|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Tâm Huế
-
Trần kiêm Đoàn
-
--o0o--
-
-
Tâm Huế là tâm không
-
Mênh mông hồn vũ trụ
-
Gối hồi chuông Thiên Mụ
-
Nằm ngủ giữa bao la
-
Trụ Vũ
-
-
Khi
những con ngựa chiến không còn sôi máu đỏ, khi vó câu dập dồn và
tiếng hí hống hách giữa rừng binh lửa chỉ còn là một dư vang của
quá khứ, đó là lúc những con tuấn mã đã già. Người ta không nỡ
bắt đi kéo xe hay làm thịt nên thả rông cho chúng lang thang gặm
cỏ với đám trâu bò hiền lành quen kéo cày, tải xe cho đến khi
chấm dứt một kiếp đời thầm lặng. Trên đồng cỏ bình yên, ngựa thồ
và chiên mã có khác gì nhau. Có khác chăng là mỗi chiều về cất
tiếng hí, âm vang của ngựa chiến vẫn còn chút âm hưởng ngang
tàng như còn tiếc thương thuở nghìn bờm gió lộng.
-
Cuộc binh đao giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh chấm dứt
trên chiến trường và thanh bình đã đến với lê dân, chim muông,
cây cỏ. Nhưng một cuộc chiến mới âm thầm, không biên cương,
không tuốt gươm trần và không vang rền vó ngựa lại bắt đầu khai
diễn ở chốn cung đình.
-
Văn thần để khô nghiên bút. Võ tướng tìm giá treo
gươm. Những kiện tướng một thời áo bào thay chiếu, giờ quyết hơn
thua lấn lướt nhau, cố kiếm một chỗ quỳ gần vua để được ngài
nhìn cho thấy rõ mặt ở sân chầu. Vua chỉ muốn ngắm giang sơn hoa
gấm và điện ngọc ngai vàng trước mắt. Vua Gia Long thường tỏ vẻ
khó chịu trước những lời nhắc nhở đoạn đường quá khứ, nếm mật
nằm gai; vua muốn quên những tháng ngày bị quân Tây Sơn truy
kích, cả tôi lẫn chúa phải chia chung mảnh ván qua sông, phải
đói khát lênh đênh từ Côn Sơn qua Phú Quốc. Vua chỉ muốn giữ
ngai vàng vững chắc và chỉnh đốn giềng mối quốc gia theo mô thức
chính danh: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Những cử chỉ
thân mật, gần gũi, góp lời, bông đùa như thuở còn bôn ba trên
bước đường chinh chiến giờ bị coi là phạm thượng, khi quân. Như
quan thượng thư bộ lễ đã đôi lần lên tiếng với quan Tổng trấn
Bắc Kỳ Nguyễn Văn Thành, cánh tay phải của vua trong mười năm
chiến đấu, về thái độ thân mật của ông ta đã làm vua khó chịu,
giảm mất thiên uy trước quần thần.
-
Càng ngày, những văn võ thần một thời giúp Nguyễn
Ánh làm nên sự nghiệp như Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành,
Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm, Nguyễn Thái Nguyên, Lê Quang
Định... chia phe kết nhóm, thành những đối thủ của nhau giữa
chốn triều đình: Quan thì sợ bị vua thất sủng, vua thì sợ quan
làm phản tiếm ngôi, cho nên nghi lễ của triều đình mỗi ngày một
nặng nề nghiêm nhặt. Quan chức thì tìm cách dò xét nhau để mật
tấu, tâng công. ( Theo Thực Lục Chính Biên) .
-
Trong số những người hiếm hoi chọn lựa thái độ “công
thành, thân thoái”, theo gót Phạm Lãi, Trương Lương thuở đó là
một vị hoàng thân nổi tiếng tài cao học rộng. Vị hoàng thân sống
như một nhà ẩn sĩ tại phủ Ông Hoàng khiêm tốn phía Tây Bắc chùa
Linh Mụ, ít người được gặp mặt nhưng hầu như mọi người đều biết
tiếng qua tin đồn. “Trí Hải” - là biệt hiệu mà người đời đặt
cho ông để chỉ trí óc ông rộng mênh mông như biển cả. Tin đồn
rằng trong phủ của ông hoàng Trí Hải không có vàng bạc châu báu
mà chỉ chứa toàn sách vở bút nghiên. Sách ông đọc chất cao như
núi và mực ông mài để chép sách làm thơ nhiều đến nỗi đen đặc cả
ngự hồ. Trí Hải đam mê sách vở đến độ có những gia nhân phục
dịch tại phủ Ông Hoàng đã hơn 3 năm mà chưa hề được tận mắt thấy
chủ nhân lần nào.
-
Trí Hải là niềm hãnh diện chung của hoàng tộc. Vua
Gia Long lên ngôi Hoàng đế, thống nhất sơn hà nhưng giới sĩ phu
Thanh Nghệ Tĩnh và Bắc Hà vẫn thờ ơ, không tỏ lòng quy phục vì
họ vẫn hoài niệm Lê triều, vẫn hướng về “lối xưa xe ngựa hồn thu
thảo”. Dưới mắt họ, Nguyễn Ánh, nhân vật thời đại có ý chí kiên
trì và sắt đá nhưng thiếu cái hào quang bừng bừng sấm dậy của
Nguyễn Huệ, mà cũng chẳng xuất thân từ hàng vương tôn hiển hách
đất Thăng Long. Trí Hải vô hình chung đã trở thành một đáp số
của vấn đề. Trong chinh chiến, ông đã vào sinh ra tử phò vua
xưng nghiệp đế. Lúc thanh bình ông quy ẩn không chịu nhận một
tước vị hay ân sủng nào vua ban. Trí Hải chỉ xuất hiện vào những
dịp cực kỳ trọng đại của triều đình như trong các dịp quốc lễ
thiết đại triều nghi hoặc để tiếp kiến các phái bộ đại sứ thần
ngoại quốc. Với dáng dấp uy nghi, kiến thức uyên bác, và tài ứng
biện trùng trùng như mây bay nước chảy của ông bên cạnh vua, tuy
Trí Hải không nắm giữ một địa vị nào rõ rệt nhưng ông lại được
coi như một vị tối uy thần. Ông là vị hoàng thân duy nhất được
vua đích thân xa giá đến đàm đạo tận tư dinh. Có một thời, nhiều
nhân vật tai mắt hàng đầu của hoàng tộc và triều đình coi Trí
Hải như là tai mắt của vua. Họ nườm nượp kéo đến tiếp kiến vị
hoàng thân để nói tốt người nầy, chê bai người nọ với ước mong
đến tai vua cho thỏa lòng ao ước vùi dập kẻ thù hay được hoàng
thượng gia ân ban bổng lộc. Nhưng tất cả đã rơi vào im lặng vì
Trí Hải đã nghiêng tai thần sấm mà nghe chuyện thế nhân nên
chuyện thị phi chỉ là tiếng ồn vô nghĩa. “Nhãn để phù vân khan
thế sự - Mắt nhìn thế cuộc giống mây trôi”, nên Trí Hải đã được
đời trả lại sự cô liêu của một kẻ đứng bên lề.
-
Đất nước và vương triều trải qua bao đổi thay của
buổi đầu dựng nghiệp nhưng vị hoàng thân đó vẫn say sưa vây màn
đọc sách. Có chăng một người bạn văn chương là cậu ấm Nguyễn Văn
Thuyên, con trai của đệ nhất công thần Trung quân Nguyễn Văn
Thành. Ấm Thuyên là một công tử nổi tiếng tài hoa phong nhã của
kinh thành Huế đương thời. Thuyên đỗ cử nhân rất sớm nhưng không
chịu ra làm quan, mà lập hội Tao Đàn ở phường Đông Ba để tiêu
khiển bằng cầm, kỳ, thi, tửu. Trí Hải một thời kết bạn tâm giao
với Ấm Thuyên và rất tương đắc trong những cuộc bình thơ, xướng
họa, nhưng cái khác của hai tâm hồn đã đưa họ đi xa mỗi người
một cõi. Trí Hải với kinh nghiệm thiếu thời đi đó đi đây với
giám mục Bá Đa Lộc đã sớm nhận thức được rằng, có một thế giới
phương Tây đằng sau chân trời đang bừng bừng trỗi dậy. Có những
lối suy nghĩ khác với Luận Ngữ, Trung Dung. Có nhiều cách hay
hơn để thể hiện lòng trung quân ái quốc hơn là chỉ biết phủ phục
ở sân chầu. Ấm Thuyên cũng cưu mang cái hào khí của tuổi trẻ,
nhưng ước mơ xa nhất vẫn chưa ra khỏi xã hội hoàng kim thời
Nghiêu Thuấn. Người hùng lui tới cũng chỉ quanh quẩn hình ảnh
tráng sĩ cầm gươm lên ngựa hay mài kiếm dưới trăng. Hành động
bão nổi cũng không xa hơn Kinh Kha qua bờ sông Dịch với tâm sự
kẻ sang Tần. Sinh hoạt của Ấm Thuyên và thi hữu trong Hội Tao
Đàn trở nên phù phiếm, vui buồn với phong hoa tuyết nguyệt, khóc
gió thương mây. Ấm Thuyên càng chiêu mộ những danh sĩ trong giới
bút nghiên, Trí Hải càng rút về lặng lẽ, cuốn mình trong vỏ ốc
cô đơn.
-
Năm Gia Long thứ 13 (1814), vụ án “Văn chương phản
nghịch” đã làm xôn xao khắp nước và lay động tận gốc rễ giới bút
nghiên đương thời của Kinh Thành Huế.
-
Nguyên nhân vụ án là cậu Ấm Nguyễn Văn Thuyên nghe
danh ở Thanh Hóa có hai nhân vật lỗi lạc là Nguyễn Đức Nhuận và
Nguyễn Văn Khuê, nên đã làm một bài thơ tâm tình sai người nhà
tên Nguyễn Trương Hiệu mang thư ra Thanh Hóa và mời họ vào Huế
chơi. Bài thơ như sau:
-
Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,
-
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
-
Vô tâm cử bảo Kinh Sơn phác,
-
Thiên tướng phương tri Ký Bắc kỳ.
-
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
-
Cao cương minh phượng cửu thiên tri,
-
Thử hồi nhược đắc Sơn Trung tể,
-
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky.
-
-
Sử gia Trần Trọng Kim dịch nghĩa:
-
-
Ái Châu nghe nói lắm người hay,
-
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
-
Ngọc phác Kinh Sơn tài sẵn đó,
-
Ngựa kỳ Ký Bắc biết đâu thay.
-
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
-
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
-
Sơn Tể phen này dù gặp gỡ,
-
Giúp nhau thay đổi hội cơ nầy.
-
Xét về mặt văn chương thuần túy thì đây là một bài
thơ hay, mặc dầu hơi sáo ngữ và quá tâng bốc kẻ hiền tài chưa
gặp mặt.
Tuy nhiên hai câu kết đã bị suy diễn bởi kẻ thù và bởi lòng nghi
ngờ âm mưu thoán nghịch thường xuyên và sẵn có trong lòng của
vua Gia Long, nên mười bốn chữ oan nghiệt sau chót đã gây nên
thảm trạng ngút trời: Đệ nhất công thần Nguyễn Văn Thành phải tự
tử trong ngục và con trai Nguyễn Văn Thuyên bị án phân thây.
-
Sơn Trung Tể là “Tể Tướng Trong Núi”, dựa theo tích
Đào Hoàng Cảnh, đời Lương Vũ Đế, học thức uyên bác mà không muốn
ra làm quan, vào núi ở ẩn. Mỗi khi vua có chuyện quốc sự phải
cho người vào núi tìm hỏi kế. Vì vậy người đời sau đặt là “Sơn
Trung Tể Tướng”. Xét về mặt chính trị, thì bài thơ trên đây rất
dễ bị xuyên tạc và trở thành lợi khí để hãm hại phe thù nghịch
trong thời quân chủ chuyên chế đa nghi, bảo thủ và hẹp hòi. Cái
chết của Nguyễn Văn Thành còn là vì ông xuất thân từ hàng quý
tộc, văn võ toàn tài, lại có cậu con trai nối dõi tài hoa. Ông
lại có ý coi thường Tả quân Lê Văn Duyệt, xuất thân con nhà dân
dã, lại là một họan quan. Oái oăm thay, vua lại giao vụ án cho
Lê Văn Duyệt xử nên cha con Nguyễn Văn Thành đã bị hạ ngục ngay
tức khắc.
-
Sau thảm họa Ấm Thuyên, Trí Hải càng nhận rõ hơn cái
phù phiếm của sách vở từ chương và cái bọt bèo phi lý của thân
phận con người. Đã có tiếng thở dài trăn trở trong thơ ông:
-
Bắt chước người xưa ta vây màn đọc sách,
-
Ba năm trường không thấy mặt nhân gian.
-
Khi ngoảnh lại thấy hồn bay mây trắng,
-
Và quanh ta cỏ dại mọc hoang đường!
(P.Đ.T)
-
Rồi đến một ngày đầu Xuân không lâu sau đó, cả kinh
thành và hoàng cung nhốn nháo khi nghe tin Trí Hải cùng đám tùy
tùng lặng lẽ rời tư dinh trong một cuộc hành trình đi về hướng
Tây Bắc, tìm lên núi Ngọc Trảng cách xa kinh thành cả năm bảy
ngày đường.
-
Theo dõi chuyến đi của Trí Hải, người ta kể lại rằng:
-
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vântrên
núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc
Lâm, một nhà sư nổi tiếng đạo cao đức trọng của phái Liễu Quán
thời đó, để hỏi con đường đi tìm chân lý.
-
Trong hang núi cheo leo chỉ có mây bay và gió thoảng,
Trí Hải đến gặp sư Trúc Lâm đang nhập thiền định. Chờ mãi vẫn
thấy nhà sư im lìm như tượng đá. Đã ba ngày chờ đợi, vẫn không
thấy nhà sư động tĩnh, mặc dầu hơi thở điều hòa chứng tỏ nhà sư
ở trong trạng thái tham thiền nhưng tỉnh thức.
-
Cuối cùng Trí Hải phải lên tiếng:
-
- Thưa thiền sư, tôi chỉ là một kẻ vô danh, được
người đời kêu là Trí Hải. Kẻ hậu sinh vốn xuất thân từ chốn
hoàng cung nhưng bình sanh ham mê đèn sách. Suốt 10 năm trường
chuyên tâm nghiên cứu, giam mình trong thư phòng, học cho đến
khi thuộc làu kinh sử Đông Tây kim cổ với ước mong luận ra con
đường cứu đời giúp nước. Nhưng càng ngày, chữ nghĩa càng làm cho
tôi hôn mê trong trận đồ bát quái của sách vở từ chương, không
tìm ra được con đường tiến thoái để thực sự đi vào cuộc đời. Nay
được nghe danh thiền sư là bậc đạo cao đức trọng và đạo Phật của
thiền sự là giáo lý cao siêu cứu khổ giúp đời. Bởi vậi hôm nay
tôi lặn lội đến đây xin thỉnh ý thiền sư để mong tìm ra một con
đường, không phải là con đường đi vào rừng thiêng của chữ nghĩa
kinh sách, mà chính là con đường đi vào cuộc đời.
-
Sau câu nói đó, Trí Hải xiết bao vui mừng khi thấy sư
Trúc Lâm từ từ mở mắt nhìn thẳng vào người viễn khách. Ánh mắt
của nhà sư trong như pha lê, sắc sảo như bảo kiếm và tràn đầy
ánh sáng của một buổi bình minh. Vẫn im lặng! nhưng Trí Hải cảm
thấy như người đối diện đang nhìn xuyên suốt quá khứ và vị lai
của mình qua ánh mắt. Nhà sư mở miệng. Trí Hải nín thở đợi chờ.
Nhưng tất cả chỉ là hai tiếng gọn lỏn phát ra từ cửa miệng nhà
sư:
-
- Con gà!
-
Từ những triền núi thấp thoáng giữa rừng mây khói xa
xăm bên kia có tiếng vọng lại:
-
- Con gà! Con gà! Con gà!
-
Âm thanh nhẹ như gió lá xào xạc qua rừng cây, nhưng
cũng mạnh như hải triều âm dâng lên từ phương Đông huyền diệu.
-
Trí Hải hồi hộp đợi chờ những lời lẽ minh triết tiếp
theo nhưng nhà sư đã từ từ nhắm mắt lại. Ba ngày tiếp theo, núi
vẫn núi, cây vẫn cây, và im lặng vẫn chìm sâu trong im lặng.
Người viễn khách bâng khuâng tự hỏi:
-
- Chỉ có vậy thôi sao?!
-
Trên yên ngựa quay về lối cũ, đoàn tùy tùng chỉ thấy
một hoàng thân Trí Hải đầy ưu tư và lẩm bẩm một mình: “Con gà!
Con gà!”
-
Tiết Thanh Minh năm Qúy Dậu, số người đi dự hội Đạp
Thanh ở kinh thành thưa thớt vì tất cả đều tò mò tập trung đến
dinh hoàng thân Trí Hải để tham dự hoặc quan sát, theo dõi “Đại
Hội Con Gà” sẽ được tổ chức tại đó.
-
Số là sau khi từ giã thiền sư Trúc Lâm trở về Thái
Ấp, Trí Hải đã cho mời tất cả văn nhân, tài tử, học giả nổi
tiếng đương thời về dinh để truy tìm cho ra mọi triết lý cao xa
có liên quan đến giống gà. Hơn 3 ngàn cuốn sách được đem ra tra
cứu. Vô số định nghĩa về gà do hơn một ngàn học sĩ đương thời
cốnng hiến vẫn không làm thỏa mãn vị hoàng thân đang muốn thoát
khỏi mê đồ của chữ nghĩa nầy.
-
Giống gà hiền lương, vô tư đã bị những đầu óc thông
thái nhìn qua những cặp kính màu: màu đỏ của tham vọng, màu xám
của hận thù, màu rong rêu của nịnh hót, màu phôi pha của nông
cạn, màu âm u của si mê... Con gà sống thực giữa cuộc
đời bỗng nhiên mất hút, mỗi khuynh hướng vẽ ra một hình ảnh con
gà kỳ dị riêng tư. Con gà đã trở thành một cái cớ để cho người
ta bám vào đó mà leo lên giấc mơ khanh tướng, công hầu.
-
Có nhiều vị khoa bảng đi xa hơn cho rằng gà là một
linh vật vì gà là một trong tam sinh để cúng thần linh. Giò gà
mang thông điệp của thần thánh nên có người giết gà cầu nguyện
để đem giò coi bói với hy vọng tìm ra bí quyết đời mình. Có
nhiều nhà thơ, nhà văn lấy làm tiếc và trách nhà sư Trúc Lâm tại
sao không nói đến con én mùa Xuân, con quốc nhớ nước, con sơn ca
hót lồng lộng trên trời xanh, con hoàng oanh hát chào nhà quý
tộc... mà lại nói đến con gà thấp bé tầm thường.
-
Suốt một tháng trường, Trí Hải càng cố đào sâu về
triết lý con gà, trí óc ông lại càng rối loạn vì những mớ lý
thuyết bòng bong của những nhà thông thái chỉ biết vùi đầu trong
sách vở như ông.
-
“Đại Hội Gà” là một cố gắng cuối cùng của Trí Hải để
bước ra khỏi tháp ngà của sách vở, lý thuyết suông mà đi vào
thực tế. Thực tế ở đây là những gì ngắm nhìn và sờ mó được.
Trong đại hội nầy, Trí Hải kêu gọi bất cứ ai có những loại gà,
giống gà độc đáo và kỳ lạ nhất hãy mang về tham dự đại hội. Đến
giờ Ngọ, cái dinh cơ đồ sộ của hoàng thân Trí Hải đã đầy đặc
những gà. Hơn 500 loại gà từ rừng núi cho đến đồng bằng, sông
biển đều được đem ra đấu xảo. Mọi người xem đều hứng thú: có
những giống gà kỳ lạ như rồng, như phượng, như gia súc, như rắn
rết, như chim muông. Chỉ riêng Trí Hải vẫn thất vọng, hờ hững
đắm mình trong suy tư. Ông muốn quên đi chuyện “Con Gà” nhưng
ánh mắt kỳ diệu và danh tiếng lẫy lừng của sư Trúc Lâm vẫn đè
nặng trí óc và tâm hồn ông như một nghiệp chướng nặng nề.
-
Rừng nhân sĩ đã lui gót, đại hội gà đã tàn, Thái Ấp
đã trở về nếp sinh hoạt thường nhật với cảnh êm đềm và tịch liêu
của nó. Suốt mấy đêm liền Trí Hải vẫn ngồi đăm chiêu trong đêm
thâu.
-
Đêm xuống đã lâu rồi, gia nhân đã mấy lần nhắc hoàng
thân dùng trà khuya đi ngủ mà Trí Hải vẫn ngồi yên lặng trong
sương đêm. Ông nhìn bầu trời đầy sao, nghe gió về trong lá, cảm
nhận cái mát lạnh mơn man của mùa Xuân măng tơ và chìm lắng
trong dòng suy nghĩ. Mùi hoa phù dung thoang thoảng cho ông biết
đã quá nửa đêm. Ông ngước nhìn những vì sao hiu hắt và thao tức
trăn trở cho đến quá canh tư. Giữa không gian vô cùng và thinh
không lắng đọng, tiếng chuông công phu buổi sớm của chùa Thiên
Mụ bỗng vang lên, ngân nga, nhỏ dần rồi tắt lịm như biểu hiện
cho một kiếp người. Từ trong Thái Ấp, một tiếng gà gáy sáng vừa
cất lên. Tiếng gà gáy như một thứ âm thanh nẩy mầm từ lòng đất,
vắt qua bầu trời và rơi vào một thế giới xa xăm. Hồi chuông công
phu quyện với tiếng gà gáy sáng có một sức hút lạ lùng làm cho
Trí Hải lắng nghe. Tiếp theo là tiếng gà gáy sáng thi nhau rộn
rã đủ sức lay động cả bình minh và tâm hồn Trí Hải. Có tiếng gà
thanh thoát cao vút với nhiều cung bậc u trầm như tiếng hò ru
con của người cô phụ. Có tiếng gà trong suốt mời gọi tươi vui.
Có tiếng gà vừa cất lên đã vội vàng rơi xuống. Có tiếng gà khàn
khàn như tiếng ho hiu hắt của cụ già. Trong một khoảnh khắc thời
gian, trí óc của vị hoàng thân lênh đênh, chơi vơi rồi bùng vỡ
ngập tràn ánh sáng. Ông ngạc nhiên nhìn lại chính mình rồi tự
hỏi:
-
- Ta là ai? Một đứa trẻ chưa sanh hay một cụ già đã
chết? Tại sao mấy chục năm qua ta chưa hề nghe được một tiếng
gà gáy sáng? Phải chăng chỉ vì ta quên hiện tại rồi loay đào
bới một dĩ vãng xa xăm và sống mơ mộng cho một tương lai chưa
đến nên đã bao năm qua ta không biết trên đầu có một bầu trời
xanh, bên cạnh ta có những con người thân thương đang sống, và
trong xóm kia có những tiếng gà?
-
Tiếng chuông chùa vẫn ngân nga trong gió, tiếng gà
vẫn rộn rã trong sương, Trí Hải cảm nhận sự hiện hữu của thế
giới, của chính mình và bỗng nhiên cảm thấy một niềm hạnh phúc
vô biên tràn đầy trong hơi thở.
-
- Cuộc đời chính là đây! Sao ta chưa vào đời? Trí
Hải đứng bật dậy đúng lúc người hầu cận trung thành vừa bước
đến, cất giọng run run:
-
- Bẩm hoàng thân đại nhân, trời đã sáng. Xin mời ngài
dùng chén trà sen kẻo nguội. Trí Hải cười vui thành tiếng, nói
với người hầu cận:
-
- Này lão nhân! Ngươi cũng thức trắng đêm với ta
sao? Ô! Trà thơm quá, ngươi ngồi xuống uống với ta một chén đi
nào.
-
Lão hầu cận mở to mắt, há hốc mồm, tay chân run rẩy
tưởng chừng như đang sống trong mơ. Đã hơn 20 năm hầu cận vị
hoàng thân nầy, người lão bộc sống trung thành và âm thầm như
chiếc bóng. Đối với lão, Trí Hải thật phải là một người lạnh
lùng, đôi mắt lúc nào cũng chăm chăm vào trang sách, ra lệnh cho
lão bằng những cái vẫy tay và lắc đầu hay gật đầu nửa vời mệt
mõi. Bỗng dưng hôm nay lại xuất hiện một Trí Hải biết cười, biết
khen trà thơm và kinh khủng hơn nữa là mời lão cùng uống trà.
Người lão bộc chỉ có thể phản ứng bằng những lời lắp bắp:
-
- Dạ bẩm đại nhân, kẻ... nô bộc không... không dám...
-
Trí Hải bật cười thành tiếng, đùa vui vời ông lão:
-
- Ông lão đừng sợ. Đêm qua ta thức suốt đêm vì có ông
tiên trên trời hiện xuống bảo ta phải vui với mọi người và nhất
là sáng nay phải uống trà với lão. Nào ngồi xuống, chúng ta cùng
uống trà để ông tiên khỏi buồn lòng và quở phạt ta.
-
Trí Hải đã đánh trúng tâm lý sùng bái vị hoàng thân
như tiên thánh, nên ông lão đành cúi đầu vâng dạ nhấp chén trà
để vui lòng chủ.
-
Trong cuộc đối ẩm bất đắc dĩ, ông lão toàn “Dạ, thưa”
và chỉ dám trả lời cung kính mỗi khi được hỏi, thế nhưng đối với
Trí Hải lại thích thú vô cùng. Ông đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc
nhiên khác khi khám phá ra rằng, vị lão nô âm thầm như chiếc
bóng bên cạnh ông mấy chục năm không phải là một thứ vật dụng
trong nhà biết cử động mà là một con người thâm trầm, đầy suy tư
và chia xẻ.
-
Bao nhiêu năm qua, người lão bộc và vị hoàng thân
sống kề cận nhau như hình với bóng nhưng chưa một lần nhìn thấy
nhau. Vị hoàng thân như một hòn núi thái sơn sừng sững nhưng
lạnh lùng và cô quạnh. Người lão bộc như một khe suối nhỏ nhoi
róc rách chảy dưới chân cầu. Sự khai ngộ hôm nay như một trận
đại hồng thủy để cho khe suối và núi cao biết nhau rằng mỗi giọt
nước tầm thường đều mang tính chất của đại dương và mỗi ngọn núi
uy nghi đều đến từ sõi đá.
-
Mãi uống trà và trò chuyện, mặt trời đã mọc quá cây
sào. Biên giới ngăn cách giữa ông lão và vị hoàng thân dần dần
nhỏ lại. Đến gần trưa thì những nhười dân trong Thái Ấp đã thấy
hai người khách lạ có dáng dấp quý tộc nhưng ăn mặc tầm thường
giống nhau, một già, một trẻ đi bên nhau vào tận mỗi thôn cùng
xóm vắng của những vùng lân cận kinh thành.
-
Vốn khao khát cuộc sống và yêu thương con người đến
quặn mình, Trí Hải cố gắng phá tung những chấn song của chiếc
lồng son quý tộc đã nhốt ông hơn nửa cuộc đời để xây dựng cái
tín hiệu giữa quần chúng và lãnh đạo, đó là tín hiệu của trái
tim. Dần dà, Trí Hải đã học được tiếng gáy của con gà, đó là
tiếng gáy hồn nhiên, trong sáng, gần gũi, thân thương không ẩn
chứa một mưu mô, một định kiến, một mặc cảm đen tối nào cả.
-
Sau vụ gặt hái tháng Tư, những người nông dân trong
Thái Ấp bỗng xôn xao và hoảng hốt khi họ biết rằng “ Thầy Khoá
lỡ thời,” cái tên thân mật dành cho người thư sinh tuổi trung
niên hàng ngày gần gũi, chuyện trò, hát dặm với trai làng, chia
xẻ với các cụ già, đùa vui với đàn trẻ nhỏ, chính là hoàng thân
Trí Hải, vị chủ nhân tối cao của Thái Ấp mà họ trước đây chỉ
nghe tên chứ chưa từng biết mặt.
-
Từ khi khám phá ra người đàn ông, nhân hậu, xuề xòa
đó là hoàng thân Trí Hải, mối giao tình hồ hởi, thân thương giữa
nhà đại quý tộc và quần chúng bình dân mới chợt loé lên đã chìm
hẳn lại. Trí Hải đi đến đâu mọi người đều e dè, cung kính, xa
cách vì sợ mang tội bất kính. Cái biên cương giữa bình dân và
quý tộc đã do lịch sử xây lũy, đắp thành cao chất ngất đâu dễ gì
phá đi một sớm một chiều. Trí Hải muốn bước vào đời nhưng vẫn đi
bên cạnh cuộc đời. Giới qúy tộc và bình dân chưa thể nhận ra
nhau vì họ không nói cùng chung một ngôn ngữ, không cùng một suy
tư và cũng chẳng chung nhau những nỗi vui buồn qua tiếng cười
hay tiếng khóc.
-
Những đêm dài trăn trở lại đến. Tiếng chuông công phu
chùa Thiên Mụ vẫn thanh thoát, tiếng gà vẫn giục giã đầu thôn
nhưng Trí Hải lại phờ phạc với nỗi bơ phờ của người lạc bước
giữa cuộc đời tầm thường mà cuốn hút nầy. Ông muốn đưa cả hai
cánh tay ra cho đời bắt lấy, nhưng đời lại lạnh lùng và cung
kính khước từ. Trí Hải có cảm tưởng chơi vơi như mình là kẻ ngồi
ở đầu non để nhìn khe suối róc rách reo vui dưới lưng đèo. Thèm
một ngụm nước trong nhưng khi xuống lưng đèo thì nước rút xuống
đồng bằng và khi cố tới đồng bằng thì nước lại trôi xuôi về
biển.
-
Lại vang vọng trong đêm thâu tiếng chuông Thiên Mụ.
Tiếng chuông như hữu tình mà vô ngã vì muôn năm vẫn thoát ra
ngoài buồn vui của nhân thế.
-
***
-
Chùa Từ Vân lặng lẽ đón hai người khách cũ đã mệt
nhoài vì sương nắng đường xa. Trí Hải và lão bộc âm thầm khăn
gói lên đường tìm sư Trúc Lâm. Vẫn chỉ là núi rừng và khung cảnh
cũ nhưng cái lạnh của núi rừng nhức buốt từng thớ thịt mà sư
Trúc Lâm vẫn tham thiền trong tư thế kiết già với mảnh áo choàng
đơn sơ. Đợi đến ngày thứ ba, Trí Hải mới đến bên nhà sư lên
tiếng:
-
- Thưa thiền sư, theo lời của ngài, tôi đã học được
tiếng gáy của con gà; mở lòng thật rộng và cúi mình thật thấp để
gần gũi với lê dân nhưng rốt cuộc tôi vẫn bị tách rời trơ trọi
đứng bên lề. Vì vậy, tôi trở lại đây để xin theo thiền sư học
hỏi. Lần nầy chưa tìm ra hướng đi tôi quyết sẽ không xuống núi
trở về. Xin thiền sư nhủ lời chỉ bảo.
-
Sư Trúc Lâm nhìn dịu dàng vào đôi mắt của người viễn
khách, môi mĩm nụ cười mát dượi và bao dung như giọng nói ấm áp
thật bất ngờ:
-
- Thiện hữu, mời người ăn trước đã.
-
Trí Hải thắc mắc:
-
- Thưa thiền sư, ba ngày qua tôi đã ăn nhiều bữa và
ăn no lắm rồi.
-
Nhà sư trả lời và nhắm mắt vào thiền định:
-
- Không! Thiện hữu chỉ gắng nhét cho đầy bụng chứ
chưa ăn.
-
Trí Hải lui về nhà trai khi bữa cơm chay buổi chiều
đã được người lão bộc dọn sẵn chờ đợi. So với những bữa ăn hàng
ngày thịnh soạn của một ông hoàng thì bữa cơm chay đạm bạc tại
một ngôi chùa heo hút trong rừng sâu như chùa Từ Vân nầy trông
nghèo nàn một cách tội nghiệp. Trí Hải lặng lẽ ngồi xuống cầm
đũa, nhìn chén cơm bốc khói trước mặt và còn nghe văng vẳng lời
vọng như chuông vang của nhà sư “Thiện hữu chỉ gắng nhét cho đầy
bụng chứ chưa ăn!”. Trí Hải cầm đũa, nhắm mắt hít một hơi dài
như muốn tập trung tất cả mọi cảm giác vào cái “ăn”. Mùi cơm
dìu dịu nhẹ nhàng len vào khứu giác và lần đầu tiên ông ngạc
nhiên hỏi người lão bộc đứng bên cạnh:
-
-
Cơm hôm nay nấu bằng loại gạo gì mà lại thơm ngào ngạt như vậy?
-
Đến lượt ông lão ngạc nhiên:
-
- Bẩm tôn ông, chùa nghèo không có gạo de An Cựu hay
gạo Nàng Hương như ở dưới phủ nên phải nấu tạm cơm gạo hẩm. Gạo
nầy là gạo xấu nhất trong các loại gạo đó ạ.
-
Trí Hải gật gù và miếng cơm vào miệng, gắp rau rừng
chấm với tương. Ông vừa nhai vừa cảm nhận được vị ngọt và bùi
của cơm; vị rau rừng vừa ngọt vừa pha chút chua chua chát chát,
rau luộc xanh thoang thoảng như mùi lan núi; những hạt tương đậu
nành vỡ ra, mặn mà và ngọt lịm trong từng kẽ răng.
-
Trí Hải khám phá ra một thế giới nhỏ bé nhưng kỳ diệu
trong từng miếng ăn. Ông như một đứa trẻ mới được bú giòng sữa
Mẹ Thiên Nhiên lần đầu trong đời. Ông quên mùa đông giá lạnh bên
ngoài, quên người lão bộc đứng hầu bên cạnh, quên tất cả những
chân trời mơ ước cao xa. Ông nghe được cả những cảm giác run run
phập phồng trong thân thể mình đang náo nức đón lấy nguồn sống
từ hạt đậu, miếng cơm. Nước mắt ông ứa ra vì biết ơn những bàn
tay đã làm ra hột gạo, trân trọng những mạch đất đã nuôi lớn
cọng rau.
-
Người lão bộc dọn dẹp mâm cơm với chén dĩa sạch trơn
và nghe Trí Hải nói với bóng mình: “Tội nghiệp mình! Bao năm
qua ta chỉ nhét thức ăn cho đầy bụng, bây giờ mới được ăn!”
-
Sáng hôm sau, Trí Hải đến gặp sư Trúc Lâm.
Ông đã hơi quen với không khí tĩnh lặng trong ngôi chùa cổ kính
này. Ông không còn thấy khó khăn khi nói với nhà sư như nói với
một bức tượng:
-
- Thưa thiền sư, tôi đã ăn và đã hiểu lời dạy của
ngài: “Có thì có tự mảy may. Khi không cả thế gian này cũng
không.”
-
Sư Trúc Lâm lại mỉm cười.
Nụ
cười trong sáng và dễ dãi quá, không ẩn chứa một gợn phê phán,
khen chê. Nhà sư hỏi Trí Hải, giọng vô tư nhưng tha thiết như nó
với một đứa trẻ lạc đường:
-
- Thiện hữu có thấy con cọp nằm và con công múa ở đâu
không?
-
Trí Hải trả lời thành thật:
-
- Từ dưới nhà trai lên núi tôi chẳng thấy gì cả.
-
Nhà sư nói tiếp trong dáng cười chưa tắt:
-
- Vì thiện hữu chỉ nhìn mà không xem nên chưa thấy!
-
Vốn đã quen dần với lối nói của nhà sư.
Trí Hải còn hoang mang nhưng biết hỏi thêm cũng vô ích nên rời
chùa, trở lại khu nhà trai dưới chân núi. Ông uống tách chè xanh
và lững thững bước ra ngoài.
-
Núi rừng mùa Đông lạnh và trơ vơ nhưng lại mang vẻ
đẹp lão tùng chịu đựng tuyết sương. Lá khô trải thảm dày trên đá
sỏi. Nắng đã lên nhưng chưa thắng nổi sương rừng và gió núi nên
cả không gian và thời gian nơi này còn nhuộm trắng tóc mây. Trí
Hải nhìn quanh, chân trời xa bị mây và sương che khuất nên mắt
ông đậu trên từng phiến đá, gốc cây. Ông không biết đi đâu,
không có một cõi đi về hay đâu đâu cũng là cõi đi về nên chẳng
bước vội. Rừng vắng quá nên ông nghe cả tiếng bước chân mình dẫm
xào xạc trên lá. Bước chậm quá nên ông thấy bàn chân mình dò dẫm
tìm đường trên mặt sỏi. Một cảm giác mát lạnh và bình an đi từ
gan bàn chân chuyển dần lên mắt, lên tóc nên ông thấy bình thản
lạ lùng trong suy nghĩ và trong vắt trong mắt nhìn.
-
Xa, rất xa, trong vầng sương nắng ẩn hiện, ngọn núi
đá màu xanh thẩm và tím ngắt hiện ra sừng sững trên nền trời
trắng đục làm Trí Hải bàng hoàng giật mình. Rõ ràng trước mắt
ông là trái núi hổ phục - hình con cọp nằm - mà sư Trúc Lâm nói
đến. Chờn vờn phía đuôi “con cọp” là triền núi xẻ ba, cây mùa
đông có đám lá rụng trơ xương, đám màu xám, màu đỏ,
màu vàng, màu xanh trông giống hình một con công đang múa. Trí
Hải chân vẫn cất đi nhè nhẹ, thần trí lâng lâng, mắt không rời
“con hổ nằm và con công múa” đẹp lãng đãng và phiêu bồng với mây
núi như một kỳ quan. Cái đẹp thiên nhiên cuốn hút con người làm
cho Trí Hải ngỡ như mình đã hoà tan với đất, không biết mình
đang hóa thành cây cỏ hay cây cỏ là hiện thân của chính mình.
-
Ông sực tỉnh để nhận ra thằng người nhỏ bé của mình
khi chân bước lên tam cấp của chùa. Sư Trúc Lâm đã đứng đó tự
bao giờ. Hai người nhìn nhau không lên tiếng, “đối diện đàm
tâm”. Im lặng rất lâu nhưng nhà sư và viễn khách đã nói với nhau
hàng ngàn câu chuyện.
-
Nắng đã lên cao. Trí Hải ngước lên nhìn sư Trúc Lâm
mĩm cười và nhà sư gật đầu. Im lặng. Chia tay.
-
Cũng vẫn là con đường cũ mà khi về lại Trí Hải có cảm
tưởng như mới đi lần đầu. Trước đây, con đường chỉ là một phương
tiện để tìm đến với sư Trúc Lâm nên chân bước trên đường mà đầu
vẩn vơ nghĩ về phương trời khác. Nay cũng trên con đường rừng
gập ghềnh ấy, nhưng khi bước lên sỏi đá, Trí Hải biết mình đang
bước, đang sống thực và làm chủ lấy bước chân của mình. Lần đầu
tiên trong đời, ông vừa đi vừa nhìn cảnh vật và sự sống chung
quanh. Ông ngắm những con sáo núi làm tổ trên cây phong và thấy
được con đường chập chùng xa lắc nầy tiếp nối bừng lên sự sống.
Ông cũng thấy mình đang sống, đang bước đi thanh thản như con
kiến đang bò trên đường dài.
-
Về lại Thái Ấp sau một cuộc hành trình xa, Trí Hải
cảm thấy một cái gì vừa đổi khác. Ông tạt qua ruộng lúa, vườn
cà, nương khoai... ngỡ ngàng và thú vị như người hành tinh vừa
mới đến trái đất lần đầu. Ông ngồi xuống nâng niu từng chồi non,
từng đọt bông, từng ngọn lá. Gặp người dân Thái Ấp ông nhoẻn
miệng cười dễ dãi và bắt chuyện với họ tự nhiên như những người
bạn cũ thân thương. Ông không còn cảm thấy mình cao hơn họ và
cũng chẳng thấy mình thấp hơn họ. Ông chỉ thấy mình cũng là một
con người có đủ tính chất vui, buồn, hờn, giận... như muôn ngàn
người khác, thế thôi.
-
Chính lúc Trí Hải không bắt chước mà sống thực hồn
nhiên như tiếng gáy con gà thì cũng là lúc ông đã quên đi bản
thân mình là ông hoàng, là chủ Thái Ấp, là người đã ba năm vây
màn đọc sách, là nhà quý tộc muốn cúi xuống thật thấp, “hạ cố”
đi vào cuộc đời và bị cuộc đời quay lưng từ khước. Khi ông thôi
không còn quay quắt vào đời thì chính cuộc đời tự động mở ra và
vây bủa lấy ông. Người dân Thái Ấp đã nhận được tín hiệu từ trái
tim nên tự động tìm đến với Trí Hải. Họ vẫn dành trọn vẹn cho
ông lễ nghi, cung kính nhưng không còn sợ hãi vì mối giao tình
phát khởi từ những tấm lòng chân thành và nhân hậu với nhau, đó
là sự tương kính gần gũi và yêu thương.
-
Tiếng chuông công phu chùa Thiên Mụ đêm đêm rót vào
bầu trời xứ Huế đã mấy trăm năm, nhưng chuông vẫn không cạn mà
Huế cũng chẳng đầy.
-
Suốt mấy mươi năm, Trí Hải đã nghe quen tiếng chuông
nên dần dần không còn nghe nó nữa, như những đứa con xứ Huế khôn
lớn còn mấy ai nhớ mùi sữa mẹ đọng trên vành môi. Tiếng chuông
ngân vẫn u trầm dìu dặt nhưng không một giọt chuông nào rơi vào
hồn Trí Hải vì lòng ông đã đầy đặc chuyện đời, trí ông đã ngổn
ngang trăm mối. Khi tâm thức không còn khoảng trống cho hiện tại
và mất đi sự ngạc nhiên tươi mát trẻ thơ thì tiếng chuông hay
tiếng đồng vọng của đất trời cũng chỉ là dư âm dội vào tường
gạch vỡ.
-
Sau “Đại Hội Con Gà”, tiếng chuông Thiên Mụ cùng với
tiếng gà đánh thức bình minh lại nhen nhóm trở về với Trí Hải.
Tiếng chuông giọt ngắn giọt dài rơi vào lòng ông lúc nầy cũng
như những giọt mưa đêm rơi vào lòng biển động. Mất hút, lạnh
lẽo, mù sương. Ông nôn nao dậy sóng đi tìm một nghĩa sống cho
đời trong khi tiếng chuông vẫn khoan thai, thanh thản, vô tình
trôi như chiếc thuyền nan trên sông Hương trước chùa Thiên Mụ.
Có lúc ông say đắm bằng nỗi đam mê vụng dại với tiếng chuông,
nhưng cũng có lúc ông giận hờn, bất mãn vì tiếng chuông quá thản
nhiên trước những thao thức trăn trở của con người. Ông muốn
tiếng chuông phải “đeo sầu”, phải có cái “ngã” trong khi tiếng
chuông lại hoàn toàn vô ngã.
-
Cũng vẫn là tiếng chuông Thiên Mụ của trăm năm trước,
cũng vẫn là tâm hồn Trí Hải của trăm năm sau sao bây giờ lại
khác. Trí Hải sống với tiếng chuông như sống với một em bé nhỏ
hay một bác nông phu. Chuông và người cùng sống, cùng ăn và cùng
thở. Đêm khuya ông vẫn nói chuyện rì rào với chuông. Ông hiểu
chuông hơn bao giờ hết. Trí Hải không cần phải thức khuya dậy
sớm mới nghe được tiếng chuông khi trong lòng ông có nắng hòa
với tiếng chuông sâu thăm thẩm phát khởi tự tâm hồn.
-
Ông nghe tiếng gió từ muôn phương, ông thấy cành trúc
từ vạn cổ, ông cảm tiếng chuông từ tám hướng, ông nhận tiếng gà
từ làng thôn. Tiếng gió, cành trúc, tiếng chuông, tiếng gà và
lòng người gặp nhau từ vô ngã.
-
Có một ngày, người lão bộc nghe vị chủ nhân gõ vào
sừng trâu mà hát:
-
Gió đưa cành trúc là đà,
-
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
-
Hát ngêu ngao như một người lãng tử và chơi đùa với đám mục đồng
như thuở ấu thơ, Trí Hải được sống ngây ngất với từng giây phút
trôi qua mà không một chút tiếc nuối với cuộc đời quá dài hay
quá ngắn.
Đầu óc ông trở nên khoảng khoát như một bầu trời mơn man mây
trắng và lòng ông tĩnh lặng như ánh trăng vằng vặc trên đồi xa.
Rừng sách vở vẫn còn là một dấu ấn chưa phai nhưng đã được phủi
bụi và được xếp vào ngăn riêng của nó. Nhờ vậy ông đã bắt đầu
tập nói chuyện triết lý cao siêu bằng ngôn ngữ chất phác và đơn
sơ như nói vè hay kể chuyện Tấm Cám. Dường như đôi khi ngôn ngữ
là một phương tiện nghèo nàn, bất lực và yếu đuối trước im lặng
suy tư. Lý sự là chiếc ghe chòng chành mà im lặng là chiếc cầu
vững chải để qua sông, giòng sông tư tưởng có bờ bên nầy là bão
nổi bon chen tuyệt vọng và bên kia là trầm tư tĩnh lặng tuyệt
vời.
-
***
-
Có đám bụi đất đỏ của đàn trâu đạp lúa đang về và có
đám bụi mù của vó ngựa phi nhanh trên đường quê Thái Ấp. Đối với
Trí Hải thì đám bụi nào cũng giống nhau, vó trâu hay vó ngựa
cũng chỉ là những bước đi dấy lên từ đất, nhưng đối với người
dân Thái Ấp thì vó ngựa có người kỵ mã mang lệnh bài của triều
đình là một biến cố. Mọi người lập tức dạt ra hai bên đường và
dắt trâu nép xuống bờ ruộng cho kỵ sĩ và tuấn mã phi nhanh về
phía dinh ông hoàng. Trí Hải đang kể chuyện về giống vịt trời
cho đám trẻ con đang chen lấn nhau, hoác miệng cười vang bên bờ
ruộng. Ông cung tay thi lễ đón nhận lệnh của vua triệu vào cung
khẩn cấp với vẻ bình thản như nghe chuyện xảy ra hàng ngày trong
Thái Ấp đã làm cho mọi người và ngay cả sứ giả ngạc nhiên đến độ
sững sờ. Một Trí Hải nghiêm trang, trịnh trọng, lạnh lùng và
cách biệt không còn dấu vết nơi ông. Trước khi bước lên cổ xe
song mã lộng lẫy của triều đình vào nội thành, Trí Hải còn vui
cười vẫy lũ trẻ sợ hãi ngồi im thin thít hay chạy biến loanh
quanh để dặn dò lúc về ông sẽ kể tiếp chuyện vịt trời. Trên
đường vào đại nội, vị quan bộ lễ hộ giá hoàng thân kể rằng, sau
vụ án “văn chương phản nghịch” ấm Thuyên, vua mang tiếng là bạc
đãi trung thần và khắt khe với hiền sĩ nên đã tìm cách lấy lại
niềm tin của giới nhân sĩ Bắc Hà bằng cách cho vời vào cung một
phái đoàn nhân sĩ đất Thăng Long gồm nhiều nhân vật danh tiếng
và các học sĩ lừng lẫy xứ Bắc vào Huế để được thấy tận mắt uy
thế của thiên triều và giang sơn hoa gấm của đất Thần Kinh. Đồng
thời vua cũng muốn ổn định phương Bắc quá xa xôi và sử dụng nhân
tài, nhưng trong hơn mười ngày qua, giới nhân sĩ Bắc Hà không
làm vua hài lòng vì họ vẫn xa cách và lạnh nhạt trước những tiểu
yến và đại yến được mở ra tưng bừng để chiêu hiền đãi sĩ. Với
quyền uy thiên tử, chém đầu ba họ thì chỉ cần một cái gật đầu,
nhưng chinh phục được lòng người thật khó. Giới sĩ phu Thăng
Long không khuất phục trước quyền thế, không mờ mắt trước hư
danh, không dễ dãi chấp nhận những lời biện thuyết của giới học
sĩ Đàng Trong. Sự từ chối lời mời ở lại phò vua, giúp nước của
họ đã làm cho cả triều đình Huế vừa bối rối vừa ngấm ngầm tức
giận nên mọi hy vọng đang đổ dồn vào Trí Hải.
-
Đại yến đang mở ra tại Ngự Viên. Đội ngự binh gươm
giáo sáng lòa. Các quan phẩm phục lóng lánh như sao sa. Cung
tần, thị nữ đẹp rực rỡ và thơm mát như những hình hài không có
thật ở trần gian... Bỗng mọi người đều “ồ” lên kinh ngạc khi Trí
Hải bước vào. Một hoàng thân Trí Hải có dáng đi đường bệ với
khuôn mặt nhìn thẳng lạnh lùng trong phẩm phục triều nghi có thể
chói lòa trong đêm tối đâu rồi. Một Trí Hải khác có dáng đi
khoan thai, khuôn mặt vẫn thanh tú nhưng màu da trắng xanh nay
trở thành rám hồng vì nắng gió. Nét cười khoan hòa dễ dãi và đôi
mắt tinh anh nhưng lại ấm cả vùng trời đang đậu trên từng người
quen và khách lạ. Áo quần đơn sơ mà thân thiện như người nông
dân đi ăn giỗ. Một thoáng xôn xao nổi lên trong đám nhân sĩ Bắc
Hà. Người ta tự hỏi, một vị hoàng thân tiếng tăm như Trí Hải lại
là một người bình thường và đơn giản đến thế sao.
-
Buổi đại tiệc bắt đầu khi xa giá của nhà vua ngự đến.
Những lễ nghi quan cách rườm rà lúc đầu từng bước nhường lại cho
mục đích chính của buổi ngự yến là cuộc đấu trí tay đôi giữa
nhân sĩ Bắc Hà và giới học sĩ đất Thần Kinh nhằm thuyết phục
khách Thăng Long ở lại ra tay phò vua giúp nước. Các Văn minh
điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Cần chánh điện đại học
sĩ cùng các danh gia, danh sĩ Thần Kinh đối mặt với sĩ phu Bắc
Hà trên chiến trường trùng điệp, võ trang bằng lý thuyết và tư
tưởng của Bách Gia Chư Tử. Khi hai bên đều có kẻ tung người hứng
không để hở đường tơ kẻ tóc thì Trí Hải và Lê Trung Ọn, thủ lãnh
sĩ phu Bắc Hà vẫn ngồi im lặng lắng nghe. Hai phe chưa ai nhường
ai nửa chữ. Đêm trôi dần, cuộc đấu xoay chiều đến hồi gay cấn
qua chuyện “chính danh”. Dù lời lẽ bóng bẩy nhẹ như tơ trời, dù
sự ngụ ý xa xôi như sao khuya leo lắt, nhưng ai cũng hiểu là hai
phía đang nói đến vương mạng của nhà Lê và nghiệp đế của nhà
Nguyễn. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía Trí Hải và Lê Trung Ọn
khi luận bàn chuyện “tiếm quyền và tiếm văn”. Phía nhân sĩ Bắc
Hà thì cho rằng, chỉ có câu ca dao duy nhất phát xuất từ miền
Bắc:
-
Gió đưa cành trúc là đà,
-
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
-
Giới học sĩ Thần Kinh thì lại dùng mọi luận chứng
lịch sử để cho rằng, chỉ có một câu ca dao xuất phát từ Huế, sau
khi chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng cho khởi công xây dựng
vào năm 1601:
-
Gió đưa cành trúc là đà,
-
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
-
Vô hình chung, Trí Hải và Lê Trung Ọn biến thành thủ
lãnh của hai phe. Thế nhưng im lặng kéo dài. Mãi đến khi nhà vua
lên tiếng gọi hai người ngõ lời, Trí Hải mới đứng lên. Mọi người
như nín thở chờ đợi những lời minh triết cao siêu, những biện
giải hùng hồn như sấm dậy do vị hoàng thân uyên bác nầy sắp sửa
nói ra. Trí Hải mĩm cười nhìn Lê Trung Ọn và đồng thời cũng bắt
gặp nét cười trả lại. Hai nét cười tỏa hào quang của sự đơn sơ
như cỏ nội hoa đồng, của sự cảm nhận sâu xa và trọn vẹn. Hai lối
nhìn tinh anh, sâu thẳm nhưng nhu hòa không gợn một chút thách
đố khen chê. Trí Hải đọc mấy câu thơ của Tuệ Trung nói với vua
Trần Nhân Tôn về cái tâm tĩnh lặng, vô ngã:
-
- Giữa ba nghìn thế giới,
-
Có chung một nụ cười.
-
Trăm nhánh sông vô ngã:
-
Chung một giòng ra khơi.
-
Thiên Mụ, Trấn Võ, Thọ Xương... đều là tên đặt, là
danh từ, là huyễn tướng. Tên sông không phải là giòng sông, tên
đường không phải là con đường, ngón tay chỉ mặt trăng không phải
là mặt trăng. Cho nên tranh nhau cái tên gọi là hoàn toàn vô
ích, phù phiếm. Tiếng gió lao xao qua cành trúc, tiếng chuông,
tiếng gà đến và đi từ vô ngã, không lời. Chấp ngã, nhiều lời
sinh ly tán!
-
Nhiều người thở dài thất vọng. Với họ, Trí Hải đã mất
đi khả năng ứng đối khóa lưỡi kẻ thù, chẻ tóc làm tư.
-
Mọi người lại nhổm dậy. Đến lượt Lê Trung Ọn đăng đàn
lên tiếng. Ông mượn lời của thiền sư Hương Hải nói với vua Lê Dụ
Tôn về cái tâm rỗng lặng:
-
- Nhạn bay cao vút trời xanh,
-
Nước soi bóng nhạn mong manh giữa vời.
-
Nhạn đi bóng mất lưng trời,
-
Nước không lưu giữ bóng ngời thoáng qua.
-
Thiên Mụ, Trấn Võ, Thọ Xương và tiếng gió, tiếng
chuông, tiếng gà đều là giả tướng, không có thật. Khi tâm lắng
nghe là có, khi tâm khép lại là không. Khi đã không thì cả thế
gian này cũng không. Không có chấp ngã mà cũng chẳng có vô ngã.
Quyết tranh nhau cái không có để về đâu?!
-
Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Trí Hải và Lê Trung Ấn
đã tiến lại gần nhau, cầm tay nhau như hai người bạn cố tri, như
hai người anh em từ kiếp trước và nhìn vào mắt nhau rất sâu như
đọc hết những thế giới âm u ẩn tàng sau nét mĩm cười rất nhẹ.
Nhà vua cũng cả cười bước xuống cầm tay họ và chư khách cũng
bùng vỡ tiếng cười vui không che dấu những mưu toan. Đêm tàn
nhưng đại tiệc chưa tan. Bỗng tất cả đều lặng im vì tiếng chuông
công phu của chùa Thiên Mụ vừa lọt vào Ngự Viên. Lê Trung Ấn ngỏ
lời: “Nước non muôn thuở không hay có. Một cõi đi về phát tự
tâm”. Trong mắt vua, ngời ánh phong quang và thoáng nét
phong trần nhưng thuần hậu của tay hảo hán Lương Sơn Bạc, người
đã vào sinh ra tử để thống nhất sơn hà, dựng nên nghiệp đế. Nhóm
nhân sĩ Bắc Hà, cùng nhìn một hướng về phía giang sơn thay cho
nụ cười kiêu bạt, lên tiếng: “Vâng, chúng tôi sẽ ở lại!”
-
Tiếng chuông Thiên Mụ từ hai trăm năm trước vẫn ngân
nga mà cũng chẳng bao giờ có thật.
--o0o--
|
|