|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Tiếng Chuông Triêu Mộ
Võ Hồng
-
--o0o--
-
-
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc :
-
Thấy nguyệt tròn thì kể tháng
-
Nhìn hoa nở mới hay xuân.
-
Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là
nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời
nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có
xấp lịch gở từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm
trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu,
ghi ngày tháng âm lịch. Cuốn lịch phổ biến trong dân gian là
phiên chợ. Như ở vùng tôi, chợ Hôm họp mồng 1, mồng 6, 11, 16,
21, 26. Tiếp tới chợ Giã : mồng 2, mồng 7, 12, 17, 22, 27. Rồi
chợ Đèo : mồng 3, mồng 8, 13, 18, 23, 28. Chợ Thành : mồng 4,
mồng 9, 14, 19, 24, 29. Chợ Sen : mồng 5, mồng 10, 15, 20, 25,
30 hay tháng thiếu thì 29.
-
Với nhà Chùa thì ngày rằm được báo hiệu bằng mặt trăng. Tăng Ni
nhìn trăng mà biết tháng, nhìn hoa mà biết mùa, vì các Chùa
chiền đều nằm xa xóm làng, nằm ở chân núi hay lưng chừng núi,
nằm ở cánh đồng heo hút xa xôi : Chùa Đồng Mạ, chùa Đồng Tròn,
chùa Đồng Tranh, chùa Bảo Sơn, chùa Đá Trắng. Có cây xanh bao
phủ xung quanh, có hồ sen, có chậu hoa, luống hoa trong sân,
trong vườn. Hoa quí phải nở theo mùa như cúc, như mai..., hoa
bình dân nở quanh năm như cây bông điệp, thân mạnh như cây keo,
cây táo, mỗi khi có cúng kà
con trong xóm lên chùa xin vài nhánh. Nhà quê không có lệ mua
hoa cắm bình. Không dư tiền. Không ai dám nghĩ đến việc mua hoa,
nên không có người bán hoa. Nhà chùa càng thêm gần gũi thân
thiết với người nghèo.
-
Chùa nằm ở chân núi thì người đi đường ghé chân nghỉ mệt, người
lỡ bộ đường có thể ghé nghỉ qua đêm. Nhà chùa nằm ở cánh đồng
thì anh đi cày, chị đi cấy, trẻ chăn bò ghé xin nước uống, mượn
chỗ nằm nghỉ lưng ở hiên sau, ở chái liêu. Cửa tam quan suốt
ngày không đóng.
-
Thánh đường nhiều tôn giáo thường đi theo sát tập thể quần
chúng, nhằm hoàn thành công tác mục vụ. Chùa chiền Phật giáo thì
không. Như cố ý lánh xa, như gắng tìm một thâm sơn, xích gần lại
với thiên nhiên, núi rừng, nên khi người tìm đến thì đồng thời
cũng là dịp người gắn với thiên nhiên. Cùng với tiếng chuông và
tiếng tụng niệm, màu xanh của cây lá, sự tĩnh mịch của đá của
đất, sự bao dung của khoảng rộng trời cao cùng góp phần giải
khổ, cùng nhẹ thổi niềm an vui, niềm hy vọng, niềm tin.
-
Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không
phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ
giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà
chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo
gương các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh.
Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít
làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng lễ
Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở
bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương
Cực lạc.
-
Trong thời gian làm nghề dạy học, tôi có dạy ở một trường trung
học Bồ đề, được dạy cho các Tăng Ni. Lúc vãn niên, mỗi khi có vị
Tăng Ni nào đến thăm là tôi dạy đứa cháu ngoại vốn rất cứng đầu
nghịch phá phải đứng nghiêm thủ lễ, chắp tay cúi đầu mà "A Di Đà
Phật". Nó tuân lời, không miễn cưỡng. Tôi đã hiểu đúng tâm lý
màu áo lam áo nâu, trang nghiêm thanh đạm, giọng nói khoan hòa,
cử chỉ từ tốn... đã chinh phục nó.
-
Phần tôi, mỗi lần có Đại đức hay Ni cô tới thăm, khi ra về tôi
xin phép được đưa tiễn đến tận cổng, ra lề đường rồi chắp tay
cúi đầu xá nhiều cái. Vì Đại đức, Ni cô thường là học trò cũ,
tôi phải giải thích :
-
Tôi muốn biểu lộ sự tôn kính đối với một vị tu hành khổ hạnh.
Cho dầu vị ấy trẻ. Tôi biết nhiều người đang nhìn chúng ta, và
xã hội chung quanh thì đang ùn ùn nhiều tệ nạn, thói hư tật xấu.
-
Đạo Phật hiện diện trầm lặng trong ta. Câu chuyện năm người mù
sờ voi, tôi đọc hồi học tiểu học, trong cuốn sách tập đọc viết
bằng tiếng Pháp, sau này mới biết đó là truyện cổ Phật giáo.
Truyện người đàn bà có con chết, khóc lóc van lạy xin Đức Phật
cứu sống con. Phật dạy : "Hãy lấy tro bếp nơi nhà nào không có
người chết, đem về đây ta sẽ cứu cho". Truyện Mục Kiền Liên, ở
một kiếp nào đó là một người mê vợ đẹp. Vợ thuê người dắt mẹ Mục
Kiền Liên đem bỏ trên núi cho chết đói, nhưng bà cụ dẫu mù mắt
cũng lần về được. Lần này vợ sai chính Mục Kiền Liên dẫn mẹ lên
núi và bắt phải đánh cho chết. Nào ngờ Mục Kiền Liên vừa đập một
gậy thì mẹ kêu lên : "Con ơi, chạy lẹ đi ! Kẻo cướp nó đánh chết
!".
-
Đạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ
chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng
kinh của ông láng giềng phía sau nhà. Bốn giờ sáng, bà con khu
Hồng Bàng - Xóm Mới nghe tiếng chuông của chùa Linh Thứu. Bà con
xóm Mã Vòng - Phường Củi nghe tiếng chuông chùa Long Sơn. Bà con
Đồng Nai nghe tiếng chuông Phật Học Viện. Những bà con phải sống
xa quê hương, ngoài nỗi nhớ cô bác họ hàng, ngôi nhà tổ tiên,
khu vườn cây lá, ắt có lúc chợt nhớ những hương thơm của hoa
bưởi hoa cau, tiếng con trâu, con nghé ọ kêu mẹ, tiếng mái chèo
khua nước trên sông, tiếng gà gáy vang lại từ thôn xóm xa..., và
tiếng chuông chùa.
-
Những năm sau này tôi có nhận dạy ở lớp chuyên khoa của Viện cao
đẳng Phật Học miền trung. Đi từ nhà đến Phật Học Viện, tôi thẩn
thờ đếm bước một mình trên con đường đất đỏ uốn lượn ở đầu núi.
Những bụi cây mọc theo ven lối đi, không hàng lối, mạnh ai nấy
mọc.. Những bụi cây âm thầm. Những doi đá nằm lấn ra, những khe
suối khoét lõm vào. Tiếng chim nói chuyện với nhau chi chích
trong các bụi rậm, ở trước mặt, ở bên phải, bên trái. Mùi thơm
của lá, của hoa thoang thoảng. Vừa giã từ thành phố trong năm
phút, mắt tôi, tai tôi đã được nghỉ ngơi trong khung cảnh hoang
sơ này.
-
Mỗi tuần một lần như vậy, tôi được gần gũi với thiên nhiên, và
tâm hồn tôi bỗng được buông xả, nhẹ nhàng. Lắm lúc tôi quên mất
hiện tại mà trở về hồi nào không hay, cái tâm trạng của một đứa
nhỏ mười tuổi, mười hai tuổi, say mê màu xanh của lá, màu trắng
màu vàng của hoa và mùi thơm ngai ngái của nhựa cây.
-
Con đường càng gần đến Phật Học Viện càng thêm âm u râm mát.
Những cây cao lặng yên tỏa bóng hiền lành. Tôi leo lên con dốc
nhỏ, bước qua cái cổng gỗ. Nơi đây bắt đầu giang sơn của các bụi
hoa và những thân cây có danh tính. Những cây quỳnh lá xanh óng
ả. Những giò phong lan đong đưa trên cành cao. Bụi trúc lá nhảy
lăn tăn theo cơn gió dưới đồng thổi lên. Những chậu hoa tỉ muội,
hoa đơm đỏ thắm từng chùm.
-
Tôi không phải là người văn cảnh, không phải là khách nhàn du,
dưới tay tôi là một cặp sách. Tôi sắp có hai giờ dạy, buổi học
bắt đầu bằng ba hồi niệm Phật, và chấm dứt bằng bốn câu kệ :
-
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
-
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
-
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
-
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
-
Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi
xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng
tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ĐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu
lên : "Đức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây
tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao".
-
Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao
xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi
tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận
yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có
nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần
hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả.
-
Như vậy, những buổi chiều thứ sáu đối với tôi có một giá trị
tinh thần không nhỏ. Và con đường sỏi đá lượn quanh co trên đầu
núi là một loại con đường hành hương dẫn tôi đi vào cái khung
cảnh thanh khiết, nơi đó tôi gạn lọc các ô nhiễm kết tập trong
suốt một tuần lễ, từ cái thành phố sống đầy bụi bặm dưới kia.
--o0o--
|
|