nên mở lớp dạy học, thì
giờ còn lại, Vận ôn tập bài vở chờ khoa sau. Một năm sau hai
người sinh được một cô bé đặt tên là Thúy. Vợ chồng Ngọc đã đem
cháu bé về trình điện với Ni Sư Hương Tràng một lần. Từ đó, mỗi
lần về núi Hổ Sơn, Ngọc thường ghé hàng sách của Khanh để rủ
nàng, nhưng Khanh bận rộn quá, không đi với nàng được lần nào
nữa cả.
-
Ngọc nhìn xuống chiếc áo nàng đang mặc và đôi guốc nàng đang đi.
Ăn mặc thế này mà về dưới ấy thế nào cũng bị Ni Sư quở. Ni Sư đã
dặn là về chùa thì nên ăn mặc cho đơn giản. Cái áo này và đôi
guốc này dã là những vật đơn giản nhất của nàng rồi, nhưng mà về
tới đây, Ngọc mới thấy là chúng không được đơn giản như ý mình
muốn. Nàng không thể cải dạng làm một cô gái quê. Từ năm mười
hai tuổi nàng đã làm thị nữ trong cung. Hồi ở Chiêm về nàng cũng
còn ở lại trong cung để hầu hạ hoàng hậu Bảo Từ mấy tháng, sau
đó mới được ra làm gia nhân cho quan Tư đồ Văn Huệ Vương. Nàng
đã được công chúa Huyền Trân gửi gắm cho quan Tư đồ. Quan Tư đồ
Văn Huệ Vương là một người nổi tiếng về văn học. Ông là một
người vừa có kiến thức, vừa có độ lượng. Ông đã hứa với công
chúa là sẽ coi Ngọc như con ông và sẽ lo liệu việc gia thất sau
này cho Ngọc.
-
Ngày công chúa xuất gia tại cùa Vũ Ninh để thành Ni Sư Hương
Tràng, Ngọc cũng muốn đi tu để được gần gũi công chúa, nhưng
công chúa không cho. Công chúa xuất gia và thọ Bồ Tát giới vào
ngày Tết Nguyên Đán năm Kỷ Dậu, nghĩa là chỉ sau ba tháng sau
ngày từ Chiêm Thành về. Công chúa xuất gia như vậy là đã được
hơn ba năm. Suốt ba năm trời, lần nào về thăm Ni Sư Hương Tràng,
Ngọc cũng khẩn khoản xin Ni Sư cho Ngọc được xuất gia để được
sớm hôm gần gũi Ni Sư, nhưng Ni Sư đã nói với Ngọc rằng xuất gia
không phải là để được gần gũi một người khác mà là để lo việc độ
mình và độ người. Ni Sư có nói là Ni Sư chỉ khuyên Ngọc không
nên xuất gia chứ Ni Sư không hề cấm Ngọc xuất gia.
-
- Em có thể xuất gia nếu em muốn, nhưng chị sẽ không cho em ở
cùng chùa với chị. Người ta xuất gia là để phát túc siêu phương,
chứ không phải để thân cận và hầu hạ một người khác, dù đó là
người mình yêu kính nhất.
-
Ngọc tự biết mình không thuộc về hạng người thông minh nhất đời,
nhưng lâu ngày nàng cũng nhận ra được lời nói của Ni Sư là đúng.
Từ mười hai tuổi Ngọc đã được hầu hạ và thân cận công chúa và đã
quen lấy nổi vui của công chúa làm nỗi vui của mình, đã quen lấy
niềm lo của công chúa làm niềm lo của mình. Được công chúa cho
đi theo về Chiêm, Ngọc đã vui mừng hết sức. Trong khi Khanh xin
hồi hương để lấy chồng thì Ngọc lại bằng lòng ở luôn bên Chiêm,
sẵn sàng lấy chồng Chiêm để có thể được gần gũi công chúa, và
cũng là để làm cho giống công chúa. Ngọc đã lo sợ và đau khổ
theo với công chúa trong thời gian công chúa hoài thai Dayada.
Nàng đã từng xin công chúa cho nàng lên đàn hỏa một lần với công
chúa. Ngọc nhớ lần đó công chúa đã giận dữ mắng nàng. Đây là lần
đầu tiên Ngọc bị bà quở phạt nên Ngọc rất sợ hãi. Về tới Đại
Việt. Ngọc những tưởng sẽ được theo hầu công chúa suốt đời. Ai
ngờ chỉ mấy tháng sau, công chúa đi tu. Lần đầu tiên Ngọc xin
công chúa đi tu, công chúa đã bảo là không nên:
-
- Em hãy về nương náu dưới cửa quan Tư đồ Văn Huệ Vương. Chị sẽ
gửi gắm em cho quan Tư đồ. Ngài là một người có nhân đức lớn,
rồi em hãy nghĩ đến chuyện chồng con. Đừng nghĩ đến chuyện đi
tu. Không phải ai cũng đi tu được đâu.
-
Từ hôm đi thăm Thượng hoàng trên núi Yên Tử về, công chúa không
cho Ngọc gọi công chúa là "lệnh bà " nữa, và bắt Ngọc gọi bà là
chị. Ban đầu Ngọc không chịu, bởi vì nàng thấy xưng hô chị em
với công chúa rất khó, nhưng sau khi nghe công chúa kể chuyện
chú điệu Pháp Đăng và thấy thái độ cương quyết của công chúa.
Ngọc phải cúi đầu tuân lệnh. Tuy vậy nàng phải tập cả tháng mới
sử dụng được hai tiếng "chị" và "em". Không ngờ hai tiếng ấy mà
lại khó nói đến thế.
-
Lần này về chùa Nộn Sơn, Ngọc sẽ báo tin cho Ni Sư Hương Tràng
biết là đến tháng mười năm nay nàng sẽ đi lấy chồng. Quan Tư đồ
đã hứa gã nàng cho tú tài Phạm Hữu Sinh ở huyện Nam Sách tỉnh
hải Đường. Nàng đã được thấy mặt Sinh tại nhà quan Tư đồ. Sinh
đỗ tú tài khoa Mậu Thân, tuổi chưa tới ba mươi. Quan Tư đồ nói
về Ngọc rằng Phạm Hữu Sinh một người có tương lai. Ngài đã gặp
Sinh trong chuyến thăm Yên Sinh năm ngoái, Ngọc là con mồ côi
nên quan Tư đồ coi nàng như là con, ông đã nhận sính lễ của họ
Phạm vào ngày Thượng nguyên năm nay. Những lần về viếng thăm
chùa Nộn Sơn. Ngọc thường đem tin tức kinh kỳ cho Ni Sư Hương
Tràng. Tuy vậy Ni Sư chỉ muốn biết tình hình chính sự và sức
khỏe của mọi người thôi chứ không bao giờ muốn nghe những chuyện
thị phi trong triều. Biết tính của Ni Sư Hương Tràng, Ngọc không
dám đem những chuyện ấy kể cho Ni Sư nghe nữa. Nhưng mà hàng
ngày Ngọc được nghe nhiều quá; nàng có cảm tưởng là nếu không
thổ lộ được với ai thì nàng ngột ngạt đến chết mất, vì vậy mà hễ
khi nào có dịp là Ngọc ghé hàng của Khanh để tâm sự. Tánh Ngọc
thì ưa nói, mà Khanh lại là người có thể ngồi nghe hàng giờ
không biết chán, cho nên Ngọc rất ưa đến thăm Khanh.
-
Một điều mà Ngọc không hiểu được, hoặc chưa hiểu được, là từ
ngày công chúa Huyền Trân về nước, Ngọc nhận thấy bà như là trẻ
lại. Ngọc nhớ là từ ngày sứ Chiêm qua dâng lễ hỏi cho đến suốt
thời gian ở cung điện nước Chàm, tuy rằng thỉnh thoảng công chúa
có cười có nói, có vui có đùa, nhưng thực ra cuộc sống lúc nào
cũng như bị bao bọc hoặc vương vấn trong một bầu không khí
nghiêm cẩn và lo lắng. Công chúa đã được Thượng hoàng đưa đi
viếng thăm kháp nơi trên núi Yên Tử bảy hôm. Ngày lên đón bà ở
chùa Long Động, Ngọc thấy bà tươi vui như một đứa trẻ con. Công
chúa như đã tái sinh trong một kiếp khác. Ngọc Thấy như Thượng
hoàng đã hóa phép cho công chúa đầu thai lại trong một kiếp
khác. Đúng là nàng công chúa trẻ năm xưa trong cung cấm đó,
nhưng bây giờ công chúa chín chắn hơn, dịu dàng hơn và cũng độ
lượng hơn. Mỗi khi Ngọc nhắc tới vua Chế mân và Thế tử Chế Đa
Gia, công chúa không còn tỏ vẻ sầu não khóc thương nữa. Không
phải là bà muốn quên. Bà vẫn nhớ và vẫn thường nhắc đến vua Chàm
và Thế tử Chế Đa Gia, nhưng trong giọng bà, Ngọc cảm thấy có một
niềm tin, như là vua vẫn còn đó và Thế tử vẫn còn đó, ngay bên
cạnh bà.
-
Tuy vậy, Ngọc chưa bao giờ thấy công chúa buồn như hôm bà nghe
tin Thượng hoàng băng trên am Ngọa Vân ở núi Yên Tử. Ngọc còn
nhớ đó là ngày mồng ba tháng mười một năm Mậu Thân. Trúc Lâm đại
sĩ thị tịch vào nửa đêm ngày mồng một. Trưa hôm sau chùa Báo Ân
nhận được tin dữ, và chùa Báo ân cho người đưa tin vào cho hoàng
đế Anh Tông. Lúc ấy, Ngọc đang ở bên chùa Tư Phúc với công chúa.
Vua Anh Tông cho triệu công chúa về. Khi nghe tin Thượng hoàng
viên tịch, công chúa đã vào tẩm điện một mình và đóng cửa lại.
Một ngày một đêm công chúa không ra khỏi tẩm điện. Điều làm Ngọc
công chúa không ra khỏi tẩm điện. Điều làm Ngọc ngạc nhiên hết
sức là công chúa không muốn lên núi Yên Tử để nhìn mặt Thượng
hoàng một lần chót, dù hoàng đế Anh Tông đã cho người triệu mời.
Cả nước bàng hoàng thương tiếc khi nghe tin Thượng hoàng mất. Cả
nước như cảm thấy mồ côi. Ngọc nghe nói là Sơn Môn Yên Tử đang
tổ chức lễ trà tỳ đưa nhục thân Thượng hoàng lên đàn hỏa. Người
thống lãnh sơn môn Yên Tử là đại sư Pháp Loa đứng ra chủ trương
hỏa đàn. Ngọc không được lên dự lễ trà tỳ nhưng Ngọc nghe nói là
số người lên núi dự hỏa đàn đông có tới hàng vạn. Khắp nước,
toàn dân để tang. Trong suốt mười lăm hôm, chùa nào trong xứ
cũng đêm ngày giộng chuông cầu nguyện. Công chúa vẫn không chịu
lên núi dự hỏa đàn. Bà quỳ suốt ngày trong chánh điện chùa Tư
Phúc cho đến khi tháp đựng xá lợi của Thượng hoàng được rước từ
núi Yên Tử về chùa. Chưa đầy một tháng sau đó, công chúa xuất
gia.
-
Công chúa được xuất gia tại chùa Vũ Ninh và Quốc sư Bảo phác đã
đứng ra làm lễ truyền giới cho bà. Thầy Bảo phác là một trong
những cao đệ của Thượng hoàng, hồi đó chưa được triều đình suy
tôn làm quốc sư. Ngay sau khi thọ giới, Hương Tràng được nhập
chúng tại chùa Vũ Ninh để theo học Phật pháp cùng với một số các
vị Ni sư trẻ tuổi khác. Quốc sư Bảo Pháp đích thân đứng ra giảng
dạy. Tháng mười năm Kỷ Dậu, bà được Quốc sư ủy về trú trì chùa
Hổ Sơn ở huyện Thiên Bản. Chùa tọa lạc trên một hòn núi đá thuộc
xã Hổ Sơn ở tỉnh Nam Định, cách phủ Thiên Trường khoảng nửa ngày
đường. Từ kinh thành Thăng Long muốn về thăm Ni Sư, Ngọc phải đi
thuyền xuôi sông Nhị Hà và đến quận Mỹ Lý thì lên bến Vũ Xá. Từ
bến Vũ Xá, nàng đi bộ một hồi rồi tới ra đường cái dẫn về huyện
lỵ Thiên Bản.
-
Lần đầu tới núi Hổ Sơn, Ngọc đã gặp bé Tuất dươi chân núi và con
bé này đã đưa nàng lên chùa. Hồi đó Tuất mới chín tuổi, năm nay
nó đã lên mười một. Nó là con gái của bác Trực, người cày ruộng
cho chùa, nhà ở ngay dưới chân núi. Tuất là một trong những đứa
học trò đến học hàng ngày trên chùa Hổ Sơn. Trong khi Ngọc ngồi
chờ ở khách đường, Tuất đi vào tăng đường sát ngay một bên để
báo cho Ni Sư Hương Tràng biết là có khách. Ngọc nghe tiếng
Hương Tràng hỏi nhỏ: "Khách nào vậy con?" và giọng trẻ thơ của
Tuất trả lời: "Thưa Ni Sư con không biết, cô ấy mặc áo đẹp lắm".
Ngọc không nhịn được cười.
-
Hôm ấy Ngọc mặc áo đẹp thật. Ở nhà quê không có ai ăn mặc như
thế. Ni Sư Hương Tràng đi ra. Trông thấy Ngọc, Ni Sư mừng rỡ.
Hai chị em nói chuyện hồi lâu thì tới giờ công phu. Ngọc theo
đại chúng lên chánh điện. Có tất cả bốn vị Ni Sư, vị lớn nhất
chừng bốn mươi tuổi; sau này Ngọc được biết bà pháp danh là Tĩnh
Quang. Ni Sư Hương Tràng đã nhường chức tự trưởng cho bà. Ni Sư
Hương Tràng năm ấy vừa mới hai mươi hai tuổi. Hai vị kia trẻ
hơn, một cô khoảng hai mươi mốt và một cô khoảng mười bảy tuổi.
Sau này Ngọc biết có thể lớn pháp danh là Đàm Thái còn cô nhỏ
pháp danh Hương Nghiêm. Hai vị này, cũng như Ni Sư Hương Tràng,
đã từng được học Phật pháp với quốc sư Bảo Phác tại núi Vũ
Ninh.
-
Tối hôm đó, Ngọc ngủ lại chùa. Ni Sư Hương Tràng cười bảo nàng
lần sau tới chùa thì hãy nên ăn mặc đơn giản hơn bởi vì ở đây
chỉ là một ngôi chùa miền quê. Ngọc nhìn cách phục sức của mình
rồi nhìn qua cách phục sức của Ni Sư. Ai mà nhận ra được rằng
người ngồi bên kia đã từng là một cô công chúa và là một bà
hoàng hậu? Chiếc áo nâu thẫm mầu của Ni Sư là một chiếc áo may
bằng vải thô sơ. Đôi dép cỏ kia cũng chỉ được dùng trong tăng
phòng. Sau này Ngọc biết là ngoài vườn ươm, Ni Sư cũng đi chân
đất như mọi người. Bà đã biết cầm cuốc, cuốc đất làm cỏ, gieo
hạt, bỏ phân và săn sóc vườn ương. Cô đệ tử tí hon của bà, bé
Tuất, đã dạy bà làm được nhiều chuyện. Có lần cầm lấy bàn tay
của Ni Sư, Ngọc thấy bàn tay đó không còn mềm nhũn như bàn tay
của mình. Có những nơi chai cứng vì bàn tay đã biết chấp tác
ngoài vườn ngoài ruộng. Trên đầu, Ni Sư cũng chít một chiếc khăn
nâu như mọi Ni Sư khác. Bà còn trẻ lắm, dung quang tuy vẫn tươi
mát không khác ngày xưa, nhưng phong thái của bà thật khác. Dấu
vết của quyền quý đã hoàn toàn bị gột sạch. Bà đơn giản như một
cây cau và lành mạnh như một tàu lá chuối mới. Trong những lần
viếng thăm trước, Ngọc nhận thấy rằng công việc chùa dù có bề
bộn đến mấy, Ni Sư Hương Tràng vẫn giữa được vẻ thung dung không
bao giờ để mất niềm vui và nụ cười. "Miễn được lòng rỗi, chẳng
còn phép khác", Ni Sư thường nhắc đến tám chữ ấy, nói là lời dạy
của Thượng hoàng Trúc Lâm đại sĩ. Ngọc chẳng hiểu gì, nàng lấy
làm lạ khi thấy Ni Sư làm đủ mọi thứ việc mà vẫn có thời gian để
tâm săn sóc cho mọi người, kể cả những đứa bé ốm đau dưới xóm.
Chùa chỉ có ba mẫu ruộng, lúa gặt chỉ tạm đủ ăn cho chùa cho gia
đình bác Trực. Vậy mà khi hoàng hậu Bảo Từ tỏ ý muốn cúng dường
cho chùa hai mươi lăm mẫu ruộng tốt, Ni Sư đã từ chối không
nhận. Uy Huệ Vương cúng mười mẫu, Ni Sư cũng từ chối. Mới đây
quan sở tại huyện Thien Bản muốn cúng năm mẫu ruộng này đã gây
ra một ít xáo trộn trong chùa. Ni Sư Tĩnh Quang, trú trì chùa
Nộn Sơn đã từng bàn bạc với Ni Sư Hương Tràng nhiều lần về việc
ruộng đất. Cũng như những giới thân cận chùa, Ni Sư trú trì nghĩ
rằng nếu có thêm ruộng thì chùa sẽ làm được nhiều Phật sự, và
các Ni Sư sẽ đỡ vất vả hơn, nhưng Ni Sư Hương Tràng nhất định
không chịu. Chính Ngọc cũng không hiểu tại sao Ni Sư lại phụ
lòng thành của các thí chủ ấy như thế. Đầu năm nay, hoàng hậu
Bảo Từ đã lấy năm trăm mẫu ruộng ở quê nhà để cúng vào chùa Báo
Ân. Có ruộng nhiều như thế thì các thầy mới rảnh rang để mà lo
Phật sự và mới có thể phương tiện để hành đạo chứ. Ngọc biết các
Ni Sư tại chùa Nộn Sơn rất cần phương tiện hành đạo. Ni Sư Hương
Tràng thường phải lo thuốc men, giấy bút cho các em vào những
lúc họ túng quẫn nữa. Có thêm mấy chục mẫu ruộng tốt thì tha hồ
mà làm những việc đó. Ngọc nghĩ mãi mà không hiểu được ý của Ni
Sư Hương Tràng. Thật ra không phải Ni Sư thù ghét gì Bảo Từ
hoàng hậu và ngài Uy Huệ Vương. Trái lại Ni Sư rất có cảm tình
với các vị ấy. Vậy thì tại sao Ni Sư phụ lòng họ, từ chối không
nhận ruộng cho chùa? Cái vườn ương mà Ni Sư đã để thật nhiều
thời gian chăm sóc có đem lại cho chùa được bao nhiêu lợi tức
đâu? Trong vườn ương ấy. Ni Sư ương nhiều thứ cây như tùng,
bách, hải đường, trắc bách diệp, đinh lăng, mẫu đơn, hoa giấy ..
Các Ni Sư thường để thì giờ để chẻ tre đan những cái giỏ lớn
bằng trái bí ngô. Những chiếc giỏ này dùng để đựng cây. Những
cây tùng lớn chừng ba bốn gang tay chẳng hạn được bứng lên với
cả mô đất và trồng lại trong các giỏ tre ấy. Suốt mùa thu, cứ
mỗi tháng hai lần, bác Trực và bé Tuất đi thuyền chở cây lên
trên kinh thành để bán. Các nhà quý phái thường đến mua cây về
trồng trong vườn nhà họ. Các chùa trong vùng rất ưa trồng những
loại tùng, bá và đại mộc khác. Nhiều thí chủ thường đến mua cây
của vườn ương để về cúng dường cho chùa. Ni Sư Hương Tràng có vẻ
cưng quý cái vườn ương của chùa hết sức. Ni Sư nâng niu từng lá
cây, từng cành cây, săn sóc và chăm chút làm như mỗi cây là một
vị hoàng tử không bằng. Ngọc biết khu chợ mà bác Trực thường
hay chở cây đến bày bán. Nàng thường giới thiệu cho những người
quen biết đến mua cây. Từ ngày Hương Tràng về trú trì chùa Nộn
Sơn, Ni Sư không còn liên lạc với ai ở kinh đô. Có lẽ Ngọc là
người thí chủ duy nhất của chùa từ kinh thành xuống, mà Ngọc có
tiền bạc hay vật dụng gì nhiều để cúng chùa đâu. Ba bốn tháng
nàng mới được về một lần, mỗi lần như thế nàng chỉ đem về cúng
dường được một ít giấy mực, đèn sáp, trầm hương và bánh trái. Ni
Sư không nhận lễ cúng dường của bất cứ ông hoàng bà chúa nào
nhưng rất vui lòng nhận những thức mà Ngọc mang về có vẻ vui
mừng nữa là khác. Điều này khiến nàng sung sướng và cảm thấy gần
gũi bà công chúa năm xưa không biết chừng nào. chỉ có một điều
làm Ngọc ấm ức đó là những chuyện người ta bàn tán có liên hệ
tới Ni Sư Hương Tràng mà nàng không thể nào chia xẻ với Ni Sư
được. Có một lần quan Tư đồ hỏi Ngọc về cuộc hành trình gian
nguy của Hương Tràng từ cửa biển Thị Nại về đến kinh đô, và Ngọc
đã đem hết sự thực để kể lại cho ngài nghe, từ lúc thuyền của
hoàng hậu ra làm lễ rước linh vua Chế Mân ngoài khơi đến khi
thuyền bị bão phải tấp vào bến để sữa chữa và sau đó là thời
gian mật trú tại dinh quan Kinh Lược Châu Hóa để chờ đợi Thế tử
Chế Đa Gia. Quan Tư đồ thở dài, than rằng miệng lưỡi thế gian
người đời ác độc đã thêu dệt nên chuyện hoàng hậu đi lại với
quan Thượng Thư Tả Bộc Xa trong suốt thời gian lênh đênh trên
biển. Ngọc tức lắm, chuyện đó làm sao xảy ra được. Quan An Phủ
Sứ và tất cả quan quân và thủy thủ trên thuyền đều biết rõ như
vậy. Ấy thế mà người ta vẫn dựng đứng câu chuyện lên được. Quan
Tư đồ dặn Ngọc đừng thuật lại những điều thị phi cho Ni Sư nghe
và Ngọc phải vâng lời. Ngài lại còn nói cho Ngọc nghe nhiều
chuyện khác nữa, những chuyện này cũng làm cho Ngọc bực tức
không kém. Hồi công chúa mới được rước về Chiêm, trong triều ccó
thể người bất mãn, Họ nói cành vàng lá ngọc ở kinh đô mà sao lại
đem trao cho bọn mọi rợ trong rừng. Họ đạt ra cả những bài hát
mà chế nhạo. Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán
thằng Mưòng nó leo. Thật là ếch ngồi đáy giếng, chỉ xem trời
bằng vung. Một nước văn minh như nước Chiêm và một ông vua giỏi
như vua Chế Mân mà người ta dám cho là mọi rợ. Thật chẳng gì
thái độ khinh miệt của bọn nhà Tống đối với nước Đại Việt. Người
ta lại hát: Tiếc thay hạt gạo trong ngần, đã vò nước lã lại
vần lửa rơm. Ý muốn nói xấu vừa cả công chúa vừa cả quan
Thượng thư. Không ai biết lệnh bà bằng mình, Ngọc nghĩ. Một vị
thiên tử khách còn không động được tới bà, đừng nói quan Thượng
thư Tả Bộc Xa. Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, Ngọc lại thấy bừng
bừng cơn giận ở trong lòng nàng, nhưng nàng cũng biết quan Tư đồ
ngài nói phải. Nàng không được đem những chuyện này làm bẩn tai
Ni Sư.
-
Ở xã Hổ Sơn, xã quan có rước một ông đồ tên là đồ Tân về dạy
học. Lớp của ông đồ Tân chỉ là một lớp tiểu tập Học trò từ những
đứa mới học vỡ lòng còn để chỏm cho đến những đứa mười ba mười
bốn, đếm được cả thảy hai mươi mốt đứa. Tất cả đều thuộc về hạng
đủ ăn hoặc khá giả. Tại chùa, Ni Sư Hương Tràng cùng các Ni Sư
Đàm Thái và Hương Nghiêm cùng các Ni Sư cũng có dạy một lớp học
trò nho nhỏ, tất cả đều là con nhà nghèo. Ni Sư Hương Tràng đã
đến từng nhà và xin cho từng đứa tới học. Lớp học bắt đầu mỗi
ngày từ đầu giờ Thân và chấm dứt vào cuối giờ Thân, chừa các
ngày Rằm, mồng một và các ngày vía lớn. Bà khuyên cha mẹ các em
cố gắng cho các em để dành một ít chữ vào bụng, để sau này không
người đời lừa gạt. Cũng vì lẽ đó nên trong lớp cũng có tới bảy
đứa con gái, mà đúng đầu là bé Tuất. Lớp học của chùa có tất cả
mười sáu em. Có mấy đưá chăn trâu cho nhà giàu đến tối mịt mới
về nên không được theo học, và các Ni Sư chưa biết làm cách nào
để giúp chúng. Bọn con nít nghèo được đi học thì sướng lắm.
Chúng được học sách Tam Tự Kinh, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi và Sơ Học
Vấn Tân. Chúng được học cả Kinh Ông Bụt nữa. Phần lớn các sách
này Ngọc đã mua hoặc xin lại tại nhà sách của Khanh ở phố Trường
Thi, Năm trăm giấy mà Ngọc đang mang trong tay nải cũng là để
đóng tập cho học trò để chúng tập viết.
-
Suy nghĩ liên miên bất giác Ngọc thấy mình đã đi tới chợ Huyện.
Chợ vẫn còn đông người mua bán. Thấy có bán kẹo vừng, bánh ú, và
bánh gai, Ngọc ghé lại. Nàng đặt tay nải xuống, lần lưng lấy
tiền mua mỗi thứ một ít, bảo bà hàng gói vào lá chuối khô cẩn
thận rồi mới mở tay nải bỏ tất cả vào. Rời chợ, Ngọc đi về phía
cầu. Từ đây về tới xã Hổ Sơn không còn xa nữa. Kỳ này Ngọc sẽ
được ở lại chùa ba hôm. Có thể đây là lần chót nàng về thăm chùa
trước khi đi lấy chồng. Chỉ còn sáu tháng nữa thôi chứ có lâu
lắc gì đâu. Ngọc tự dặn là chỉ báo tin cho Ni Sư Hương Tràng
biết mà thôi. Các Ni Sư khác mà biết thì nàng thẹn chết. Năm nay
Ngọc cũng đã hai mươi ba rồi. Nhớ ngày nào nàng còn nằng nặc đòi
đi chung với công chúa. Bây giờ nàng mới biết rằng Ni Sư Hương
Tràng nói đúng. Từ ngày rằm tháng giêng đến giờ, không ngày nào
mà Ngọc cũng không nghĩ đến chuyện chồng con, mà Ngọc có muốn
nghĩ đến chuyện đó đâu. Tự nhiên mà cái óc nàng cứ hướng về cái
ý nghĩ đó. Thật cũng lạ lùng. Cái anh Tú Sinh ấy cả đời mình có
quen biết đâu, tự dưng gặp một lần tại nhà quan Tư đồ rồi thì
không quên được cái khuôn mặt của anh chàng nữa. Người ta nói là
duyên nợ, Ngọc nghĩ đúng thực. Giả sử bây giờ mà Ni Sư Hương
Tràng cho phép nàng được đi tu theo bà không biết Ngọc sẽ trả
lời thế nào. Nàng thấy rõ lòng mình và thầm cám ơn Ni Sư. Ngọc
ước ao rằng sau khi về nhà chồng nàng sẽ được phép lâu lâu về
huyện Thiên Bản một lần để thăm Ni Sư. Có thể là chồng nàng sẽ
đi với nàng. Ngọc rất muốn giới thiệu anh Tú Sinh với bà.
-
Ngọc đã về tới chân núi Hổ Sơn. Nàng nhắc tay nải đổi sang vai
bên trái và rảo bước. Trời đã nắng gắt. Văng vẳng có tiếng
chuông chùa. Trưa miền quê yên tĩnh lạ. Giờ này chắc trên chùa
đang cúng ngọ. phải rồi, Ngọc nghe có tiếng mõ xem lẫn tiếng
tụng kinh đều đều. Tới chân núi, Ngọc ghé vào nhà bác Trực.
Trông thấy nàng, bác Trực gái mừng rỡ:
-
- Cô Ngọc, quý hóa quá! Thưa cô, cô mới về chơi?
-
Hỏi ra, Ngọc biết bác trai còn ở ngoài ruộng, và bé Tuất hiện
đang ở trên chùa. Ngọc xin nước uống. Bác Trực gái nhanh nhẹn đi
lấy bát. Bác ra mở chum nước mưa lấy chiếc gáo dừa múc đầy bát
và mang vào cho Ngọc. Ngọc cám ơn và thong thả uống hết bát nước
mưa một cách ngon lành. Nước mát quá. Nàng đem bát úp lại trên
chạn, rồi nói với bác Trực gái:
-
- Cháu lên chùa rồi chiều mát sẽ trở xuống thăm bác và bác trai.
-
Bác trực gái tíu tít:
-
- Vâng, vâng, chiều xin mời cô xuống chơi. Bố nó thấy cô chắc là
mừng lắm.
-
Ngọc xách tay nải đi ra cổng. Vòng sang phía trái, nàng theo con
đường tắt leo lên núi. Nàng dừng lại để nghỉ nhiều lần dưới
những bóng cây râm mát. Lên tới hông thiền đường Ngọc thấy năm
bảy em bé đang quây quần bên sân cảnh. Thoáng thấy bóng Tuất
trong số đó, Ngọc đi tắt sang. Các em bé đang bận rộn dựng khung
vườn cảnh Lâm Tì Ni để sáng mai làm lễ Phật Đản. Thấy Ngọc, Tuất
reo lên và chạy ra đón nàng. Con bé mắt sáng, tóc xõa ngang vai.
Nó mặc áo cánh nâu và quần nâu.
-
- Cô Ngọc, cô Ngọc, Tuất ôm lấy cánh tay Ngọc. Nó đỡ cái tay nải
của Ngọc đặt xuống trên thềm đá, và dương mắt nhìn Ngọc trìu
mến. Ngọc xoa đầu con bé, hỏi:
-
- Ni Sư Hương Tràng làm gì trong chùa hả con?
-
- Thưa cô, Ni Sư của con không có trong chùa. Ni Sư xuống xóm
dưới từ hồi sáng chưa về. Mời cô vào chùa. Có Ni Sư tự trưởng
trong ấy và hai Ni Sư Đàm Thái và Hương Nghiêm nữa.
-
Tuất nhắc tay nải lên vai. Nó đợi Ngọc đi trước rồi bước theo
sau. Ngọc hỏi:
-
- Ni Sư Hương Tràng đi xuống xóm dưới làm gì hả Tuất? Chừng nào
Ni Sư mới về?
-
Ngọc hơi thất vọng. Nàng nghĩ bụng mình về đây là để được gần
gũi Ni Sư Hương Tràng càng nhiều càng quý. Vậy mà Ni Sư lại
không có mặt tại chùa, nhưng Ngọc lại tự cười là mình nóng nảy.
Chậm lắm là nhá nhem tối, Ni Sư của nàng thế nào cũng về tới
chùa.
-
Vào khác đường; Ngọc chắp tay kính cẩn chào Ni Sư Tĩnh Quang,
rồi đỡ lấy tay nải. Nàng bảo bé Tuất xuống lấy vài cái mâm gỗ.
Rồi nàng sắp các thứ trong nải ra: Một mâm đựng bánh trái và
kẹo, còn một mâm đựng bút, mực tầu và giấy bản. Ngọc bưng từng
mâm đặt trên bàn. Ni Sư Tĩnh Quan bảo Tuất đi rót nước hồng mai
mời Ngọc.
-
Sau khi biết Ngọc sẽ ở lại, được ba hôm, Ni Sư tự trưởng nói với
nàng:
-
- Quý hóa quá. Thế nào Ni Sư Hương Tràng cũng được nghe nhiều
chuyện trên kinh sư. Cô đi đường có mệt lắm, xin mời cô qua liêu
phòng nghỉ ngơi chốc lát. Ni Sư Hương Tràng xuống xóm cũng sắp
về tới nơi đây thôi. Tội nghiệp, hồi trưa này đi gấp quá bỏ cả
bữa ngọ trai.
-
Ngọc thưa với Ni Sư là nàng không mệt nên không cần vào hậu liêu
nghỉ ngơi. Ni Sư nói:
-
- Để tôi nói với Hương Nghiêm sang tiếp chuyện cô nhé. Tôi xin
lỗi cô một lát vì tôi phải về lo cho xong sớ phái cho ngày mai.
Ngày mai có tới năm mươi hai người xin thọ tam quy ngũ giới. Tối
nay mình sẽ có dịp nói chuyện.
-
Ngọc đứng lên đáp lễ Ni Sư Tĩnh Quang. Nàng định đi ra, tự tìm
Ni Sư Hương Nghiêm, nhưng Ni Sư đã bước vào, tươi cười:
-
- Chào chị Ngọc.
-
- Chào Ni Sư Hương Nghiêm.
-
- Xin chị gọi em bằng em thay bằng cô đi. Em còn nhỏ tuổi lắm
mà. Ni Sư Hương Nghiêm cười đến ngồi trước mặt Ngọc, và nắm lấy
bàn tay Ngọc.
-
Ni Sư Hương Nghiêm còn trẻ thật. Năm nay cô mới vào khoảng mười
chín tuổi. Ngọc quen cô từ hồi cô còn đang theo học cùng một lớp
Phật pháp với Ni Sư Hương Tràng tại chùa Vũ Ninh. Cô rất mến
phục Ni Sư Hương Tràng, và thấy cô cũng thông tuệ và đức hạnh
nên Ni Sư Hương Tràng đã rủ cô về nhập chúng Nộn Sơn khi lóp học
mãn khóa.
-
- Chị Hương Tràng của em đang đi tìm thầy thuốc cho thím Phụng,
mẹ thằng cu Lợi. Thím ấy đau nghén. Xem bộ đầy ngày đầy tháng
rồi mà trong nhà không có ai chăm sóc cả. Thằng Lợi thấy u nó ôm
bụng la thì sợ cuống cả lên. Nó không biết cầu cứu ai cho nên
chạy lên chùa. Bố nó đi đánh giặc Chiêm năm ngoái tử trận; nhà
một mẹ một con thật là tội nghiệp.
-
Ngọc còn nhớ thằng cu Lợi. Nó là một đứa học trò của chùa Nộn
Sơn và cũng được các Ni Sư ở chùa thương yêu lắm. Nó cùng tuổi
với Tuất.
-
Hương Nghiêm trông thấy giấy và bút trên mâm thì mừng lắm. Cô
nói:
-
- Giấy và mực của chị mang về đấy hả chị Ngọc? Hay quá. Như vậy
là có quà Phật Đản cho các em rồi đấy. Tối nay em sẽ thức khuya
để đóng cho mỗi đứa một quyển tập.
-
Vừa lúc ấy, Ngọc nghe có tiếng cười nói xôn xao và vui vẻ trước
sân chùa. Nhìn ra, nàng thấy nhiều phụ nữ xa quang thúng. Có tới
bốn bà và ba cô gái. Họ đã đặt quang gánh trước nhà kho. Họ gánh
hoặc đội lên chùa nào là gạo, nào là nếp, nào là rau đậu, nào là
trái cây. Ngọc biết đây là những thứ mà dân làng đem lên để
chuẩn bị làm cỗ chay để cho bách tính đến ăn. Nghĩ cũng vui. Vào
ngày Phật Đản, không có chùa nào trong nước mà không làm cơm
chay để cho bách tính đến ăn. Ngày ấy không ai sợ đói cả, kể cả
những người khố rách áo ôm, kể cả những ăn xin nằm đường. Ai tới
chùa cũng được tiếp đãi ân cần. kẻ quý phái tới cũng được ăn
những món ấy mà người nghèo đói tới cũng được ăn cùng những món
ấy. Ngọc tự nhủ sẽ vào nhà bếp để xem cách thức nấu chay ở thôn
quê. Ở trong cung điện, hoàng gia vẫn thường ăn chay nhưng các
món chay ấy không phải là những món dân dã.
-
Một lát sau, lại có nhiều người khác đến chùa. Họ gánh theo
những lồng chim và những vại cá. Ngọc biết chim và cá này là để
phóng sinh vào ngày Phật Đản. Sáng ngày mai, sau lễ tắm Phật sơ
sinh, các Ni Sư sẽ mở lồng cho chim bay. Đến chiều, cá mới được
thả ở bờ sông. Dân chúng sẽ tụ tập đông đảo dưới bến. Đọc kinh
và thả cá xong, mọi người sẽ đốt đèn và thả xuống nước. Hàng
ngàn ngọn đèn sẽ trôi lấp lánh trên sông. Đây gọi là lễ phóng
đăng. Ngọc đã từng dự nhiều lễ phóng sinh và phóng đăng trên
kinh đô, nhưng đây là lần đầu nàng sẽ được dự lễ ấy ở miền thôn
dã.
--o0o--
|
|