|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Câu Chuyện Nhà Sư
-
Nguyễn Bá Học
-
--o0o--
-
-
Ngày tháng 6 năm 1906, vừa độ các trường nghỉ hè, tôi cũng đi
thăm một vị sư ở chùa hàng Bưởi, về hạt Thuận Thành tỉnh Bắc
Ninh. Đến nơi thì bản sư cùng tăng chúng đi học hạ (1) bên chùa
Thiên Thai, từ mấy hôm trước. Bấy giờ trời đã gần hôm, tôi phải
nghỉ lại đó. Một mình ngồi trong phòng khách trông sang hiên
tây, vắng ngắt không có người đi lại. Bóng chiều phản chiếu, lá
cây lẫn với rêu sân một màu nhàn nhạt, trong cảnh thanh tịch
hiện ra một cái vẻ thê lương, khiến cho lòng kẻ khách du ngao
ngán nỗi mây ngàn hạc nội.
-
Trong một cái phòng sâu và tối, nghe có tiếng người ho khoải
khắc(2). Hỏi ra mới biết là một vị du tăng (3) tạm trụ cảnh chùa
để xem kinh và dưỡng bệnh. Tôi liền tới nơi, có ý cùng sư nói
mấy câu chuyện nhà chùa cho khuây cơn sầu tịch.
-
Bước vào, vừa thấy một người chừng năm mươi tuổi, mặt xanh mình
gầy, ngồi tựa lưng vào cột, nét mặt đăm đăm, trông ra cửa sổ,
thỉnh thoảng thở dài một cái, như đem bao nhiêu cái uất cái não
đã chất chứa trong óc nhờ hơi thở để tiết ra bên ngoài. Tôi khẽ
lên tiếng mà chào:
-
- A di đà Phật! Tôi là người có quyến thuộc với sư bản tự (4)
đến chào người.
-
--------------------------------------------------
-
1. Mỗi năm, sư tăng phải tập trung học tập kinh sách một thời
gian, vào mùa hạ, nên gọi là "kết hạ", "đọc hạ".
-
2. Như khúc khắc
-
3. Vị sư đi vân du nơi này nơi khác.
-
4. Chùa sở tại.
-
--------------------------------------------------
-
Người kia nhìn tôi lúc lâu, rồi nói một tiếng nặng nề rằng:
-
- Thầy hãy đứng xa tôi ra. Tôi là một người có tội: tôi là người
sắp xuống địa ngục. Thầy hỏi tôi làm gì?
-
Tôi nghe nói phát lạnh cả người, như mình đứng bên ma quỷ. Tôi
nói:
-
- Tội nghiệp thay, người ở cảnh nào? Người có bệnh gì? Sao người
không vào nhà thương mà uống thuốc?
-
Người kia nói:
-
- Tôi không có nơi thường trụ. Bệnh tôi đã lâu, không có thể
chữa khỏi, mà cũng không ai có thể chữa khỏi; chẳng bao lâu mà
tôi sẽ ra người dưới cửu trùng địa ngục. Thôi, thầy về phòng
khách mà nghỉ.
-
Nói rồi cứ đăm đăm trông ra cửa sổ.
-
Tôi lui về phòng khách, cứ một mình mình nghĩ: người này hẳn có
oan nghiệt gì đây, cho nên cái lương tâm nó cứ dõi theo mà cắn
giắt (1), ấy là một sự hình phạt rất nặng. Than ôi sinh, lão,
bệnh, tử là bốn nghiệp của loài người, đã có thân phải có
nghiệp. Kìa người đã xả thân diệt tục còn phải mang lấy nghiệp
vào mình, huống chi người túng dục tứ tình (2), biết bao giờ cho
ra khỏi bến mê bể khổ.
-
Đương ngồi đương nghĩ thấy thoáng có bóng người vào cửa, như có
hơi gió lạnh thổi lọt vào mình, sởn cả gai ốc. Trông ra thì là
người bên tây hiên, bước vào kéo ghế mà ngồi. Tôi cũng vội vàng
đứng lên mà chào hỏi. Người kia liền nói:
-
- Hẳn thầy đang nghĩ ngợi về việc tôi. Nếu tôi không nói chuyện
cho thầy nghe, để cái nghi đoan (3) bận trí khôn cho thầy cũng
không phải. Vả lại, chẳng bao lâu mà tôi sẽ bỏ cái thế giới này,
cũng nên đem chuyện mình để làm gương cho thiên hạ. Tôi xem thầy
cũng là người văn sĩ, cũng nên ký lấy những nỗi khắt khe ở đời,
điều hay để mà khuyên, điều dở để mà răn, cũng không phải là sự
vô ích.
-
--------------------------------------------------
-
1. Cắn rứt.
-
2. Buông thả tình dục.
-
3. Mối ngờ.
-
--------------------------------------------------
-
Tôi nói:
-
- Người ta ai cũng có điều hay điều dở, hễ biết dở ấy là người
hay. Cho nên đạo Thích ca cho chúng sinh sám hối, đạo Thiên chúa
cho con chiên rửa tội. Nếu người đã sẵn lòng nói thật, tự mình
không phụ với lương tâm, trời Phật nào chẳng chứng minh cho lòng
người ngay thật.
-
Người kia ngồi đối diện với tôi mà nói:
-
- Tôi họ Trần, hiệu là Nguyễn Khuê, người Hà Đông. Cha mẹ mất
sớm ở với chị, cũng cho ăn đi học. Năm 15 tuổi chị chết, anh rể
lấy vợ khác, thế không ở được, phải bỏ mà đi. May gặp một bà họ
Lý, ở một làng bên, thấy con nhà khốn khó, đem về mà nuôi. Bà
không có con trai, chỉ nuôi một người cháu gái tên là Lý cô. Bà
thấy tôi đã lớn, cho lên tỉnh vào tràng (1) Pháp Việt mà học.
-
Nghĩ tôi có khác gì chiếc lá lìa rừng, con chim lạc tổ; sao cho
khỏi sa ngã chìm đắm đã là khá, còn mong gì sự học hành, dù có
thiên tư thông tuệ thế nào, cũng phải đoạ lạc ra con nhà thất
giáo (2). Nay thân trầm luân đã được nhờ tay tế độ, được ấm no,
có giáo dục tưởng cái ân cái nghĩa ấy, biết lấy gì mà trả cho
phu (3).
-
--------------------------------------------------
-
1. Trường.
-
2. Như thất học.
-
3. Có lẽ là phủ hoặc phù: vừa, đủ.
-
--------------------------------------------------
-
Một hôm nhân ngày nghỉ học, tôi về thăm Lý bà. Bà lấy mẹ con mà
xưng hô, tình âu yếm, cách ôn tồn, đã cảm động lòng tôi cho đến
rơm rớm hai hàng nước mắt. Tôi nói: "Tôi là một đứa con nhà bạc
đức, đã không cha không mẹ lại không anh không em. Trời đất sinh
tôi ra có ý đày đoạ vào một đời khốn cùng khổ nhục, dù bà có
lòng từ thiện thế nào, không tô điểm đất bùn cho nên tượng
được". Lý bà nói: "Già hiếm hoi, thèm chút con hiền cháu thảo,
thấy con cũng là con nhà lương thiện, coi người dĩnh ngộ, có vẻ
thông minh, để già sớm khuya bầu bạn và tin cậy về sau. Con ôi,
đường sinh phúc con còn dài, việc gì mà lỗi chí (1). Từ nay mẹ
khuyên con phải phấn phát tinh thần, học hành tấn tới cho bằng
người, cho khỏi phụ lòng mẹ đã thương con ngày nay". Nói rồi Lý
bà gọi Lý cô đến mà bảo: "Nay Trần sinh đã là người trong một
nhà, cháu phải lấy đạo anh em mà xử, không có điều gì phải hiềm
nghi, phải giúp anh mày những việc mà mày có thể làm được". Lý
cô nghe nói, khẽ ngoảnh lại mà chào tôi, rồi cứ cúi đầu mà đứng.
Tôi vô ý cứ chú mắt mà nhìn, làm cho Lý cô thẹn đỏ cả tai cả cổ.
Lý bà biết ý gọi Lý cô ra ngoài nói sang chuyện khác. Tôi cũng
ngơ ngẩn hồi lâu, rồi xin trở về trường học.
-
Tự bấy giờ Lý cô thường đem tiền gạo cho tôi ở nhà trọ, vá may
giặt gịa đều là việc Lý cô. Lần kia tôi phải đau ở nhà trọ, một
tay Lý cô thuốc thang cơm nước; thực là một người có nữ công, có
đức hạnh; con nhà khuê tú chưa dễ đã có mấy người. Vả từ thuở
nhỏ đã quen ăn cần ở kiệm, không nhiễm một chút gì là thói đãng
tình kiêu.
-
Một bữa, Lý cô bưng thuốc đến, tôi lấy lời cảm tạ mà bảo Lý cô
rằng: "Lý cô đã khó nhọc với tôi là biết dường nào! Tôi là con
nhà bạc đức, sống thác có kể chi mà cái ân cho toàn, nghĩa trân
trọng của Lý cô tôi biết lấy gì mà đền bù cho xứng đáng?" Lý cô
nói: "Việc giúp đỡ anh em cũng là việc trong nhà, có gì mà kể ân
kể nghĩa". Tôi nói: "Tôi thương Lý cô hết lòng, không biết Lý cô
có thương tôi như thế không?" Lý cô nói: "Anh em thương nhau là
lẽ tự nhiên". Tôi nói: "Tuy nhiên, chẳng những tôi thương Lý cô
vì tình anh em, và thương Lý cô vì tình...:". Nói đến đây tôi
ngừng lại. Lý cô lại hỏi: "Còn vì tình gì?" Tôi nói: "Vì tình ân
ái". Lý cô nhìn tôi một cách nghiêm nghị mà nói: "Tôi không hiểu
lời anh nói. Thôi anh uống thuốc đi kẻo nguội, tôi cũng phải về
kẻo cô mong".
-
--------------------------------------------------
-
1. Bại chí.
-
--------------------------------------------------
-
Nói rồi thảo thảo (1) ra về, đến cửa còn trông lại.
-
Bấy giờ tinh thần tôi chuyên chú vào mình Lý cô. Lý cô mới mười
sáu tuổi, kém tôi hai tuổi. Như trăng còn non, như hoa còn tụ,
chưa có thể lấy tình động, lấy ý dụ. Vả Lý bà đã hứa nhận mình
là con nuôi, hẳn không có ý cho mình là cháu rể. Nếu nghe Lý cô
kể lại những lời thô bỉ của mình vừa rồi, có khi bao nhiêu lòng
âu yếm xưa nay sẽ đổi ra tình yếm bạc (2). Tôi cứ nghĩ quanh
nghĩ quẩn, nửa thẹn nửa buồn. Sau thấy Lý cô vẫn đi lại như
thường, mới yên lòng dần dần. Từ đó không còn dám giở thói khinh
bạc ra nữa. ấy là sự giao thiệp lần thứ nhất của tôi với người
họ Lý; mà chính là điều ân sâu tình nặng đã in sâu vào óc đã
nhuộm vào lòng, không bao giờ tôi quên đi cho được.
-
Năm 20 tuổi, tôi thi đỗ thông ngôn (3), 21 tuổi bổ lên thượng
du. Vừa được bảy tháng thuỷ thổ bất phục (4), phải cáo mà về.
Lần ấy Lý cô lại vất vả nuôi tôi hơn là lần trước.
-
Một tối tôi đang băn khoăn dằn dọc vì mối tình riêng, Lý bà liền
lại mà hỏi rằng: "Nay bệnh con đã thanh thả, sao còn trằn trọc
canh khuya! Nay con đã đến ngày khôn lớn, mà mẹ cũng một tuổi
một già, mong cho con trẻ sớm thành gia thất, để già được yên
lòng. Nay Lý cô là con nhà có nết, có thể giúp cho con trong
việc tảo tần, thực đã hoa vừa thắm cánh, trăng vừa tròn gương;
để đợi ngày lành tháng tốt, mẹ hãy định liệu cho chúng con thành
duyên phu phụ".
-
Tôi nghe nói như thừa ngọc sắc (5) tự chín tầng mây trời chuyền
xuống, mừng mừng tủi tủi, không biết lấy gì mà hình dung.
-
--------------------------------------------------
-
1. Tất tả, qua loa.
-
2. Khinh rẻ.
-
3. Phiên dịch
-
4. Không hợp thuỷ thổ.
-
5. Nhận được sắc chỉ quý báu.
-
--------------------------------------------------
-
Chẳng bao lâu nguyện xưa đã vẹn, duyên mới càng nồng, thực là
cái hạnh phúc mà sinh bình tôi mới được hưởng là lần thứ nhất.
Bây giờ Lý bà đã nên vật hóa (1), Lý cô cũng còn phải trầm oan.
Trời ơi! Biết bao giờ...
-
Đến đấy tiếng thổn thức làm cho dứt câu nói, cứ gục đầu xuống
cánh tay mà khóc, nước mắt ròng ròng, không ngẩng đầu lên được.
-
Chưa biết câu chuyện kết cục ra làm sao, mà cái tình đau đớn của
người này đến cực điểm. Một lúc nhà sư lại ngồi ngay lên, hai
tay ôm lấy ngực, lông mày chau lại thành một cái rãnh giữa trán,
vai so lên tận tai. Trông bộ gớm ghiếc, như một người tù bị giam
đã lâu nay đem ra mà hỏi án.
-
Tôi trông mặt cầm lòng không đậu, bảo hãy ngồi yên mà nghỉ cho
khỏi mệt. Nhà sư mỉm cười miễn cưỡng làm bộ mạnh mẽ, cho tôi
khỏi chán. Rồi cứ tiếp tục mà nói: "Chúng tôi cùng hưởng cái lạc
cảnh đoàn viên trong gia đình được hơn một năm, sinh được một
đứa con trai, rồi tôi lại bổ ra làm thông ngôn dưới tàu trận
(2), nay đóng cửa này, mai ra bể nọ. Từ bấy giờ lại kẻ ra hồ thỉ
bốn phương, người chịu sớm hôm chiếc bóng, sum họp có ít biệt ly
thì nhiều; thương thay! Sự sinh hoạt của chúng tôi nó đã tiêu ma
mất bao nhiêu là cái thanh niên hạnh phúc!
-
Sáu năm sau tôi mới lại được đổi về toà Sứ ở trung châu, thì Lý
bà mất đã hết việc (3), bao nhiêu di sản cũng để lại cho vợ
chồng tôi. Đứa con trai tôi cũng đã biết đi học. Làm việc ở toà
Sứ như tôi cũng là bậc có danh giá, từ tỉnh quan cho đến phủ
huyện ai cũng tới lui, cho nên bổng lộc cũng nhiều mà chi tiêu
cũng lắm. Tưởng ngày nào vợ còn cắp từng rổ khoai, đội từng
thúng gạo đi nuôi chồng, nay đã dù che ngựa cưỡi, ăn trắng mặc
trơn, sự hy vọng của chúng tôi, tưởng thế đã là mãn nguyện.
-
--------------------------------------------------
-
.1. Hóa thành vật khác, tức đã chết.
2. Tàu chiến.
3. Mãn tang.
-
--------------------------------------------------
-
Ai ngờ no đủ sinh ra dâm dật, quyền quý sinh ra kiêu căng; sự
tai hoạ ở đời thường phát đoan (1) từ những khi đắc chí.
-
Một hôm tôi vừa ở nhà hầu ra thấy có cái xe sừng sực (2) trước
mặt đi lại, một người trong xe bước xuống mà nói: "Thầy quên tôi
rồi ư? Tôi đã đến mấy hôm nay, cứ đi tìm thầy mãi". Tôi cũng
mừng rỡ mà nói: "Chào cô Ba". Cô Ba nói: "Quan lớn tôi đã về, có
khi không sang đất thuộc địa nữa". Tôi vừa cười vừa nói: "Thế
thì cô Ba càng được tự do". Cô Ba nói: "Phải, chẳng thế sao tôi
được đến đây mà tìm thầy?".
-
Nguyên người này là vợ một viên quan ở tàu trận. Vẫn ở trên bộ,
trước có dan díu cùng tôi. Ngày nay lại gặp, không kịp tính gần
tính xa, cứ đón rước về nhà, nhận là người quen thuộc cũ.
-
Đại để những người đã lũa (3) đường giao thiệp, không quen lấy
lễ phép buộc mình, từ lời ăn tiếng nói cho đến nết đứng nết
ngồi, đều đủ cho người ta chỉ trích. Trong bấy nhiêu ngày cô Ba
lui tới ở nhà tôi thì Lý cô miệng nói không ra, mà thực như đanh
đóng trong con mắt.
-
Sau tôi phải thuê một cái nhà khác cho cô Ba ở, mà một mình tôi
cứ tả xung hữu đột, như ông chiến tướng đứng giữa trùng vi. Một
là tránh cho khỏi tiếng chì tiếng bấc trong gia đình, hai là dê
béo rượu nồng; ai thấy của trời mà chẳng tiếc. Thân thế tôi bấy
giờ chẳng khác gì Tiết Đinh Sơn đã hãm vào mê hồn trận, lên,
lui, tả, hữu, chẳng còn bước nào là một bước quang minh. Mấy nơi
ca quán, mấy chỗ để trường, không chỗ nào là không có tôi với cô
Ba làm khai mạc chủ.
-
--------------------------------------------------
-
1. Bắt nguồn.
2. Như sừng sững.
3. Lũa: thạo, sành.
-
--------------------------------------------------
-
Một hôm canh đã tàn, rượu đã tỉnh, cô Ba ngần ngại mà nói với
tôi rằng: "Sự hành lạc của chúng ta nay sắp đến ngày thu cục
(1), vậy phải liệu mà tính cách duy trì, cuộc cạnh tranh có
nhanh chân, nhẹ bước mới hơn người, nếu ngồi chờ nước đến chân
có khi nhỡ bước. Tôi ngắm anh cũng có vẻ phát đạt, sao anh không
liệu thế mà ra làm quan? Cứ lấy tài lực tôi mà xem, tưởng cũng
là việc dung dị (2)". Mới nghe thấy hai chữ "làm quan" thì tôi
rộn rịp cả tâm thần, như ai đã mở lá cờ trong bụng, xưa nay chỉ
tơ tưởng quan lớn, bây giờ hóa ra sự thực thì biết đâu? Tôi vội
vàng hỏi: "Nói chơi hay nói thật? Đường sĩ hoạn bây giờ mỗi ngày
một hẹp; có phải đồ trong túi đâu để tuỳ ý mình vơ vét". Cô Ba
tủm tỉm mà nói: "Không phải nói chơi. Nếu mấy tay cốt yếu với
mình đã là người quen; nhất sắc nhị tài (3), thiên hạ còn có sự
gì là khó!".
-
Tôi mới nghe, mặt nóng lên bừng bừng, sau lạnh như nước đổ vào
lưng, bao nhiêu ý khí tiêu ma đi đâu mất cả. Nghĩ mình với người
này chẳng qua là duyên gặp gỡ, có lý gì lấy trinh bạch mà buộc
nhau. Và xem tính tình cô Ba như chim ngoài lồng, như thú sổ
cũi, hồ dễ chịu cho ai lung lạc hay cơ mi (4), của tam bảo chỉ
để bố thí cho thập phương ai có duyên thì hưởng. Tôi làm bộ ngẩn
ngơ mà nói: "Tôi coi cô Ba mày cao trán rộng, đường đường một vị
phu nhân, mà trong số tôi quan lộc có đào hồng lại là số công
danh phải nhờ nội trợ. Không biết cô Ba sẽ liệu ra cách nào?".
Cô Ba nói: "Muốn ăn lãi thì phải bỏ vốn. Thầy cần phải chuộc về
cho tôi mấy bọn đồ vàng là đồ cần dùng của tôi, còn việc gì nữa
thì cứ mặc tôi tuỳ cơ ứng biến".
-
--------------------------------------------------
-
1. Kết cục.
2. Dễ dàng.
3. Thứ nhất là sắc đẹp, thứ nhì là tiền tài.
4. Cơ my hay ky my là dây giàm ngựa, bò, ý là ràng buộc.
-
--------------------------------------------------
-
Tôi vội vàng về nhà vơ vét được bao nhiêu đưa cả cho cô Ba mà cô
Ba vẫn còn chưa đủ dụng. Nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn mấy bức văn tự
của di sản Lý bà để lại và còn ở tay Lý cô, phải lập thế mà lấy
cho được, thế là hết.
-
Tối hôm ấy về nhà, thấy Lý cô đang ngồi dưới bóng đèn mà vá áo.
Tôi ghé lại mà bảo rằng: "Nay vì chút công danh nên phải tiêu
cũng tốn. Tôi muốn mượn mấy bức văn tự của Lý bà để lại. Rồi đây
có bổng có lộc lại kiếm ra bằng trăm bằng nghìn bấy nhiêu, bấy
giờ cũng của chồng công vợ chớ đi đâu mất mà sợ". Lý cô vội gạt
lời tôi đi mà nói: "Thôi, lâu nay tôi đã biết thân phận mẹ con
tôi rồi. Công danh phú quý cũng xin nhường cả cho ai. Thầy hãy
xem tôi bây giờ đã mình trần tay trắng còn có cái gì mà cho ai
nhờ được nữa".
-
Nghe mấy tiếng châm phong (1), tôi đã tím gan tức ruột phải bấm
bụng mà lui ra. Vừa gặp cô Ba vồn vã mà hỏi: "Này, đây vừa có
tin may mắn lắm, thật là cái dịp tốt cho mình. Nào khoản tôi bảo
thầy biện đã đủ chưa? Sợ chậm ra thì nhỡ cả".
-
Nhiệt trường của tôi bấy giờ lại nóng như lửa đốt. Nghĩ đến mấy
bức văn tự phải dùng vũ đoán mới xong. Tối hôm ấy lại về nhà,
không thấy Lý cô ngồi ngoài. Hỏi con ở nói Lý cô đau bụng, từ
mấy bữa không ăn, phải uống thuốc mới vào phòng nghỉ.
-
Tôi biết ngay Lý cô thóai thác: vợ con như thế, còn nhờ nhau lấy
gì! Tôi vào ngay chỗ nằm mà hỏi: "Mấy bức văn tự cô để đâu? Nếu
cô chối tôi một lời là có sự chẳng lành đến tính mệnh". Lý cô
còn tưởng là nói doạ, cứ thủng thỉnh mà nói: "Văn tự nào của
thầy mà cứ tra hỏi?". Nói rồi lại cứ nằm vật xuống. Tôi căm quá,
vừa bước ra rít lên một tiếng. Như có người giẫy lại, hai con
mắt nóng như kéo màng, bao nhiêu mạch máu trong mình sưng lên
hết. Bấy giờ tôi trông thấy Lý cô như người đi săn đè được con
thú dữ, cố đánh cho thật phải phục xuống kẻo chạy thóat đi
chăng. Khi đã móc được cuốn văn tự ở trong lưng Lý cô, thì Lý cô
không còn một hơi thở. Tôi cũng bước rảo ra mà đi thẳng. Đem
cuộn văn tự ký lấy mấy trăm đồng bạc mà đưa hết cho cô Ba.
-
--------------------------------------------------
-
.1 Như mũi kim chích vào mình.
-
--------------------------------------------------
-
Mấy hôm sau, lén về nhà, vừa đến cửa đã thấy rộn rịp kẻ vào
người ra, nghe nói Lý cô phải chứng băng huyết đã mấy hôm nay
nguy lắm. Thấy nói chột dạ mà mình không mặt nào dám vào trông
thấy Lý cô, cứ bàng hoàng thất thế, như người không hồn không
vía. Dù xin phép ở nhà nuôi vợ ốm, cũng cứ lẩn lút một nơi, bưng
mặt mà khóc.
-
Một hôm thấy thằng con chạy lại, mắt hoe hoe đỏ nói: "Mẹ cứ gọi
thầy mãi, xin thầy vào". Tôi liền theo đứa con mà vào. Lý cô còn
trông tôi miệng muốn nói mà không nên tiếng nữa. Tôi đứng chân
không vững, dựa mình vào vách, hai tay bưng lấy mặt, tưởng mình
như một đứa tù nặng đưa ra mà xử án. Thấy có người vực tôi ra
ngoài rồi mê thẳng đi. Việc Lý cô mất rồi tống táng ra làm sao
không biết gì nữa.
-
Bâng khuâng tưởng mình ra khỏi cửa lại tìm đến nhà cô Ba. Trông
lên nhà gác, không có bóng đèn, đã hồ nghi. Hỏi người ở nói: "Cô
đi chơi ngay từ hôm thầy không ở đó". Hỏi cô đi với ai? Người ở
nói: "Cô đi với một ông khách lạ". Tôi tưởng chẳng có lẽ thấy
anh vừa dốc túi mà chị đã đổi lòng; hẳn cô này đi vận động câu
chuyện của mình, hãy chờ lâu thế nào cũng có giai tín. Cô này
những lúc biếng son nhạt phấn, tóc xoã ngang vai áo che nửa
ngực, cũng đủ cho người ta điên đảo, huống lại vàng đeo ngọc
giắt, gấm bọc hoa cài, thì sắt nào mà chẳng ngây, đá nào mà
chẳng chuyển.
-
Tôi lại thơ thẩn đi ra, vừa đến cửa nhà hát, thấy suýt qua một
cái xe ngựa. Người trong xe chính là cô Ba ngồi với một người
luật sư, nhác thấy tôi ngoảnh mặt làm thinh, giục đứa đánh xe ra
roi cho ngựa tế.
-
Tôi cứ đứng đực một bên đường, rồi đến nhà một người chị em mà
hỏi chuyện, vừa đến, người chị em đưa cho tôi cái thư của cô Ba
để lại. Tôi bóc tuột cái thư ra mà xem. Thư rằng: "Anh Phán, khi
anh đọc cái thư này, thì tôi đã thuộc về tay một người khác.
Duyên kỳ phùng chúng ta có thế mà thôi, không còn bồi tiếp với
anh được nữa. Xin anh về hà mà hưởng cái hạnh phúc vợ hiền con
thảo, bấy giờ sẽ quên có biết một người con gái tên là cô Ba.
Cái khoản anh đã gửi cho tôi cũng đủ chi son phấn. Cảm ơn anh
lắm".
-
Đọc cái thư rồi, mắt nẩy đom đóm, tay run cầm cập, như con thú
dữ phải cái tên thuốc mà phát điên. Muốn hét lên một tiếng: "Ai
ngờ?" giật mình thành ra một cơn ác mộng.
-
Biết chính mình đã phạm một tội rất lớn là tội giết người, biết
Lý cô đã chịu khuất nhục đau đớn mà chết; biết cái lòng tham dục
mình nó đã đưa dắt mình vào những đường tội lỗi, biết nhân tình
thế lợi chẳng qua là một cảnh chiêm bao, bấy giờ óc tôi không
sao mà chứa cho hết những điều hối hận. Thôi! Mình đã vị một
người xấu xa, rất hèn hạ, mà phụ với một người đáng quý hóa,
đáng ơn nghĩa; mặt mũi nào còn đối với mọi người? Lý cô có biết
cũng tha thứ cho tôi chăng? Đa mang phóng túng cũng là cái thông
bệnh của người đàn ông, còn tội ngộ phạm của người nóng, cũng
như người điên, hoặc có thể nguyên tình mà khoan giảm. Tuy nhiên
cái lương tâm tôi nó càng nghiêm nhặt, nó bắt tôi nhớ mãi cái
tội tôi, rửa cũng không phai, mài cũng không sạch, đã mười năm
nay, tôi bỏ hết mọi sự ái luyến ở đời, đã quy y đầu Phật, đội
đức từ bi, mở đường tế độ, cho tôi gặp lại bạn tôi cùng về chính
giác. Đứa con tôi cũng theo chúng bạn mà đi Sài Gòn. Khi đi có
gửi lại cho tôi một cái thư, xin thầy hãy đọc cái thư này, thì
biết can tràng con trẻ...".
-
Nói rồi đưa tôi một cái thư gói kỹ lưỡng lắm, rồi cứ dựa ghế mà
ngồi, hoặc sa nước mắt hoặc cau đôi mày, tình thái thê lương,
lâu lâu thiu ngủ.
-
Tôi đem cái thư đến bóng đèn mà đọc.
-
Thư rằng:
-
"Thưa cha. Tôi là một đứa con trẻ rất khốn nạn (1). Vì chính mắt
con đã làm chứng một cái thảm kịch đáng kinh hãi đã diễn ra ở
trong gia đình. Cái ác cảm ấy không bao giờ cho con khuây đi
được. Thù mẹ khôn trả, nghĩa cha chưa đền, thực con không đáng
kể là một người trên thế giới. Nếu con chưa tìm đến non cao vực
thẳm cũng vì không nỡ để cha thêm nặng tội tình. Xin cha hãy
quên có sinh đứa con tên là X... hãy sẵn lòng mạnh mẽ ăn năn cải
hối. Sự sum họp của chúng ta ở nơi chín suối, ngày hãy còn dài".
-
Tôi vừa đọc cái thư xong thì nhà sư cũng vừa thức dậy; hỏi tôi
đọc đã xong chưa. Tôi nói:
-
- Sự tình thuộc thực, thì cái thương tâm của người cũng là quá
đáng.
-
Khi về nhà nhân ký đầu đuôi như thế. Năm sau có người nhà chùa
về hội Phủ Giầy, hỏi thăm, thì nói: Vị du tăng ấy đã tịch tại
chùa Thiên Thai ngày tháng Chạp năm ấy.
-
Tạp chí Nam Phong,
số 26, Tháng 8 - 1919.
-
--------------------------------------------------
-
1. Chữ khốn nạn ở đây chỉ có nghĩa như khốn khổ. Nguyễn Văn Vĩnh
thời ấy dịch Những người khốn khổ là Những kẻ khốn nạn.
--o0o--
|
|