|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Đứa Con Của Biển
Trần Trung Đạo
-
--o0o--
-
-
"Sống chết là một định luật, một chiếc cầu mà ai cũng phải đi
qua. Giọt sương mai trên thảm cỏ non. Chiếc lá khô rơi trong
buổi chiều vàng. Mọi tạo vật, từ con người cho đến một giọt
sương, một chiếc lá, đều có sinh và có diệt".
-
Chị Hà đọc đâu đó. Mới hôm nào đây, chị đã dùng để an ủi ông
láng giềng Paul, khi bắt gặp ông cụ đứng ngẩn ngơ bên cửa sổ
trong một buổi chiều.
-
Bà
Karren, vợ ông, qua đời năm trước đó. Hẳn nhiên không phải cụ
Paul không biết đến lẽ mất còn của tạo vật, nhưng như cụ Paul
trả lời chị Hà: "Hiểu biết bao giờ cũng dễ hơn chịu đựng". Thiếu
cụ bà Karren, ông sống như một người mất bóng, suốt ngày lay
hoay như tìm kiếm chính mình. Không ai biết ông bà gặp nhau từ
bao giờ nhưng không thấy họ có con cái gì. Thỉnh thoảng một
người bà con hình như ở xa lắm, ghé thăm. Thế giới của ông bà cụ
là căn nhà trệt hai phòng ngủ và khu vườn nhỏ sau nhà. Những bụi
hoa huệ vàng được trồng dọc hàng rào. Chiếc ghế dài cũ và những
câu chuyện họ thì thầm với nhau, có thể được lập đi lập lại cả
trăm lần. Dù sao khi cụ bà Karren mất, một nửa thế giới của cụ
Paul cũng chết theo. Những bụi hoa dọc hàng rào không ai chăm
sóc. Cụ Paul, từ đó, ít ra ngoài. Thỉnh thoảng, cụ vịn song cửa
nhìn ra khu vườn trống, chiếc ghế cũ lẻ loi, những bụi hoa huệ
bị mưa xoi bật gốc. Cũng qua cánh cửa đó, có lần chị Hà bắt gặp
hai giọt nước mắt già nua lăn trên đôi má nhăn nheo của cụ Paul.
-
Trong "Cul de sac" gần biển này chỉ có chừng chục ngôi nhà, nối
nhau thành một vòng tròn chung quanh một sân cỏ nhỏ. Từ xóm nhà
đi bộ dọc con đường hẹp cắt ngang đồi thông, chừng 5 phút là đến
biển. Hầu hết gia đình là người sinh ra hay định cư lâu năm trên
xứ nầy, ngoại trừ mẹ con chị Hà, một người Mỹ gốc Việt. Chồng
chị thất lạc trên đường vượt biển. Chị sinh đứa con trai đầu
lòng ở trại tỵ nạn Thái Lan. Tháng 12 năm 1980, người phụ nữ hai
mươi bảy tuổi, ẵm đứa con trai mới sáu tháng bước xuống phi
trường quốc tế Logan, thuộc thành phố Boston. Không cha mẹ, anh
em. Không bà con thân thuộc. Những năm đầu mẹ con chị Hà sống
trong căn phòng do một hội từ thiện thuê dùm ở
Dorchester.
Nhờ có căn bản sư phạm từ trước, chị học tiếng Mỹ khá nhanh. Sau
khi hoàn tất khóa cán sự y tế tại một trường huấn nghệ, chị xin
được một việc làm tại bịnh viện thành phố Boston. Chị ít khi ra
ngoài. Khi đi chợ mua sắm, chị chẳng buồn trang điểm như cố tình
làm cho mình già hơn và xấu đi. Nhưng làm sao che dấu được thân
hình thon nhỏ, làn da trắng mịn màng, khuôn mặt tròn và đôi mắt
đen nhưng rất buồn của của một cô gái Việt còn trong tuổi thanh
xuân. Chị đã đóng cánh cửa sổ nhìn ra khu vườn đời chị, dù nơi
đó lá mùa thu vẫn đẹp, hoa mùa xuân vẫn nở, tiếng ve vẫn reo
vang trong mỗi độ hè về.
-
Chị Hà không thích ở thành phố. Khi dành dụm đủ số tiền cần
thiết để ứng trước, chị mua căn nhà nhỏ ở quận Plymouth, một
vùng ven biển, cách
Boston
chừng 20 dặm về phía nam. Chị nghỉ việc ở bịnh viện và tìm được
một công việc khác tại một trung tâm y tế dành cho người già ở
gần nhà. Năm đó, chị Hà ba mươi tuổi. Một phụ nữ trẻ đẹp và đầy
sức sống, chị có thừa khả năng để xây dựng cho mình một gia đình
mới trong cuộc đời mới. Nếu bảo chị không thích người đồng hương
thì chị có thể kết hôn với người xứ khác. Nhưng chị vẫn một mình
với đứa con thơ, sống trong tháng năm trầm lặng. Hẩm hiu nhưng
ấm cúng. Đứa con trai của chị là niềm vui, là hy vọng, là tất cả
quá khứ, hiện tại và tương lai của chị góp lại. Một ngày của chị
bắt đầu với việc đưa con đến trường, đi làm ở viện dưỡng lão,
dạy con làm bài tập, dạy con học thêm tiếng Việt và ra biển ngồi
đọc sách. Và cứ thế, ngoại trừ những khi mưa bão và mùa đông giá
rét, một ngày của chị Hà bao giờ cũng chấm dứt bằng những giây
phút rất riêng tư bên bờ biển. Ngay cả những khi không đọc sách,
chị vẫn ra ngồi như thế. Im lặng như để lắng nghe tiếng thì thầm
vọng về từ một nơi xa xôi.
-
Chị gần gũi với biển đến nỗi đứa con trai chị cũng được đặt tên
là Biển. Hàng xóm gọi nó Ben, theo âm Mỹ không có dấu. Khi mẹ
con chị Hà mới đến, hàng xóm láng giềng, vốn quen với sự yên
tĩnh, ít nhiều cũng có phản ứng khó chịu, nhưng dần dần họ quen
đi. Tiếng khóc, tiếng cười của đứa bé không còn báo động sự ồn
ào, không còn mang đến sự phiền toái, trái lại báo hiệu một sự
sống đang đâm chồi. Thằng bé mang niềm vui đến thôn xóm nhỏ vốn
thiếu vắng tiếng cười.
-
Lê
Văn Biển hay Ben Le, lớn nhanh như thổi, trông kháu khỉnh với
nước da ngâm đen và mái tóc phía trước hơi quắn lại. Trong "Cul
de sac" nhỏ này, mọi người, nhất là ông bà Paul, cưng và xem
Biển như là con chung. Ngày sinh nhật 11 tháng 6 mỗi năm của
thằng bé trở thành ngày hội của xóm. Mỗi người đóng góp một món
đồ chơi, một chùm bong bóng. Năm nào cũng thế, bà Karren tự tay
làm chiếc bánh sinh nhật thật to cho Biển. Biển học bơi rất sớm
và cũng bơi rất giỏi. Bất cứ khi nào rảnh rỗi là cu cậu tuôn ra
biển, phơi mình trên cát, trên sóng. Biển học giỏi và rất ngoan.
Nếu ai hỏi thằng bé mơ ước gì khi khôn lớn, nó không ngần ngại
chỉ con tàu đang chạy ngoài khơi, và mơ ước được trở thành
thuyền trưởng.
-
Năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên Biển muốn biết về ba của nó: "Thằng
Chris có ba, tại sao con không có?" Chị Hà không dấu con: "Ba
của con chết trên đường vượt biên từ khi con chưa ra đời". Thằng
bé thắc mắc: "Tại sao?". Chị không biết phải giãi thích sao khác
hơn với một đứa bé bảy tuổi, ngoài việc trả lời: "Tai nạn. Ba
con chết trong một tai nạn trên biển". Biển hỏi đuổi: "Tai nạn
gì hở mẹ, mấy chiếc tàu tông nhau?" Chị Hà vuốt mấy sợi tóc quăn
của con, âu ếm: "Không phải. Con còn nhỏ, mai mốt con lớn hơn mẹ
sẽ kể thật chi tiết về tai nạn này cho con nghe". Chị lấy trong
xấp giấy tờ cũ, nhận từ Việt
Nam,
tấm hình đen trắng của một thanh niên chừng hai mươi tuổi đang
ôm cây đàn guitar đứng dựa vào tường và bảo: "Đây là hình của ba
con". Biển nhìn chăm chăm vào tấm hình đen trắng, đưa lên đưa
xuống, lật ngang, lật dọc, cố tìm một nét quen thuộc, một chút
liên hệ với người trong ảnh mà từ lâu nó không biết. "Con giống
ba không?" thằng bé hỏi. Chị lại gật đầu: "Giống chứ, nhưng con
giống mẹ nhiều hơn". Biển không chịu: "Con giống ba nhiều hơn vì
da và tóc của ba cũng giống như của con". Chị Hà cười, định
giãi thích vì tấm hình đen trắng chứ không phải vì da và tóc,
nhưng lại thôi. Thằng bé không hỏi thêm nhưng từ đó, nó cũng dần
dần biết buồn tủi khi bọn thằng Glen, thằng Chris có ba đưa đi
xem đánh baseball, basketball còn nó thì không. Chị Hà an ủi
con. Sinh nhật của Biển, chị mua cho thằng bé hai món quà, thay
vì một. Chị bảo món quà sau là quà của ba. Chị đưa Biển đi chơi
baseball với đám thằng Glen, thằng Chris. Nhiều khi chị phải
ngồi hàng giờ, có khi đến khi trời sập tối, bên sân cỏ để đợi
con.
-
Thằng Chris, đứa bé mà Biển hay đem ra làm ví dụ, là con của anh
Brian, người đàn ông góa vợ, ở cách nhà chị Hà chừng hai dặm.
Anh tình nguyện giúp chị Hà đưa đón Biển mỗi lần tập dượt vì hai
đứa bé cùng chơi chung một đội bóng thiếu nhi. Chị từ chối mặc
dù nhiều khi phải xin nghỉ việc sớm để đưa đón con. Ơn nghĩa sẽ
dẫn đến lệ thuộc, chị nghĩ thế. Chị biết Brian rất tử tế, lịch
sự và dĩ nhiên, có cảm tình riêng với chị. Một lần bên bờ biển
chị suýt xiêu lòng khi Brian tha thiết tỏ tình. Nhưng chị đã
dừng lại được. Những ngày lễ, Brian thường mời mẹ con chị đến
nhà, hay cùng đi ăn với bố con anh, nhưng chị Hà thường tìm cách
từ chối. Vợ của Brian, không biết mất vì bịnh gì, để lại cho anh
đứa con trai 3 tuổi. Brian là một nhân viên quản trị trung cấp,
làm việc cho một công ty tài chánh. Mỗi khi đi công tác xa về,
ngoài việc mua quà cho thằng Chris, Brian không quên mua một món
quà dành cho Biển. Anh không dám mua tặng chị Hà vì ngại chị lại
sẽ từ chối như nhiều lần trước đó. Rồi Brian cưới vợ lần nữa. Vợ
anh là một người làm cùng hãng. Đám cưới diễn ra linh đình.
Thằng Biển được nhờ làm em bé cầm hoa đi trước cô dâu chú rể.
Chị Hà cũng được mời và có mặt. Brian giới thiệu chị Hà với vợ
rất ân cần và trịnh trọng. Hai gia đình từ đó gần gũi hơn. Trong
những ngày lễ, vợ chồng Brian đến thăm mẹ con chị Hà, và ngược
lại chị Hà cũng đáp lễ mỗi khi có dịp. Sau sinh nhật mười tuổi
của Biển không lâu, chị Hà ngã bịnh. Bác sĩ khám phá một cục
bướu nhỏ trong tử cung chị và cần phải được cắt bỏ ngay. Khi
điền giấy tờ đồng ý giải phẫu, chị Hà mới biết rằng mình không
có ngay cả một người thân thích ở Mỹ. Chị không lo đến mình bằng
lo cho tương lai của Biển. Chị là chỗ dựa duy nhất của thằng bé.
Không có chị đời nó không biết sẽ ra sao. Chị Hà hoảng sợ khi
nghĩ đến điều bất hạnh có thể xảy ra. Chị mời vợ chồng Brian đến
bịnh viện để nhờ anh chị làm người bảo trợ Biển cho đến khi Biển
được mười tám tuổi, nếu chị gặp phải chuyện bất trắc. Vợ chồng
Brian xúc động nhận lời. Bịnh của chị không có gì trầm trọng. Mổ
xong vài hôm, chị bình phục và tiếp tục cuộc sống với con trong
căn nhà nhỏ.
-
Hai mươi hai năm trôi qua. Chị Hà đã già đi nhiều theo thời
gian. Cô gái Việt Nam hai mươi bảy tuổi, mới ngày nào ẵm đứa con
còn đỏ hỏn, đặt chân lên nước Mỹ, bây giờ đã là một bà mẹ năm
mươi tuổi. Biển cũng thế. Anh chàng không còn là cậu bé suốt
ngày phơi mình trên cát nhưng đang là sinh viên năm chót ngành
hàng hải của trường đại học Boston. Có lần Biển đưa về nhà một
cô gái tóc vàng, giới thiệu với mẹ là bạn gái. Chuyện con trai
có bạn gái là chuyện bình thường, chị Hà chỉ mong Biển đừng vì
thế mà xao lãng việc học hành.
-
Vợ
chồng anh hàng xóm Brian đã ly dị nhau. Lần nầy Brian không cưới
vợ khác, và cũng không tìm đến chị như lần trước. Anh quyết định
dọn nhà đi tiểu bang khác. Thằng Chris, con trai anh, vừa học
xong trung học thì đăng lính. Anh không có con cái gì với người
vợ sau, nên anh chẳng còn gì phải bận tâm lo lắng. Trên đường ra
phi trường, Brian ghé nhà chào chị Hà. Lần đầu tiên sau bao
nhiêu năm quen biết, chị Hà lịch sự và tha thiết, choàng tay ôm
nhẹ Brian. Chị nói nhỏ: "Chúc anh đi bình an và thành công, có
dịp nhớ về thăm, tôi vẫn ở đây". Brian xúc động: "Tôi sẽ không
bao giờ hiểu được Hà". Chị Hà cười nhẹ: "Vâng, anh sẽ không bao
giờ. Chúng ta sống trong cùng một xóm nhưng hai thế giới tâm
linh xa cách. Tôi chẳng biết nói sao hơn. Xin lỗi anh vậy".
-
Cụ
bà Karren chết trước cũng đã để lại một khoảng trống tinh thần
và cả vật chất, không có gì bù đắp được trong đời sống của cụ
Paul. Sức khỏe của cụ, vì thế, ngày càng giảm sút. Chị Hà rất lo
cho người láng giềng gần gũi của mình. "Không chừng cụ Paul cũng
sẽ ra đi", chị than thầm. Thật vậy, buổi hẹn với bác sĩ lần đó
kéo dài lâu hơn. Buổi chiều, xe cứu thương không đưa cụ trở về
như thường lệ. Bác sĩ giữ cụ lại bịnh viện và khoảng tuần sau
thì cụ chết. Người bà con ở xa lại đến dọn nhà, cắt cỏ. Vài tuần
sau, một tấm bảng "Nhà bán" được cắm trước sân.
-
Ngày ra trường của Biển đã đến. Trong mọi ý nghĩa, đối với chị
Hà, là một ngày trọng đại. Bao nhiêu năm nay chị chờ đợi một
ngày này. Chị thầm nghĩ "nếu bây giờ chị có giãi phẫu thêm lần
nữa, và ngay cả có chết đi, thì cũng không phải lo lắng như mười
năm trước". Chị dự tính rất nhiều ngạc nhiên dành cho Biển. Mẹ
con sẽ tổ chức một chuyến đi nghỉ hè xa,
Paris
hay London chẳng hạn. Anh Brian thường nhắc những cảnh lạ khắp
nơi mà chị chưa bao giờ dám mơ tưởng tới. "Bao nhiêu lâu rồi
nhỉ?". Chị nhẩm tính thời gian hai mươi năm mẹ con chị sống hẩm
hiu trong "Cul de sac" vùng ven biển Plymouth nầy. Buổi sáng lễ
ra trường, chị đến trường đại học rất sớm và chọn một chỗ ngồi
tốt nhất để có thể thấy rõ con mình trong lễ phục tốt nghiệp
màu đen, sắp hàng chờ nhận lãnh văn bằng. Chị Hà hãnh diện và
cảm động ứa nước mắt. Không ai biết đó là những giọt nước mắt
mừng vui hay đau xót của một bà mẹ đã hy sinh cho con suốt hai
mươi hai năm. Biển nhận văn bằng xong, chầm chậm bước xuống lễ
đài. Chị Hà đứng dậy dang tay chờ, nghĩ rằng Biển sẽ đến trong
vòng tay trìu mến của mẹ. Chị mơ một ngày được nghe ba tiếng
"Cám ơn mẹ" từ chính miệng Biển cất lên. Một sự trả ơn đơn giản
nhưng quý giá nhất mà mọi bà mẹ cần được trả. Ngày đó sẽ là hôm
nay. Chị nghĩ thế. Chị vẫn dang tay chờ nhưng Biển đã mất hút
trong đám bạn bè nhộn nhịp. Quảng trường vắng dần. Mọi người
đang lần lượt ra về. Chị Hà nóng ruột đi về phía cuối hành lang
tìm con. Ở đó, dưới chân cầu thang, Biển và cô bạn gái tóc vàng,
đang hôn nhau thắm thiết. Thấy chị, họ buông nhau ra. Cô gái tóc
vàng vồn vã: "Hôm nay là một ngày đáng nhớ của hai đứa tôi. Tôi
muốn bà cùng chia xẻ". Chị Hà đáp: "Vâng. Tôi biết. Hôm nay cũng
là ngày ý nghĩa nhất đối với tôi nữa". Chị đang nghĩ về ngày tốt
nghiệp kỹ sư hàng hải của đứa con trai duy nhất của chị. Cô gái
tiếp: "Thế thì tốt quá. Chúng tôi định mùa hè này sẽ cưới nhau".
Chị Hà ngạc nhiên: "Cái gì?". Cô gái đáp: "Xin lỗi. Tôi tưởng là
bà đã biết trước rồi. Ben đề nghị sáng nay và tôi đã nhận lời.
Chúng tôi chưa chọn ngày nhưng có lẽ mùa hè này thôi. Sau đó
chúng tôi phải về miền Nam coi sóc hãng xưởng của ba tôi". Chị
Hà quay sang Biển, hỏi bằng tiếng Việt hơi nặng giọng: "Có đúng
thế không Biển?". Biển nhìn xuống chân, không đáp. Không đáp có
nghĩa là thừa nhận. Đứa con trai duy nhất sắp sửa cưới vợ mà chị
Hà không hề hay biết. Chị giận dữ bước xuống cầu thang không
nhìn lại.
-
Ngồi trên chiếc ghế xếp cũ bên bờ biển, chị Hà ôm mặt khóc. Chị
khóc không phải chỉ vì giận Biển nhưng khóc nhiều hơn cho cuộc
đời hẩm hiu cô độc của mình. Hai mươi hai năm. Cuốn phim dĩ vãng
đau lòng của cuộc đời chị một lần nữa chiếu lại.
-
Tất cả bắt đầu từ một buổi chiều khi chị Hà nhận được mảnh giấy
nhỏ với hàng chữ: "Anh đã trốn trại và đang tá túc tại nhà một
người quen ở Chu Hải. Em ra Chu Hải gấp ngày mai. Đừng cho ai
biết. Hỏi nhà ông Đản. Khang". Chị Hà mừng đến phát khóc. Khang
còn sống và bình yên. Năm năm dài từ mùa bão lửa 1975, chị Hà
thêu dệt giấc mơ đoàn tụ với người yêu bằng sợi chỉ hy vọng vô
cùng mong manh. Nhiều lần chị Hà cố xua đi ý tưởng rằng Khang đã
chết ngoài mặt trận hay đã vượt biên ra nước ngoài. Dì Thanh, vợ
kế của ba chị Hà, thường bảo: "Coi thử trong trường có thầy nào
chưa vợ thì cô chọn một thầy, đừng chờ đợi thằng Khang làm gì vô
ích. Nó không chết thì cũng có vợ và ba bốn đứa con rồi". Không.
Khang của chị không chết. Khang của chị chưa có vợ và không có
ba bốn đứa con. Khang vẫn sống và đang tìm chị. Anh chàng sinh
viên khoa học gốc miền Trung, dạy kèm toán lý hóa lớp mười cho
chị ngày nào, vẫn còn sống. Anh chàng nghệ sĩ với cây đàn guitar
cũ, mỗi chiều dưới giàn hoa giấy bên hiên nhà, đắm đuối nhìn cô
nữ sinh Trần Thị Thu Hà mà hát: "Nầy người yêu người yêu tôi ơi,
bên kia sông là ánh mặt trời .." vẫn còn sống.
-
Sáng hôm sau, như lời dặn trong thư, chị Hà thu xếp vài đồ đạc
cá nhân và đi tìm nhà ông Đản ở ấp Chu Hải, ngoài Bà Rịa. Chuyến
xe Sài Gòn Vũng Tàu đến trễ vì bị xét nhiều lần. Khi chị tìm ra
nhà ông Đản thì trời đã tối. Ông dắt chị Hà đến một chòi lá
ngoài ruộng, ở đó, Khang bằng da bằng thịt đang chờ đợi chị. Hai
kẻ yêu nhau cuối cùng đã gặp lại nhau trong biển đời dâu bể. Họ
trao cho nhau chiếc nhẫn cỏ làm tin trong chiếc chòi lá mục.
Không có mặt trời rực rỡ bên sông như ngày xưa Khang thường hát,
nhưng ít ra họ đã sống sót. Trong chiếc chòi lá ngoài vườn nhà
ông Đản, họ hứa cùng nhau, dù thu vàng hạ đỏ hay nắng dãi mưa
dầm, sẽ dìu nhau đi hết cuộc đời còn lại.
-
Khoảng ba giờ sáng, ông Đản ra chòi gọi hai người dậy, đưa ra
ngoài sông và gởi họ cho chuyến vượt biên sắp khởi hành. Ông
không đi vì đứa con trai ông, bạn tù của Khang, vẫn còn ở trong
tù.
-
Chiếc ghe vượt biên quá nhỏ. Chiều dài chỉ mười một mét và chiều
ngang vỏn vẹn một thước rưỡi. Dù nhỏ bao nhiêu thì đối với
Khang, một tên tù trốn trại, không còn là điều chọn lựa. Dĩ
nhiên chị Hà cũng thế. Đời của chị đã thuộc về Khang. Dù phải
chết trên biển cả họ cũng sẽ không ân hận vì ít ra sẽ được chết
bên nhau trong chung thủy vợ chồng.
-
Tháng Chín bắt đầu mùa biển động nhưng ghe chạy bốn ngày đầu
không có chuyện gì trở ngại. Ghe đi về hướng đông. Không còn lo
sợ việc tàu công an biên phòng chận bắt. Tuy nhiên, ngày thứ năm
thì ghe chết máy. Chiếc la-bàn của hướng đạo sinh thường dùng
trong những trò chơi, không xác định được vị trí của chiếc tàu,
đang ở đâu và sẽ trôi dạt về đâu. Anh tài công không sửa được
máy ghe, đành phó mặc cho định mệnh, đúng hơn là cho gió mưa,
đưa đẩy chiếc ghe đến đâu thì đến. Ghe trôi dần về hướng nam.
Thực phẩm hết. Nước uống cũng hết. May mà trời không có bão lớn.
Nếu không, chỉ cần một cơn sóng mạnh cũng đủ để lật cả chiếc ghe
đang chơi vơi trên biển cả. Những người còn sức khỏe thay phiên
nhau tát nước. Thỉnh thoảng có một cơn mưa. Những người ngồi
trên sàn ghe căng tấm ny-lông để hứng nước và chia nhau thấm
giọng. Về đêm, biển đen như chiếc miệng con cá mập khổng lồ
chuẩn bị nuốt chửng đoàn người đang trong cơn đói khát. Những
đám mây đen đầy đe dọa đang vần vũ bay về. Qua ngày thứ sáu,
chẳng còn ai đủ sức dù chỉ để khóc than hay cầu nguyện. Tiếng
cầu kinh, tiếng niệm Phật cũng im bặt. Trong những điều im bặt,
có cả tiếng khóc của đứa bé bị sốt trong đêm đầu khi ghe vừa ra
khỏi cửa. Một người nào đó từ hầm ghe nói vọng lên: "Thôi chị
buông cháu ra. Cháu nó đã đi lâu rồi". Giọng một người đàn bà
cãi lại: "Ai bảo thế. Con tôi mạnh khỏe thế này mà nỡ xấu mồm
xấu miệng như rứa. Ngủ đi con, mẹ thương". Tội nghiệp bà mẹ. Đứa
bé đã chết từ lâu. Bà mẹ ôm xác đứa con hai tuổi suốt hai ngày
đêm mà không nói, đúng ra là không dám nói, một lời. Bà mẹ không
muốn nhìn cảnh người ta ném xác con hai tuổi của bà xuống biển.
Mọi người đều kiệt sức. Không ai còn đủ sức để chia buồn hay
khuyên nhủ bà. Vả lại, lát nữa đây, biết ai sẽ chia buồn ai.
Không nói ra, trong lòng mấy chục người trên chuyến hải hành vô
định này, cũng đang nghĩ đến cái chết.
-
Và
cứ thế, ngày thứ bảy, ngày thứ tám lần lượt trôi qua trong đói
khát và chờ đợi. Vài chiếc tàu biển đi ngang, xa tít ngoài khơi.
Những người đàn ông vội vã tẩm dầu vào áo quần đốt lên làm tín
hiệu. Không có một tín hiệu trả lời. Những chiếc tàu biển không
thấy hay thấy mà không quan tâm cứu vớt.
-
Ngày thứ mười. Trong lúc chị Hà đang thiu ngủ thì tiếng Khang
vọng xuống. "Có tàu đánh cá Thái Lan tới. Mấy bà, mấy cô trốn
xuống hầm hết". Hầm ghe quá nhỏ. Bước đâu cũng đạp phải người.
Một số đàn bà lấy dầu máy bôi vào mặt. Cuốn tóc cao để giả làm
đàn ông. Úp mặt vào lườn ghe không dám nhìn lên. Những câu
chuyện về hải tặc được nghe kể nhiều lần từ những người đi lọt
viết thư về, làm mọi người run sợ khi liên tưởng tới số phận
mình. Nắp hầm bị ai đó mở tung. Ánh sáng rọi vào, soi rõ những
khuôn mặt ngâm đen của đám thợ đánh cá Thái Lan. Chiếc ghe vượt
biển bị chúng kéo buột vào ghe đánh cá bằng sợi dây thừng lớn.
Từng người, bất kể đàn ông, đàn bà hay con nít đều bị kéo lên
khỏi miệng hầm. Tất cả phải cỡi áo quần để chúng khám xét. Nữ
trang, đồng hồ, tiền bạc đều bị chúng cướp sạch. Chúng khám xét
từng ngăn tàu, đâm thủng những thùng dầu, thùng nước uống, chúng
nghi ngờ có dấu tiền đô, vàng bạc. Số phụ nữ, khoảng hai chục
người, từ các bà mẹ năm sáu mươi tuổi cho đến mấy em bé chỉ hơn
mười tuổi bị dồn vào một góc. Đàn ông, con nít bị đẩy xuống dưới
hầm ghe. Một tên hải tặc cầm súng đứng trên miệng hầm ghe, trong
khi hai tên khác cầm dao chặt cá lớn bảng đứng chặn hai đầu.
Khám xét xong. Chúng thảo luận với nhau bằng tiếng Thái. Không
hiểu bọn hải tặc bàn nhau những gì, chỉ nghe tiếng chúng cười
sặc sụa. Một tên, có vẻ chỉ huy, liếc nhìn về phía đám phụ nữ
đang đứng. Hắn chầm chậm bước tới, nhìn kỹ mặt từng người. Mỗi
khi hắn chỉ vào ai thì hai tên hải tặc đàn em kéo cô gái bất
hạnh đó ra khỏi nhóm. Người thứ sáu và cũng là người cuối cùng
là chị Hà. Chị sợ hãi bật khóc. Mấy cô gái kia cũng khóc thét
lên. Một bà mẹ bước ra, quỳ xuống sàn ghe vừa lạy vừa khóc, xin
tha cho con gái mười lăm tuổi của bà. Nước mắt và những lời van
xin của bà mẹ không lay động được tâm hồn của những con người
không còn một chút lương tri. Bọn hải tặc cuốn dây để kéo chiếc
ghe lại gần hơn. Chúng đẩy chị Hà và năm cô gái cùng số phận
sang tàu đánh cá. Một tên đưa dao chặt đứt sợi dây thừng. Hai
chiếc ghe từ từ xa nhau. Bên kia, chị Hà còn nghe tiếng Khang
gào lên, trong đau thương, bất lực.
-
Sau suốt buổi chiều tàu chạy về hướng nam, nhóm chị Hà sáu người
được đưa đến một hòn đảo san hô. Bọn hải tặc ra lệnh họ bước
xuống tàu. Hai cô gái không bước nổi. Cô gái nhỏ tuổi ngã quỵ
lên một bụi san hô. Những mũi san hô nhọn như chông đâm vào đùi
cô, da thịt tướt ra, máu chảy đỏ cả đùi. Chị Hà và những cô gái
còn sức, gắng gượng dìu nhau lên đảo. Sáu người ngồi trong một
hang đá cách xa bờ, ôm nhau khóc. Một tên hải tặc ghé ngang, ném
cho họ một hộp giấy đựng cơm trắng và thùng nước uống nhỏ. Hắn
chỉ vào miệng ra dấu. Chị Hà chia mỗi người một nắm cơm và
chuyền tay nhau thùng nước. Không ai dám ngủ, hoang mang, lo
lắng nhìn nhau, liên tưởng đến một điều bất hạnh không tránh
khỏi. Đúng vậy. Khoảng nửa khuya, nhiều tiếng chân nặng nề đi về
phía hang đá. Hàng chục tên hải tặc trở lại. Ngọn đèn biển lẻ
loi trên đảo soi bóng đám hải tặc đang đi tới như những bóng ma
trơi. Chúng vực chị Hà và năm cô gái dậy. Kéo tay từng người ra
ngoài bãi cát. Một cô gái vừa cất tiếng khóc đã bị một tên hải
tạc đánh mấy bạt tai. Chúng hãm hiếp chị Hà trước. Những mủi kim
đâm đau buốt vào da thịt chị. Chị nhắm mắt, không khóc thành
tiếng nhưng nước mắt cứ tuôn theo cơn đau đang chạy dài vào tận
mỗi tế bào. Bọn hải tặc say sưa, điên cuồng, man rợ trên thân
thể của những cô gái Việt Nam yếu đuối. Và cứ thế chúng thay
phiên nhau hãm hiếp từng cô gái. Tiếng cô bé mười lăm tuổi bị
thương thét lên trong đau đớn. Không ai nghe. Không có Chúa và
Phật. Trên cù lao san hô ngoài vịnh Thái Lan chỉ có tiếng khóc
của sáu con chim non Việt Nam và tiếng cười man rợ của bầy ác
điểu Thái Lan. Sau vài giờ, bọn hải tặc ra đi, bỏ mặc sáu cô gái
với thân thể lõa lồ nằm ngất xỉu trên cát. Gần sáng họ cố lê lết
đến gần nhau, giúp nhau lau những vết máu còn đọng lại trong
thân thể trầy trụa và dìu nhau đi tìm chỗ nằm qua đêm. Đây chỉ
mới là đêm đầu tiên trong chuỗi ngày khổ nhục dài vô tận.
-
Buổi sáng, chiếc tàu hải tặc lại ra khơi. Chị Hà và một cô gái
gắng gượng đi vòng quanh đảo, với hy vọng mong manh tìm được một
nơi để trốn. Hòn đảo thật ra chỉ là một cù lao nhỏ trồi lên giữa
vịnh, chung quanh toàn là san hô nhọn, nhìn ra xa chỉ thấy mịt
mờ mây nước tận chân trời. Không ai biết nơi này là đâu, hòn đảo
này tên gì và ngày mai, đêm mai, đời họ sẽ ra sao. Cũng từ những
hốc đá đó, chị Hà biết rằng nhóm chị không phải là những người
đầu tiên bị bắt vào đây. Rơi rớt trong các hốc đá là những mảnh
áo quần rách tả tơi còn dính máu, dấu tích của những chống cự,
đấu tranh, cưỡng bức, hành hạ. Nhiều nơi còn có cả tên tuổi, địa
chỉ, chuyến ghe, ngày ra đi và bến bãi khởi hành của người bạc
hạnh. Một chỗ ghi: "Em là Lê Thị ..., phường ... thị xã Bạc
Liêu, ai đọc được xin báo dùm cho mẹ là bà Phan Thị ... biết".
Một chỗ khác: "Tôi là Nguyễn Thị ...., địa chỉ ....Cách Mạng
Tháng 8, Quận 10, Sài Gòn, bị bắt vào đây ngày 15 tháng 2 năm
1978. Ghe tôi có 74 người, vào đây còn sống được 21 người. Ai
đọc được tin này làm phước báo cho gia đình tôi biết". Và cứ
thế, trong mỗi hốc đá, mỗi mặt bằng, đều có dấu vết của những
người phụ nữ Việt Nam bất hạnh bị bắt đến trước, bị hãm hiếp
trước, và có thể đã chết trước.
-
Buổi chiều, khi nhóm chị Hà lay hoay chưa tìm ra một cách trốn
thì chiếc tàu đánh cá Thái Lan lại trở về. Chúng đem cho nhóm
chị một thùng cơm, một ít cá khô mặn và một thùng nước. Chị Hà
lại chia thành sáu phần và khuyên mọi người cố gắng ăn để sống.
Cô bé mười lăm tuổi, có bà mẹ quỳ van xin bọn hải tặc, không ăn
uống được. Sau một đêm bị hiếp dâm tập thể cô bé kiệt sức. Vết
thương do mũi san hô nhọn đâm vào đùi cô bé hôm qua cũng bắt đầu
nhiễm trùng. Chân cô sưng đỏ. Cô bé sốt. Miệng không ngớt gọi
"mẹ ơi" trong mê sảng. Chị Hà ngồi bên cạnh cô bé, thầm nghĩ,
nếu đêm nay bọn hải tặc quay lại đây hành hạ lần nữa như đêm
qua, cô gái này sẽ chết. Sau vài phút suy nghĩ, đắn đo, chị Hà
đứng dậy đi về phía cuối bãi, nơi chiếc tàu đánh cá đang thả
neo. Đám hải tặc ngạc nhiên nhìn chị, có tên bật cười hô hố. Chị
Hà chỉ về phía hang đá. Đám hải tặc nhìn nhau, bàn tán, cuối
cùng một tên đứng dậy đi theo chị. Chị Hà đưa tên hải tặc đến
chỗ cô bé bị thương ở đùi và chỉ vào trán cô gái. Hắn nhìn vết
thương sưng đỏ và sờ vào trán đang bị sốt của cô bé. Hắn không
nói gì, ra dấu cho chị đưa cô bé vào phía trong hang, rồi bỏ đi.
-
Nửa khuya, bọn hải tặc lại đến. Một tên cầm đèn pin đi trước.
Như đêm qua, chúng kéo từng người ra ngoài bãi, tiếp tục hành hạ
một cách man rợ. Chị Hà không khóc. Chị nằm im như một xác chết.
Đêm nay chị cảm thấy bớt đau hơn bởi vì trí óc chị chỉ tập trung
vào cô bé. Chị van vái chúng đừng hành hạ cô. Cũng may, tên cầm
đèn pin, chính là tên đi theo chị hồi chiều, đã dặn trước đồng
bọn hãy tha cho cô bé. Hắn đem theo đèn pin cốt để nhận diện cô.
Và cứ thế, ngày thứ ba, thứ tư, mỗi đêm đều có bọn hải tắc ghé
qua.
-
Đến ngày thứ năm, bọn chúng không trở lại. Nhưng chị Hà cũng
hoàn toàn không còn biết gì nữa. Không ai trong sáu cô gái còn ý
thức gì về những sự việc chung quanh. Sáu thân thể lõa lồ, nhầy
nhụa đang nằm chờ chết. Chỉ có chết mới không biết thế nào là
đau đớn. Chết là một lối thoát thanh thản nhất trong lúc này.
Chị Hà thiếp đi trong cơn mê.
-
Khi tỉnh dậy, chị thấy mình nằm trong một căn phòng bịnh viện.
Một bác sĩ người Mỹ, khoảng ngoài 60 tuổi, có đôi mắt hiền từ,
đang đứng bên cạnh. Bình nước biển treo trên góc giường. Ông tự
giới thiệu bằng tiếng Việt khá thành thạo, tên ông là John
Breston, làm việc thiện nguyện giúp người Việt tỵ nạn tại Thái
Lan từ hai năm nay. Ông bóc cho chị một múi cam. Chị đưa tay
trái cầm lấy. Chỉ khi đó, chị mới biết mình sống sót. Ông biết
rất rõ chị từ đâu tới nhưng không nhắc gì về những chuyện đau
lòng đã xảy ra. Chị nhìn chung quanh nhưng không thấy có ai
quen. Chị hỏi ông về số phận của năm cô gái đồng cảnh ngộ, nhất
là cô bé mười lăm tuổi. Bác sĩ Breston cho chị biết sau khi
được tàu hải quân Thái Lan cứu vớt, họ đã được chuyển đến nhiều
bịnh viện khác nhau. Mọi người đều đang dần dần bình phục. Chị
Hà nằm trong bịnh viện gần một tuần lễ, trước khi được chuyển về
trại Panat Nikhom để lo thủ tục định cư. Chị hỏi thăm văn phòng
Cao Ủy và những chuyến tàu đến cùng một thời gian với chị nhưng
không một ai biết gì về Khang, cũng như số phận chuyến tàu khởi
hành từ Chu Hải.
-
Khoảng hai tuần sau khi xuất viện, chị Hà lại phải trở vào bịnh
viện. Chị nghĩ có thể chỉ là một cơn sốt nhẹ. Bác sĩ Breston,
sau khi khám sức khỏe, thử máu, dặn chị Hà ngày mai trở lại.
Sáng mai, khi chị đến, bác sĩ Bresten mời chị vào phòng riêng.
Ông lật hồ sơ bịnh lý của chị, nhìn chăm chú vào mắt chị và nói
nhỏ, thật nhỏ, như chỉ để một mình chị nghe. Chị Hà không tin
những gì bác sĩ Breston nói là sự thật. Ông đưa chị coi kết quả
thử nghiệm. Chị Hà vừa coi xong là ôm mặt khóc. Như một người
cha hiền từ, bác sĩ Bresten bước tới đặt tay lên vai chị và an
ủi: "Khóc đi. Hãy khóc nhiều như cô cần được khóc. Nhiều khi
không có phương thuốc nào tốt hơn là nước mắt". Một hồi lâu, khi
nước mắt giúp vơi dần cơn đau xót, chị lấy hết can đảm nói:
"Phải bỏ nó đi, bác sĩ ạ". Chị cay đắng nói tiếp: "Đó là di sản
của một tội ác". Chị Hà kể lại một cách chi tiết hành trình vượt
biên mà chị và năm cô gái đã trải qua. Bác sĩ lắng nghe một cách
trang trọng và cảm thông. Cuối cùng ông chậm rãi: "Vâng, điều đó
tùy ở cô. Trong tư cách bác sĩ, tôi sẽ làm theo quyết định của
cô, mặc dù như một con người, tôi không hẳn đồng ý như vậy".
Không đợi chị Hà phản ứng, ông tiếp: "Bởi vì, làm thế nào cô
biết đó là di sản của một tội ác? Và dù có đúng đi nữa, di sản
đó không thể là tội phạm khi nó chỉ là một bào thai". Ngừng một
chút ông giải thích: "Năm cô gái trong cùng chuyến của cô đã
được chuyển sang nhiều trại khác nhau để bảo vệ quyền riêng tư
và an toàn cho tương lai họ. Chuyện của cô ở đây không ai biết.
Chúng tôi, thậm chí, cũng có thể đưa cô ra ngoài trại, sống với
một nhà bảo trợ, sau khi sinh xong và nghỉ ngơi, chúng tôi sẽ
giúp cô hoàn tất thủ tục định cư". Chị Hà thắc mắc: "Còn đứa
bé?". Bác sĩ đáp: "Đứa bé vô tội. Chúng tôi sẽ có người lo lắng
cho nó. Hội thiện nguyện sẽ tìm cho nó cha mẹ nuôi để nuôi dưỡng
nó nên người. Nó có thể không biết quá khứ của cha mẹ đã sinh ra
nó nhưng chắc chắn sẽ có một tương lai tốt đẹp như bất cứ đứa
trẻ nào khác trên thế giới". Chị Hà mềm lòng trước sự tha thiết,
tình thương người, tính thuyết phục trong lý luận của bác sĩ và
bản tánh hướng thiện tự nhiên của chị, nên chấp nhận đề nghị của
ông.
-
Bào thai mỗi ngày một lớn. Đêm đêm chị nằm lắng nghe tiếng cựa
của đứa bé sắp chào đời và thương cho số phận bất hạnh của con
như thương lấy chính cuộc đời khốn khổ của chị. Đứa bé sẽ không
biết cha và cũng sẽ không biết mẹ. Làm sao một con người có thể
"sống xứng đáng như mọi đứa trẻ khác trên thế giới", như lời ông
bác sĩ nói, nếu sinh ra không cha mẹ, không quá khứ? Và khi giao
nó cho hội từ thiện, chị sẽ làm gì với cuộc đời còn lại của
mình? Chị sẽ về đâu trong trái đất nầy? Chị không thể về lại
Việt Nam để sống với bà vợ kế của ba. Khang có thể đã chết. Cho
dù Khang còn sống đi nữa, chị cũng không nên gặp lại Khang. Gặp
lại để làm gì. Bên kia sông không phải là ánh mặt trời như
Khang thường lý tưởng hóa mà là bóng tối, là lỡ làng, khinh rẻ.
Người duy nhất trên đời này, cùng cảnh ngộ bất hạnh như chị
không ai khác hơn là đứa bé đang nằm trong bụng chị. Bác sĩ
Breston nói đúng một điều: đứa bé hoàn toàn vô tội. Chị đưa tay
vuốt ve chiếc bụng tròn như để xin lỗi và hứa với con: "Mẹ sẽ
sinh con ra, sẽ ẵm con đi một nơi thật xa, ở đó sẽ không ai biết
đến mẹ con mình. Mẹ sẽ nuôi con nên người. Chúng ta sẽ sống với
nhau. Con có thể sẽ không bao giờ biết đến quá khứ của cha mẹ
con, nhưng con sẽ có tương lai bởi vì con có mẹ". Buổi chiều
ngày 11 tháng 6 năm 1980, thằng bé cất tiếng khóc chào đời trong
một bịnh viện nhỏ ở Bangkok. Mẹ nó cũng khóc, và ngay cả khóc
nhiều hơn nó. Bác sĩ John Breston bảo chị đặt tên con. Chị đáp:
"Hãy đặt tên nó là Biển, bởi vì nó là con của biển". Chị giữ lại
họ Lê, là họ của Khang để làm kỷ niệm. Sáu tháng sau, đích thân
bác sĩ John Breston lái xe đưa mẹ con chị Hà ra phi trường đi Mỹ
định cư.
-
Hai mươi hai năm sau. Hai mươi hai năm chị sống trong âm thầm và
chịu đựng. Chị không muốn ai biết về mình. Hai mươi hai năm chị
sợ hãi và trốn tránh con người. Hai mươi hai năm, sáng nay là
lần đầu tiên chị giận dữ với con ngay trước mặt người vợ chưa
cưới của nó.
-
Tại sao? Chị tự hỏi. Tại sao chị có thể phản ứng như thế được
nhỉ? Chị đã hy sinh hai mươi hai năm, tại sao chị lại không thể
hy sinh một lần chót vì hạnh phúc của con? Lẽ ra chị nên vui khi
thấy con trai duy nhất của chị sắp sửa có một gia đình, một
người vợ do chính nó chọn lựa. Lẽ ra chị nên vui khi đã làm xong
lời hứa với chính mình hai mươi hai năm trước. Đúng thế. Chị
chưa sống trọn vẹn với lời hứa của mình. Chị hối hận về thái độ
khắt khe của mình ban sáng. Chiều nay, nếu Biển trở về nhà, chị
sẽ xin lỗi con. Biển ngoan lắm, chắc chắc nó sẽ vui và tha thứ
cho mẹ. Chị thầm hứa sẽ không buồn, không rơi nước mắt khi tiễn
con đi về California với vợ. Còn đời chị? Chị cười chua chát.
Chị làm gì có cuộc đời riêng. Cô giáo viên Trần Thị Thu Hà đã
chết trong một đêm trăng khuyết trên đảo san hô năm đó. Chị Hà
vội vã đứng dậy để về gặp con.
-
Một người đang đứng chờ sau lưng chị từ lâu. Chị quay lại, thì
ra đó là Biển: "Bạn con đâu?" Chị hỏi trong lo lắng. Biển đáp:
"Cô ấy về California một mình rồi. Chúng con đã chia tay nhau".
Chị Hà thắc mắc: "Tại sao?". Biển không nói, bước tới ôm chầm
lấy mẹ: "Mẹ. Mẹ tha thứ cho con. Con xin lỗi mẹ. Khi mẹ ra về
con mới hiểu ra rằng con có thể sống không có Linda nhưng không
thể không có mẹ". Chị Hà cảm động đến rơi nước mắt. Chi vuốt mái
tóc hơi quắn của con: "Con tôi thật sự trưởng thành rồi". Hai mẹ
con ôm nhau khóc. Lần đầu tiên trong đời mình, chị Hà khóc vì
hạnh phúc, một khái niệm mà hơn hai mươi năm chị chưa từng nghĩ
tới. Tháng sau, Biển được nhận làm kỹ sư cơ khí hàng hải cho một
hãng tàu buôn lớn ở
Boston.
Hai năm sau Biển lập gia đình với một cô gái Việt Nam hiền hậu.
Chị Thu đặt tiền ứng trước để mua tặng vợ chồng Biển ngôi nhà
của cụ Paul, để làm quà cưới cho con. Và sau đó không lâu, khu
nhà yên tĩnh vùng biển, lại lần nữa vang lên tiếng khóc trẻ thơ,
báo hiệu một sự sống vừa mới ra đời để nối tiếp cuộc vận hành
biến diệt không cùng của thời gian và vũ trụ.
-
Trần Trung Đạo
Mother's Day 2003
--o0o--
|
|