|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Đường Lên
Núi Linh
- ---o0o---
-
- Cách thị trấn
năm dặm về hướng tây là một cánh rừng rậm bọc quanh một ngọn núi
cao ngất. Ngọn núi sừng sững trấn ngự một phương trời như một vị
thần cô độc xa lánh trần gian. Dù rằng từ thị trấn đến chân núi
chẳng xa là bao, dân trong thị trấn ít khi nào léo hánh đến vùng
núi. Họ chỉ nhìn thấy ngọn núi từ xa và mỗi khi nhìn thấy thì
trong lòng mỗi người như chỗi dậy một niềm kính tín thiêng
liêng.
- Không biết từ
đời nào, người ta truyền miệng nhau hoặc dạy cho nhau về những
linh nghiệm của ngọn núi, khiến cho từ thế hệ này đến thế hệ
kia, đều nhìn ngọn núi với cánh rừng bao quanh ấy như là một
vùng thánh địa. Muốn cầu nguyện việc gì, người ta không cần phải
đến tận vùng thánh địa, cứ việc đứng trong nhà, thắp nhang hướng
về núi ấy, van vái. Điều cầu nguyện của mỗi người có được đáp
ứng hay không thì chẳng biết; chỉ biết xưa nay người ta cứ gọi
núi đó là núi Linh, có người còn kiêng gọi chữ "núi", chỉ dám
gọi là "ông": Ông Linh. Chưa bao giờ người ta thấy được một Ông
Linh toàn vẹn. Suốt ngày đêm mây trắng và sương mù giăng kín hết
nửa phần trên của núi, chỉ để lại phần chân núi xanh thẫm. Nửa
phần chìm trong mây khói kia là cả một kho tàng của linh thoại.
- Một trong
những linh thoại được truyền cho nhau đã trở thành như một sự
thật, đó là trên đỉnh núi có một hang động rất lớn. Từ Phật Tổ
Thích Ca, Nhị Tổ Ma Ha Ca Diếp, cho đến các vị Thánh tăng nhiều
đời, ở khắp nơi, đều tập trung trong hang động đó. Mỗi ngày đức
Phật đều thăng tòa thuyết pháp y như lúc còn tại thế. Linh thoại
ấy từ nhiều đời, đã khiến cho nhiều người trong thị trấn không
ngăn được hiếu kỳ, hoặc không kềm được nỗi khát vọng giải thoát
giác ngộ, đã tìm cách băng rừng rồi leo lên ngọn núi ấy. Chẳng
biết họ có gặp Phật gặp Tổ hay không. Chỉ thấy có nhiều người đi
mà ít có người quay trở lại. Thảng hoặc có người từ núi Linh
quay trở về, người ta xúm xít hỏi han thì chỉ được nghe một câu
ngắn gọn: "Đâu có đường lên!" hoặc "... chỉ thấy một nhà sư lúc
ẩn lúc hiện," hoặc "chỉ thấy mây giăng mù mịt". Những câu trả
lời đại loại như thế chỉ làm tăng thêm niềm tin về những linh
thoại mà thôi. Cuối cùng, núi Linh vẫn là núi Linh, chẳng bao
giờ và chẳng ai khám phá thêm được gì khác ngoài những chi tiết
huyền hoặc tô vẽ thêm cho một kho tàng bí nhiệm vốn vượt khỏi
tầm nhận thức và kinh nghiệm sống của con người trần tục.
- Cho đến khi
có hai nhà sư trẻ từ thị trấn lên núi Linh học đạo trở về, bức
màn huyền bí của hang động Phật Tổ cũng chưa được vén lên. Nài
nỉ cách mấy người ta cũng không cạy miệng được hai nhà sư trẻ
này. Chỉ nghe họ tiết lộ duy nhất một điều là sư phụ của họ hiện
đang ở trên núi ấy. Hỏi sư phụ ấy có phải là Phật, là Tổ không,
thì được đáp rằng: "Là sư phụ, là một lão tăng, thế thôi."
- Hai vị sư trẻ
này chia nhau đi khắp thị trấn để hành đạo. Trông họ có vẻ như
đang nỗ lực thực hiện việc truyền bá chánh pháp cho kịp một thời
điểm nào đó, và có lẽ họ sẽ trở lại núi Linh với thành tích hành
đạo của họ tại thị trấn này.
- *
- Vị lão tăng
có bộ râu bạc phơ dài đến ngực nhưng da mặt ông không nhăn lắm.
Đôi mắt ông sáng và trông rất nhân hậu dưới đôi mày cũng dài và
bạc theo màu râu tóc. Khi hai nhà sư trẻ mới từ thị trấn đến núi
Linh bái thỉnh lão tăng làm thầy để cầu học đạo, họ đã được lão
tăng tiết lộ cho biết rằng lão tăng chỉ là "người giữ cửa".
Người đệ tử lớn tuổi, được coi là sư huynh và được lão tăng đặt
cho đạo hiệu là Tuệ Trí, nhíu mày hỏi:
- "Bạch thầy, xin hỏi thầy giữ cửa
gì ạ?"
- Vị thầy cười
nhẹ nói:
- "Cửa Không."
- "À, à... cửa
Không. Nhưng... cửa Không thì đâu cần gì phải giữ, bạch thầy? và
cái cửa Không sẽ dẫn đến đâu? có phải là..."
- "Dĩ nhiên là
nó dẫn đến nơi ấy," vị thầy khoát một cử chỉ mơ hồ hướng về đỉnh
núi, "nhưng không phải ai muốn vào cũng được. Ta giữ cửa là giữ
theo nghĩa đó, nghĩa là ta có bí quyết, có chìa khóa cho những
ai hội đủ điều kiện vượt qua cái cửa Không này."
- Tuệ Trí nhìn
ra ngoài cửa sổ, đảo mắt một vòng chung quanh thảo am, qua con
suối nhỏ chảy róc rách và những tảng đá lớn phía sau, dừng lại
nơi mấy cây tùng cổ thụ đứng thẳng như những người lính gác im
lặng và tận tụy dưới nắng sương...
- "Cánh cửa ấy
ở đâu vậy, bạch thầy? Có phải chỗ mấy cây tùng..."
- "Cửa ấy không
có cánh. Và nó bắt đầu ngay từ bước chân của con chứ chẳng ở đâu
xa. Có điều, không phải bước chân nào cũng cất lên được một cách
hài hòa và phù hợp với chiều kích của cánh cửa ấy."
- "Vậy nhiệm vụ
giữ cửa của thầy tức là hướng dẫn hành giả phương cách bước vào
cái cửa không cánh ấy?"
- "Phải," vị
thầy ôn tồn đáp.
- "Bằng cách
nào và bao lâu chúng con mới có thể bước vào cửa ấy?" Tuệ Trí
nóng nảy hỏi.
- "Không có gì
phải gấp gáp như vậy. Cứ ở đây, ta sống sao các con sống vậy,
rồi một lúc nào đó, ta sẽ chỉ đường cho các con, hoặc có thể các
con sẽ tự thấy con đường và cánh cửa đó mà đi vào. À, này Tuệ
Đức, con có điều gì nghi ngờ không, nãy giờ ta không nghe con
lên tiếng?"
- Tuệ Đức, vị sư đệ trầm lặng, mặt
mày không được sáng láng thông minh như Tuệ Trí nhưng phong cách
thì chuẩn mực, nghiêm túc, và nét mặt thì nhân hậu, thiết tha,
biểu lộ sự chân thành trọn vẹn hướng đến mục tiêu giải thoát.
Nghe thầy ỏœi, Tuệ Đức cung kính thưa:
- "Bạch thầy
không ạ."
- "Tốt. Thôi,
chúng ta cùng đi dạo để các con quen với cảnh mới này."
- * * *
- Trải ba năm
không rời khỏi núi, cùng ở tu trong mái thaả am dưới sự dẫn dắt
của vị thầy già ấy, một hôm, Tuệ Trí và Tuệ Đức được thầy gọi
đến dạy:
- "Ta nghĩ đã
đến lúc để các con đem những kiến văn và sở học của mình ra mà
truyền rộng cho nhiều người khác cùng được lợi ích. Vì vậy, hôm
nay, hai con hãy lên đường, xuống núi hành đạo."
- Tuệ Trí ngạc
nhiên hỏi:
- "Bạch thầy,
thế còn... cách vào cái cửa Không? Chừng nào thầy mới dạy cho?"
- "Các con cứ
xuống núi hành đạo. Khi nào cảm thấy là mình đã tạo nên được
công đức gì đáng kể, đáng gọi là thành tựu, thì quay trở về đây.
Các con tưởng rằng một người không có chút công đức hay thành
quả nào hết mà có thể qua được cánh cửa ấy sao?"
- Tuệ Trí xìu
mặt, suy nghĩ: "Tu học ba năm cực nhọc ở đây rồi mà vẫn chưa đủ
công đức! Biết bao năm nữa mới gọi là đủ đây?"
- Vị thầy ruốt
chòm râu bạc, đứng dậy, bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Một
lúc lâu, ông quay lại nói:
- "Nhưng trước
khi các con rời núi, ta muốn nghe các con trình bày vài nét về
sự hiểu đạo của các con; bằng vào phương châm nào mà các con dấn
thân vào trần gian để hành đạo; bằng vào phương tiện thiện xảo
nào mà các con có thể tự kiểm thúc được thân tâm mình giữa cõi
đời phiền lụy. Tuệ Đức, con nói trước đi."
- Tuệ Đức liền
quỳ xuống chắp tay cung kính thưa:
- "Quy y Phật,
Pháp, Tăng; hành động, lời nói và ý nghĩ luôn luôn qui thuận và
phù hợp với Phật, Pháp, Tăng."
- Vị thầy hỏi
tiếp:
- "Còn gì nữa
không?"
- "Thưa, chỉ có
vậy," Tuệ Đức nhỏ giọng thưa.
- Sư huynh Tuệ
Trí nghe vậy thì bật cười lên một tràng, thương hại thay cho
người sư đệ cục mịch quê mùa, ba năm học tập kinh điển ở đây
chưa ra khỏi bước đầu học Phật. Vị thầy cũng nở một nụ cười, tủm
tỉm quay trở lại ngồi xuống bồ-đoàn, hỏi Tuệ Trí:
- "Đừng cười sư
đệ con căn tính trì độn. Biết gì thì nói nấy, có sao đâu. Thế
còn con, con xuống núi với tâm nguyện và hành xử nào đây, nói ta
nghe và để sư đệ con có cơ hội học hỏi thêm luôn thể?"
- Tuệ Trí đang
đứng, xoay một vòng, bước ra cửa, ngửa mặt lên trời, vừa đi vừa
nói:
-
"Nhìn mây bay, thấy tóc xanh thuở
xưa còn tung xõa
-
Nghe chim hót, tin tiếng lòng năm cũ
mãi âm vang."
- Nói rồi Tuệ
Trí đi thẳng xuống núi. Vị thầy ngồi im, gật gù bảo Tuệ Đức:
- "Hai đứa con
mỗi đứa có một căn tính và sở đắc khác nhau. Đều tốt cả. Khi đã
nói là phương tiện thiện xảo thì không có vấn đề cao thấp. Khác
nhau chăng là chỗ diệu dụng, ý ta muốn nói cái dụng quả, của mỗi
phương tiện mà thôi. Con chuẩn bị gói ghém hành lý chi đó rồi
lên đường. Mong rằng chuyến đi của các con không làm ta thất
vọng. Ta chờ đợi các con đó."
- Tuệ Đức lạy thầy ba lạy rồi lui
ra.
- * * *
- Nơi thị trấn,
Tuệ Trí và Tuệ Đức chia nhau hai ngả, du hành khắp nơi để truyền
bá chánh pháp. Mỗi người có một lối giảng dạy riêng về Phật
Pháp, về Thiền đạo, nhưng cả hai đều thành công, thu phục được
nhiều đệ tử, tạo được nhiều uy tín và tiếng vang trong khắp thị
trấn ấy, rồi lan dần đến các thị trấn lân cận.
- Nhưng tiếng
tăm lẫy lừng, nổi bật nhất, vẫn là từ Tuệ Trí, vị sư huynh cao
ráo, trắng trẻo, điển trai, nói năng hoạt bát và lôi cuốn, học
rộng biết nhiều, lại có cả tài làm thơ viết văn rất tuyệt, chinh
phục hầu hết giới trí thức trong nước. Nhờ những thuận lợi về
thể chất lẫn kiến thức và tài năng đó mà Tuệ Trí thành công rất
nhanh, tự mình tạo nên một tông phái Phật giáo rất mạnh và có
ảnh hưởng trong cả nước. Giáo lý nền tảng của tông phái Tuệ Trí
xem ra thì không có gì mới mẻ, vẫn là dựa vào kinh điển Phật để
xiển dương; nhưng nhờ kiến văn quảng bác và khả năng xét đoán
thời cuộc rất nhạy bén, Tuệ Trí biết nhắm đến hoàn cảnh và nhu
cầu tâm lý của con người thời đại, nhờ vậy mà mở ra những sinh
hoạt có vẻ mới mẻ, tiến bộ; lôi kéo được nhiều người trí thức từ
thôn quê đến thành thị, ùn ùn qui tụ học hỏi. Nhiều người bỏ cả
sản nghiệp để dâng cúng cho Tuệ Trí. Nhiều chùa chiền, thiền
thất, đại tùng lâm ở khắp nơi cũng được xây dựng để dâng trọn
vẹn cho Tuệ Trí tùy nghi sử dụng. Đồ chúng tìm học Tuệ Trí càng
lúc càng đông. Dần dần, nhu cầu tu học theo tông phái Tuệ Trí
trở nên một phong trào quần chúng không phân biệt trí thức hay
dân giả cùng đinh thất học. Nhưng một khi đã trở thành phong
trào rồi thì mặt phẩm chất không còn là điều hệ trọng nữa; chỉ
còn sức lớn mạnh không gì ngăn nổi của phần số lượng. (Thực ra,
không phải là do những người ít học tham dự vào phong trào đã
làm giảm đi phần phẩm chất của tông phái Tuệ Trí—tu học đạo giác
ngộ đâu có căn cứ vào chuyện học thức hay thất học!—mà chính sức
lớn mạnh quá nhanh của phong trào đã như dòng độc dược giết chết
từ trứng nước cái khát vọng hướng đến giải thoát giác ngộ—vốn là
điều đòi hỏi nhiều kinh nghiệm tu chứng tâm linh hơn là sinh
hoạt và nghi thức kiểu cách rườm rà, rình rang, học đòi, bắt
chước, truyền đạt mau chóng từ người này đến người kia—và thay
vào đó chỉ là khát vọng được gần gũi tông chủ Tuệ Trí, được tông
chủ đặt cho một cái đạo danh và được gắn cho cái huy hiệu riêng
của tông phái nơi vai phải, để hãnh diện rằng mình là đệ tử
thuộc dòng Tuệ Trí).
- Say mê trong
hào quang danh vọng của một tông chủ sáng chói đó, Tuệ Trí quên
bẵng chuyện quay về núi Linh với sư phụ để được vào cánh cửa
Không. Thỉnh thoảng, Tuệ Trí có nghe các đệ tử báo cáo cho biết
về tình hình sinh hoạt của sư đệ Tuệ Đức tại một vài nơi hẻo
lánh nào đó trong nước. Nghe nhắc Tuệ Đức thì Tuệ Trí nhớ đến
núi Linh, nhưng rồi chỉ khoảnh khắc sau đó là chìm ngập vào
những công việc khẩn thiết mà các tu viện do mình trực tiếp đảm
nhận đòi hỏi, hoặc phải chú tâm nghiên cứu những dự án phát
triển tông phái do các môn đồ đề xuất... Bao nhiêu việc phải
làm, phải để tâm đến, chiếm hết cả thời giờ tu tập của Tuệ Trí
đến độ mỗi lúc Tuệ Trí đăng đàn thuyết pháp hay hướng dẫn các
khóa lễ, các khóa thiền tọa đại chúng, chàng cũng chỉ có mặt như
một cái xác không hồn để làm và nói những điều đã quen và thuộc
lòng, còn tâm trí thì lúc nào cũng bận bịu với các chương trình,
các lễ hội sắp tới...
- Một hôm, Tuệ
Đức trên đường hoằng hóa ghé ngang tu viện của Tuệ Trí, bèn nẩy
ý muốn vào thăm sư huynh, đồng thời muốn trao đổi với sư huynh
chút kinh nghiệm tu học và hành đạo.
- "Ô, Tuệ Đức
đó hả? Vào đi," Tuệ Trí đưa tay ngoắc sư đệ vào, "mấy năm rồi,
sư đệ cũng chẳng thay đổi gì hết, nhìn là nhận ra ngay. Này, các
con pha trà mời sư chú đi."
- T uệ Đức nhìn vào căn
buồng phía sau phương trượng, thấy một nhóm người lăng xăng, xì
xào, lấp ló, chỉ trỏ mình; chàng e dè theo sự ra dấu của sư
huynh, ngồi xuống ở một cái trường kỷ chạm trổ xa cừ bóng lộn.
- "Sư huynh bây
giờ thấy khác nhiều, nếu gặp ngoài đường e rằng đệ nhận không
ra," Tuệ Đức nói.
- "Khác dữ vậy
sao? Ha ha. Chắc ta ốm và xanh đi nhiều phải không? Ừ, thì công
việc nhiều quá khiến ta như vậy."
- "Không, huynh
đâu có ốm xanh. Mập trắng ra thì có. Phát tướng đấy. Trông sư
huynh bây giờ đường bệ hơn xưa nhiều. Sư huynh có nhớ năm xưa
cùng đệ đi tham vấn nhiều nơi, cuối cùng là đến núi Linh... lúc
đó sư huynh rõ đúng là một tăng lữ khổ hạnh..."
- "Thôi đừng
nhắc chuyện cũ nữa. À này, sư đệ tìm ta có việc gì không? Có cần
giúp đỡ gì không thì cứ nói thật. Có cần tu bổ hay xây chùa, đúc
tượng, in thỉnh kinh sách gì thì cứ nói, ta sẵn sàng chu cấp tất
cả những gì đệ cần."
- "Không, cám
ơn huynh. Đệ đâu có chùa chiền gì đâu mà tu bổ. Chỉ nhân chuyến
du hóa vùng này, ghé thăm sư huynh thôi."
- "Không có
chùa? Nói giỡn sao? Thế... lâu nay đệ trú ở đâu?"
- "Dạ thì nơi
nào cần thì đệ đến. Thường thường là ở các chùa vùng quê hẻo
lánh, nơi mà Phật Pháp suy yếu hoặc chưa được phát triển."
- "À, ra thế.
Thảo nào trông đệ hãy còn dáng vẻ lam lũ, khổ nhọc như năm xưa.
Trà có rồi hả, được rồi, chế ra tách dâng sư chú đi."
- Có khoảng sáu
nữ đệ tử của Tuệ Trí, xếp hàng hai bước ra, người dâng khay trà,
người bưng khay tách, người dâng bánh, người dâng quả, hai người
cầm quạt đứng hầu hai thầy. Tuệ Đức cảm nghe có gió mát phía sau
lưng, quay lại thấy một nữ nhân đang quạt cho mình thì giật thót
người đứng dậy, khoát tay:
- "Mô Phật, tôi
không dám, xin miễn cho."
- Tuệ Trí cười
khan:
- "Thôi, sư chú
các con không quen gió lạnh, vào trong đi."
- Cả bọn nữ
nhân kéo nhau vào phía trong. Tuệ Đức hãy còn đỏ mặt, lúng túng
chẳng biết làm gì. Tuệ Trí nói tiếp:
- "Ta cũng định
một ngày nào đó trở lên núi Linh. Có lẽ là cuối năm này. Đệ nghĩ
sao? Chúng ta cùng đi chứ hả?"
- "Vâng, đệ
muốn theo sau huynh, đâu dám vô phép lên núi trước. Nhưng cuối
năm nay thì hơi sớm đối với đệ. Có lẽ phải cuối năm tới."
- "Sao vậy? Đệ
không lập chùa mà, có bận bịu gì đâu?"
- "Bận bịu thì
không rồi, nhưng... đệ cảm thấy là mấy năm nay chưa làm được gì
đáng kể, tự nghĩ là chưa đủ công đức để trở lại trình sư phụ."
- "À, ra thế.
Vậy là từ đây đến cuối năm sau đệ sẽ nỗ lực làm thêm công đức.
Ta hiểu rồi. Ừ mà sao đệ không đến đây phụ giúp ta một tay để
gầy dựng thêm công đức. Cần gì phải đi đâu xa xôi, bụi bặm. Tính
đến nay, bốn năm trời, một mình ta đã xây hơn bốn chục caảh
chùa, chưa kể các đạo tràng của các môn đồ mọc lên khắp nước,
phải kể đến số ngàn. Đồ chúng theo ta tu học thì có thể tính
bằng số vạn. Công đức ấy... ôi, nhiều quá, kể sao hết. Ta đây mà
có người phụ tá như đệ thì công việc hẳn là tiến hành nhanh
chóng và tốt đẹp hơn."
- "Không dám,
xin sư huynh miễn thứ cho, đệ còn có những Phật sự phải làm ở
vùng quê đã dự tính trước. Đệ chỉ ghé thăm sư huynh để học thêm
kinh nghiệm hành đạo của sư huynh mà thôi."
- "Kinh nghiệm
ư? Ừm, để coi nào. Lâu nay ta chỉ làm, chẳng bao giờ để ý chi
cái kinh nghiệm. Nói đại khái thì phải có một thuyết lý gì đó
mới lạ để thu phục số đông. Thuyết lý đó cũng cần cái phong cách
nổi bật của chính mình để phù trợ nữa. Khi quần chúng đã qui
phục rồi, ta muốn gì lại chẳng được... Nhưng, ta và đệ khác nhau
lắm, ta e đệ không áp dụng được kinh nghiệm của ta đâu. Cái kinh
nghiệm ấn tống một cuốn kinh, đúc một tượng Phật, xây một ngôi
chùa, thì có thể chỉ bày cho nhau được, chứ kinh nghiệm sáng tác
thơ văn, tư tưởng và biện tài thuyết giáo... nó thuộc về tài
năng thiên bẩm, làm sao ta có thể truyền dạy đây?"
- "Thưa không,
đệ chỉ xin sư huynh một bài kệ, một câu thơ gì đó thôi, cũng đủ
làm hành trang cho đệ trên đường chu du rồi."
- Tuệ Trí bật
cười lên một tràng:
- "Thơ, kệ à?
Ừm, để coi, lâu nay ta cũng ít sáng tác vì bận quá. À, để ta đọc
đệ nghe mấy câu thơ cũ của tiền nhân, được chứ hả? Coi nào, đệ
hỏi đột ngột quá, ta chưa kịp nghĩ câu nào có thể thích hợp để
đọc cho đệ. Nhớ rồi, bốn câu thơ này của Thiền sư Ngộ Ấn, ta vẫn
thường đọc cho các đệ tử nghe:
-
Diệu tính hư vô bất khả phàn
-
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
-
Ngọc phần sơn thượng sắc thường
nhuận
-
Liên phát lô trung thấp vị càn.
- Đệ từng nghe
bài đó chưa? Hiểu chứ hả? Thôi để ta đọc luôn bản dịch của ta
cho đệ:
-
Diệu tính hư vô khó nghĩ bàn
-
Một khi liễu ngộ còn khó chi
-
Ngọc thiêu trên núi màu vẫn sáng
-
Sen đốt trong lò sắc thêm tươi.
- Độc đáo quá
hả? Nói thiệt đệ nghe, bài thơ ấy làm cho ta thêm tự tin khi dấn
thân vào chốn bụi hồng để hoằng truyền chánh pháp. Sao? Đến giờ
hành lễ rồi à? Được rồi, thầy sắp xong rồi. Hay là sư đệ cùng ta
hành lễ rồi sau đó đàm đạo tiếp?"
- "Thưa không,
thỉnh sư huynh đăng đàn, đệ chỉ ghé thăm, được sư huynh cho nghe
bốn câu thơ, tưởng cũng đủ lắm rồi, không dám phiền sư huynh
nữa. Đệ xin cáo."
- * * *
- Cuối năm sau,
Tuệ Đức lại ghé đạo tràng của Tuệ Trí để cùng sư huynh lên núi
Linh thì nhằm lúc Tuệ Trí đang bận lo buổi lễ kỷ niệm đệ tứ chu
niên ngày thành lập tông phái của Tuệ Trí. Đồ chúng tụ tập quá
đông, khiến Tuệ Đức phải khó nhọc lắm mới vào đến được phương
trượng để gặp sư huynh. Thấy sư huynh bận rộn với ngày lễ, Tuệ
Đức cáo lui, đi bộ hơn một dặm đường mới tìm được chỗ vắng vẻ,
có bóng mát, dưới một gốc đại thụ, lánh xa được đám đông ồn ào
lễ hội.
- Ba ngày sau,
Tuệ Đức mới quay trở lại tu viện của Tuệ Trí để mời sư huynh
cùng lên núi. Tuệ Trí nói:
- "Sau ngày lễ,
ta không được khỏe lắm, nhưng ta sẽ đi với đệ. Nhất quyết là
phải đi. Tạm thời gác mọi công việc sang một bên cái đã. Giấc
mộng của anh em mình xưa nay làm sao nguôi nguây được, phải
không? Này, đem y áo của thầy ra đây. Thầy có việc phải vắng mặt
một thời gian, mọi việc trong tu viện thầy đã giao cho sư cô
Diệu Bảo thay thầy đảm trách, bây giờ thầy phải đi với sư chú
lên núi lạy sư ông của các con."
- Đám nữ nhân
đệ tử Tuệ Trí xúm xít quanh thầy tỏ vẻ bịn rịn, quyến luyến dữ
lắm khiến Tuệ Trí cũng nao lòng. Nhưng rồi chàng cũng mạnh dạn
lên đường. Đám đệ tử định che lọng, rước kiệu tiễn đưa tông chủ
Tuệ Trí đến tận chân núi nhưng chàng xua tay bảo thôi, chỉ cho
phép sáu nữ đệ tử thân tín tháp tùng. Tuệ Đức thấy vậy thì nhíu
mày, tỏ ý không bằng lòng. Tuệ Đức thưa nhỏ với sư huynh:
- "Huynh bảo họ
ở lại tu viện chứ đi theo làm gì cho vướng bận. Sư phụ chẳng vui
đâu. Hơn nữa, nếu sư phụ mở đường cho chúng ta vào cửa Không thì
sư huynh cũng đâu có mang họ theo được, không lý bắt họ ở dưới
chân núi chờ hoài?"
- "Ôi, đệ cố
chấp quá làm sao giải thoát được. Ta đã đọc cho đệ nghe bài thơ
của thiền sư Ngộ Ấn rồi, không lẽ đệ chẳng thấm nhập gì hết sao?
Đi. Đừng nói nhiều."
- Vậy là hai
huynh đệ lên đường, có sáu đệ tử lẽo đẽo theo sau.
- Đường đến núi
Linh vào mùa đông hơi lầy lội vì đã có nhiều cơn mưa trước đó.
Đến bìa rừng, muỗi vắt ào ào bu đến, đám đệ tử la khóc eo éo.
Tuệ Trí phải dừng chân chăm sóc, khuyến dụ. Vậy mà rồi họ vẫn
không bỏ ý định đi theo Tuệ Trí đến tận chân núi. Có thêm đoàn
tùy tùng này, con đường đến núi Linh đối với Tuệ Đức như dài
thêm gấp mười lần vì đi một đoạn đường lại cứ phải cùng sư huynh
đứng lại chờ đợi sáu người kia.
- Sau một ngày
đường vất vả, cuối cùng, đoàn người cũng đến được chân núi. Tuệ
Trí dặn dò đám đệ tử:
- "Thầy cùng sư
chú lên núi. Các con cứ chờ ở đây. Sáng mai nếu không thấy thầy
trở xuống thì các con tự động trở về tu viện, tạm thời nương sư
cô Diệu Bảo mà tu học. Khi nào xong việc thầy sẽ xuống núi, tiếp
tục hướng dẫn các con."
- Tuệ Đức đứng
chờ sư huynh dặn dò, rồi thêm chuyện đệ tử tác bạch tiễn đưa,
thề ước, thưa bẩm, gởi gắm, nhắn nhủ, bịn rịn tình nghĩa thầy
trò cũng mất cả nửa giờ. Đến khi mặt trời sắp sửa khuất sau núi
Linh rồi, hai huynh đệ mới bắt đầu cất bước.
- Sư phụ ngồi
trên bồ đoàn, hai huynh đệ sụp lạy. Xong, Tuệ Trí thưa:
- "Bạch thầy,
năm năm qua con vâng lời thầy xuống núi đã thực hiện nhiều Phật
sự, tạo nhiều công đức. Nay xin thầy từ bi hoan hỷ mở cánh cửa
cho con bước vào nhà Không của Như Lai."
- Tuệ Đức chỉ
quỳ chắp tay, lặng thinh.
- Sư phụ gật gù
hỏi:
- "Phật sự của
các con làm thầy có biết. Nay thầy chỉ muốn nghe các con trình
bày ngắn gọn một câu thôi mà tóm thâu tất cả những gì trong năm
năm vừa qua. Tuệ Đức con nói trước đi."
- Tuệ Đức cung
kính thưa:
- "Quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh không
rời một khoảnh khắc."
- Tuệ Trí nghe
vậy cũng muốn bật cười lên, nhưng chưa kịp cười thì sư phụ đã
hỏi đến mình.
- "Tuệ Trí, con
nói đi."
- Tuệ Trí bèn
thưa: "Trên đầu sợi tóc mỹ nhân, thấy sự mầu nhiệm linh thiêng
của thế giới hoa tạng; ngày đêm ăn ngủ nói cười mà vẫn cùng Phật
Tổ sánh vai không rời một bước."
- "Sở học cao
thâm, ngữ khí trượng phu lắm. Nhưng, đối với ái dục thì sao, nói
ta nghe, Tuệ Trí?"
- "Có vướng
cũng không bận," Tuệ Trí tự tin đáp.
- Sư phụ quay
qua Tuệ Đức:
- "Đối với ái
dục con thế nào?"
- Tuệ Đức thưa:
- "Lặng trong
không vướng, không bận."
- Sư phụ im
lặng rời bồ đoàn đứng dậy, bước ra sân. Hai đệ tử cũng bước
theo. Sư phụ quay lại nói:
- "Cửa Không đã
sẵn mở, các con bước vào đi."
- Tuệ Đức hốt
nhiên đại ngộ, tươi sáng nét mặt, cúi lạy thầy rồi ung dung bước
thẳng lên đỉnh núi, thoáng chốc là biến mất trong lớp mây mù.
Trong khi đó, Tuệ Trí hãy còn phân vân, nghi ngại; vừa tính dợm
chân bước thì thấy nặng trì ở dưới gót chân phải, như đeo phải
đá, không sao cất lên nổi.
- "Bạch thầy,
sao lại có chuyện lạ như vậy? Chân con, không biết sao, kỳ cục
quá, không cất lên được..."
- Vừa nói đến
đó bỗng thấy Tuệ Đức từ trên núi lướt xuống. Thân hình cục mịch
nhà quê của Tuệ Đức lúc này trông nhẹ như mây. Lướt ngang chỗ sư
phụ và sư huynh, Tuệ Đức chắp tay vái chào rồi bay thẳng xuống
núi.
- "Tuệ Đức, đi
đâu vậy? Bạch thầy, sao Tuệ Đức lại xuống núi, chẳng lẽ trên đó
không có gì hết sao?"
- "Hoa tạng thế
giới của con đâu mà giờ này còn hỏi? Đã cùng với Phật Tổ sánh
vai thì cần gì phải tìm Phật tìm Tổ trên núi! Kiến tánh thành
Phật rồi thì ra vào tự tại, có cánh cửa nào có thể ngăn ngại
được đâu. Cửa Không có bao giờ đóng đâu mà phải cần thầy mở.
Kiến tánh rồi thì tự khắc thấy đường đi thôi. Tuệ Đức thong dong
được là do lẽ đó."
- Tuệ Trí bấy
giờ mới thức ngộ, bật khóc. Bao nhiêu danh từ và chương cú hoa
mỹ về Phật, về Thiền, về Hoa Nghiêm, về Bát Nhã, về Lăng Già, về
Như Lai Tạng Tính... mà lâu nay chàng từng sử dụng, bây giờ mới
thấy chỉ là những cụm từ rỗng tuếch, không dính nhập gì đến thực
tại tối hậu.
- Sư phụ thương
cảm, nói lời an ủi:
- "Căn tính con
thông tuệ, nhạy bén hơn Tuệ Đức rất nhiều. Trí tuệ là khí giới
tối hảo để đạt đến đạo quả giác ngộ; nhưng từ nhiều năm nay, con
chưa hề tạo được một công đức nhỏ nào cả. Tất cả những gì con
làm ở thế gian, đều chỉ là những manh động của dục vọng, làm sao
tạo nên được công đức! Phước Đức và Trí Tuệ giống như đôi chân
của con vậy, phải đủ cả hai và phải cùng song hành, không thể
thiếu một mà có thể bước đi được," vị thầy ngưng một lúc, thở
dài nói tiếp "à, con có nhớ những lời đơn sơ của Tuệ Đức không?
Quy y Phật, Pháp, Tăng. Tại sao? Vì quy y Phật là trở về với thể
tính thanh tịnh, đoạn trừ tất cả những tham dục, cấu bẩn; quy y
Pháp là trở về với trí tính vô biên, đoạn trừ hết những si mê,
cố chấp và lòng kiêu ngạo; quy y Tăng là trở về với tự
tính hòa hợp bình đẳng, trừ bỏ những lòng hận thù, ganh ghét...
Không có trí tuệ siêu việt nào có thể bừng vỡ trên mảnh đất còn
tràn ngập những tham, sân, si và các phiền não căn bản. Cho nên,
theo ý thầy thì con nên ởœ lại đây, nỗ lực tu tập thêm một thời
gian nữa; hay con muốn tiếp tục trở về với tu viện dưới núi của
con thì tùy ý, nhưng dứt khoát là dù ở đâu, cũng phải dẹp hết
những thứ phiền não linh tinh từng quấy nhiễu phá rối tâm con
thì may ra mới vào được cánh cửa Không ấy."
- Tuệ Trí lạy
tạ ơn thầy chỉ dạy rồi đứng dậy, phân vân một lúc, nhớ rằng sáu
đệ tử của mình đang chờ đợi dưới núi. Tuệ Trí quyết định từ giã
thầy, lủi thủi cúi mặt bước xuống núi, nhưng được nửa đường thì
đứng lại. Tưởng tượng mấy chục ngôi chùa và hàng trăm đạo tràng
với bao nghi lễ rình rang xôm tụ đang chờ đón mình bên dưới, rồi
nhớ đến cả lô học giả trí thức bày trò đốn ngộ chứng Thánh, mở
miệng là nói thiền ngôn mật ngữ nhưng chưa bao giờ nếm được một
giọt nước nhỏ trong đại dương giải thoát, rồi nghĩ đến đám nữ
nhi phàm tục dễ sa nước mắt quấn quít nhõng nhẽo đêm ngày... Ôi,
sao mà rỗng tuếch, vô vị, cho dù có thêm triệu năm nữa để đóng
kịch và bày trò, cũng chẳng một mảy may nào trong những thứ ấy
có thể vói đến được cánh cửa huyền vi của ngọn núi Linh này. Tuệ
Trí còn nhớ có một ông lạt-ma Tây Tạng hứa sẽ dạy chàng về pháp
đằng vân (cỡi mây) với điều kiện chàng phải xây cho ông ấy một
tu viện nguy nga tận xứ Tây Tạng và chàng đã hứa sẽ sắp đặt thời
gian rảnh để học phép thuật này. Bây giờ, chàng thấy cũng không
cần thiết nữa. Cho dù có học được phép cỡi mây, cỡi gió đi khắp
nơi thì cũng chỉ lẩn quẩn trong vòm trời hữu hạn của trần gian,
không làm sao lọt vào được cõi Không bát ngát thênh thang mà
chàng hằng ôm ấp. Tất cả những thứ kể trên, ngay lúc này, chàng
thấy không còn cần thiết nữa. Chàng đứng im một lúc ở lưng núi
khi trời đang tối dần.
- Trong khi sáu
nữ đệ tử của Tuệ Trí từ chân núi nhìn lên thấy núi Linh mây phủ
mờ mịt, gợi lên bao huyền thoại kỳ bí xa xăm thì ở lưng núi, Tuệ
Trí cũng quay đầu ngước nhìn lên núi cao, trong mắt chàng lúc
ấy, mây mù đã tan sạch, đỉnh núi Linh cao vợi lần đầu tiên hiện
ra sừng sững giữa trời tây trong vắt. Thực sự là không còn một
huyền thoại hay một kho tàng mầu nhiệm nào đáng để tìm cầu khám
phá nữa. Chàng bật lên một tràng cười sảng khoái, rồi đi ngược
lên núi, tìm sư phụ, bắt đầu cuộc hành trình đi vào cửa Không.
--o0o--
|
|