|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
DƯỚI MÁI CHÙA XƯA
-
Võ Hồng
-
--o0o--
-
-
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở
ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy
ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con
đường xuyên qua xóm. Mẹ tôi dặn :
-
-
Không được kêu là “Ông thầy chùa” nghe chưa? Hỗn.
-
Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện khi
nhắc tới ông thầy.. đó thì mẹ tôi dùng ba chữ “Thầy Châu Lâm”.
Giọng kính cẩn có pha chút thân tình. Những người trong xóm khi
nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
-
Đi
trên đường thầy cứ nhìn thẳng, nét mặt diệu dàng không vui không
buồn. Tôi chịu không đoán được tuổi. Tóc và râu là hai bộ phận
để căn cứ mà định tuổi thì thầy đều không có. Mặt lại không nếp
nhăn. Miệng lại không cười. Đi giữa chúng tôi mà không gây nên
tiếng động.
-
Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ một cây số
rưỡi, nhưng đối với tuổi ấu thơ của tôi thì như vậy đã là xa hun
hút. Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi bọc vòng chân
núi, đi theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chải
mọc dày. Cảnh vật khác hẳn cảnh vật trên xóm, tưởng như là hai
thế giới riêng biệt. Bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía.
Rắn mối và kỳ nhông bò rèn rẹt mỗi lần có bước chân tới gần. Ở
trên miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên cành cây mọc chìa ra
đường, thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái đầu màu
đỏ lên nhìn. Những đoạn đường quanh co vội vã. Không dám chạy
thẳng một mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy,
không muốn động chạm đến cả sự quây quần yên lặng và khiêm tốn
của lũ cỏ gấu, con đường nhường nhịn, len lỏi né tránh.
-
Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa
ruộng thấp, đi lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn
nhỏ rồi mới tới cửa Tam quan. Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ
ghề làm bờ thành bờ dậu. Tất cả là công trình của bàn tay cần
cù, là chứng tích của sự nghèo khó. Chắc thầy trụ trì và chú
Điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau
trong những buổi mai còn đầy sương, trong những buổi chiều có
tiếng sơn ca lanh lảnh hay trong đêm trăng thơm mùi hoa đại.
Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẽ đá, nơi dung
thân của lũ rắn mối cắc kè.
-
Ấp
tôi dân số đã ít ai nghèo nên chùa không thể nào giàu được.
Hình như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thổ và để có đủ
lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy giạ giống ruộng. Bởi hoa lợi
ích ỏi nên thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ đệ.Người đồ đệ này
là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi nên chú tôi cứ tha hồ xưng
hô bằng “thằng”, bằng “mày” trong khi những đạo hữu cao tuổi gọi
bằng “chú Điệu”. Tôi thì bắt chước theo lũ nhỏ kêu bằng “ông
điệu” dù ông chỉ mới khoảng 16 – 17 tuổi. Ông điệu lo sạ lúa,
làm cỏ, tát nước ruộng. Một hôm bị bạn bè rủ rê – trong đó có
chú Ba tôi, – hái luôn một trái dưa hấu của đám rẫy cạnh vườn
chùa rồi bạch ra ăn với nhau. Thầy trụ trì bắt gặp. Thầy lùa cả
bọn vô chùa để tra hỏi, sau đó thầy sai ông điệu ra sau liêu lấy
cái roi mây. “Ông” bước đi rất chậm, tưởng như bàn chân đang bận
suy nghĩ. Thầy bình tĩnh đợi. Khi cầm roi trên tay, thầy bắt ông
nằm xuống. Trót! Trót! Trót! Ông điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ
lên, vừa “Lạy thầy con lỡ dại! Lạy thầy con xin chừa”. Sau năm
roi, thầy ra lệnh cho ngồi dậy. Ông điệu vâng lệnh ngồi dậy
nhưng không bước ra hiên lấy gáo múc nước rửa mặt như tôi tưởng.
Mà ông lại đứng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bỗng ông quì xuống
lạy luôn ba lạy.
-
Tôi ngạc nhiên hết đỗi. Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống
đánh xong cho ngồi dậy là tôi vừa khóc hù hụ vừa ra hiên múc
nước rửa mặt. Lần nào cũng vậy, y như một nghi thức không thay
đổi. Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ người vừa đánh
mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ. Một sự kính trọng
bồi hồi. Nhưng chưa hết. Thầy trụ trì ung dung nói :
-
-
Đi vô làm lễ sám hối.
-
Ông điệu “Dạ”, lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên
người. Ông châm một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật.
Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi vào cái trống sấm. Rồi sau đó ông
quì tụng niệm ê a một lát lâu.
-
Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay theo chú ba Ba tôi đi chơi lang
thang nên cái cảnh ông điệu bị đòn, tôi chứng kiến từ đầu đến
cuối. Tôi giữ một ấn tượng tốt về nhà chùa là bởi sự kiện đó.
-
Có
lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một cái chum đất nung lên men
đặt ở sân sau của chùa. Chú nói:
-
-
Cái chum tương đó.
-
Tôi hỏi :
-
-
Sao đem để ngoài nắng vậy?
-
-
Đem dang cho tương nó ngon.
-
Mày tưởng chùa gọt vỏ bívỏ bầu rồi bưng đổ hả? Không có. Đem bỏ
vô chum tương, để lâu nó thành tương.
-
Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không
chịu phối kiểm với thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi
không biết sự thực có phải đó là một cách làm tương đơn giản hay
không. Nhưng cho dẫu không biết chắc, tôi cũng có thể cả quyết
rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô sơ hơn
hết. Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông điệu là biết
ngay. Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc khi ra đường là tươm tất, còn
khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn
vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy
từ mảnh mai trở nên gầy gò. Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc tự
tay thầy trồng. Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy sỏi
đá nơi cửa sổ nhà Đông, có những lá già ở gần gốc đã được tướt
đi. Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc
bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da
trâu cứng.
-
Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật
chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi
người. Ai muốn ghé chùa chơi cũng được, ghé vào giờ nào cũng
được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không
phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp. Có
mấy bụi chuối mốc đứng ở chái chùa là hay có trái hườm trên
những buồn chuối nặng. Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng
thấy trước và lén mổ trộm. Người từ xóm lại phải đi băng qua một
quãng đồng trống, ai công đâu xách một bụi chuối trên tay? Quả
rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm của chùa. Mấy trái mãn
cầu chín quên hái ở ngoài vườn, chùm ớt đỏ nơi bụi ớt ở vại nước
rủ rê lũ chim đội mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa nói
chuyện rinh rả. Bụi thơm cây mít ở sau lưng chùa thì có lũ sóc
ranh mãnh dòm chừng.
-
Người tìm đến chùa thường để xin nghỉ mát hay để tìm nước uống.
Đó là trường hợp những người cấy lúa, cuốc cỏ mía ở những đám
ruộng đám thổ gần đó. Buổi trưa nghỉ tay. Về trong xóm thì xa,
ngồi dười gốc cây thì hanh nắng, sẵn có chùa gần xin vào nghỉ ở
chái sau. Nước uống thì sẵn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha
hồ. Tuy nhiên, dùng chỉ hết mươi gáo nhưng họ bảo nhau ra giếng
xách châm vào cho đầy hũ đầy lu, đỡ tay chú điệu một bữa. Hôm
nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ ăn thì chú điệu múc cho chén
tương.
-
Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối. Bò
lùa thả ăn ở chân núi còn chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh
trổng hoặc sục sạo vào các bụi cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ,
nhãn chày... Khi không nhằm mùa trái cây thì bứt đỡ lá dang lá
me xuống chùa xin muối lên chấm ăn. Bước qua vại nước thấy có ớt
chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối. Nếu
thầy trụ trì hay chú điệu bắt gặp thì cũng chỉ “Ê Ê!” vài tiếng
và người phạm lỗi rút tay ra, bẽn lẽn cười rồi đi luôn. Không ai
nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp. Cái không khí tịch mịch bao
dung nuôi dưỡng lòng hỉ xả.
-
Lên bảy tuổi tôi đi học ở trường Thiện Đức, cách nhà một con đò
và hai cây số đường bộ. Trường nằm ở trên chỏm núi. Do mấy người
bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang giữa giờ học tôi cũng “xin phép
thầy cho ra ngoài”. Thật tình tôi không hiểu “đi ra ngoài” là
đi đâu mà cứ thấy mấy anh lớn hay giơ ngón tay lên xin. Gạn hỏi
mãi một anh lớn tên là Khoan, – sau này lên lớp Tư chúng tôi cứ
kêu là anh Tư Khoan bởi có một bài tập đọc kể sự tích ông Lưu
Khoan có người thị nữ bưng bát cháo lên hầu, lỡ tay đánh đổ cháo
ra ái chầu vân vân – giảng cho tôi nghe :
-
Đi
ra bụi duối ngồi mát.
-
Tôi nói :
-
Ngồi trong lớp đâu có nực? Mát buồn ngủ luôn
-
Nhưng đâu bằng ở ngoài núi? Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.
-
Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phèn, -
tôi đang nghĩ tiếp. Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi, lựa cho
được cây duối ngọt. Kiến vàng đít bự ưa trái duối lắm, bò từng
đàn...
-
Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước – anh Khoan
tiếp. Xin vài trái chanh chấm ăn với muối.
-
Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa. Tôi đợi giờ chữ Nho
của thầy Lê Ngu Tân. Thầy hiền, không đứa nào sợ. Anh Khoan đợi
tôi ở ngoài cửa lớp. Thấy tôi ra, anh khen liền :
-
Được đó, mày phải dạn lên một chút. Thôi bữa nay khỏi ăn duối
đi. Tao cho mày xuống chùa Cảnh Phước.
-
Không cần hỏi tôi có đồng ý không, anh cứ xổ dốc luôn. Trời ơi!
Triền dốc thì đứng mà anh cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm
luôn một nhánh cây mới hãm bớt tốc lực. Nhiều lần như vậy. Cuối
cùng, chúng tôi lọt vào sân chùa.
-
Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh
Phước giàu hơn chùa Châu Lâm. Có nhiều màu trắng củavôi mới nơi
trụ hiên, nơi vách. Có sự bằng phẳng rộng rãi nơi sân, các lối
đi được viền bằng cỏ tóc tiên. Hoa được trồng thành bồn. Có một
dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi măng trong thả bèo hay trồng
sen. Vườn chùa kế tiếp theo sân. Một cây cần vọt nước cất tiếng
kẽo kẹt. Nhiều cây chanh lá xanh um đứng kề thềm giếng. Khế, ổi,
bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những
cây cao có hoa màu đỏ đứng cạnh những ngôi tháp.
-
Nhiều lần sau tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh
Phước và mỗi lần như vậy giúp tôi khám phá thêm một nét phong
lưu của chùa. Thầy trụ trì vui vẻ nhìn chúng tôi, ngắt cho những
trái chanh vừa vò đầu âu yếm. Những lúc ấy tôi bỗng nhớ đến
khuôn mặt trầm ngâm của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi
chợt thấy thương thầy. Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu
xám nơi cửa nơi vách, có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng
và vuôn vức, có nhiều sỏi đá đến nỗi cây khế cũng không trỗ được
màu xanh.
-
Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là “chùa Đồng Mạ”. Tên đó dành
cho những người bình dân trong xóm gọi. Chùa Cảnh Phước không có
tên nôm. Trong tuổi ấu thơ, tôi đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt
thòi của kẻ giàu. Lớn lên, tôi biết rằng có nhiều ngôi chùa vừa
giàu vừa có đủ hai tên. Như chùa Đá Trắng với tên “Sắc tứ Từ
quang tự”, chùa Tổ với tên “Sắc tứ Bát nhã tự”. Sắc tứ tức là
được nhà Vua công nhận và ban cho cái tên. Y như là những con
người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang. Ở Phong thăng có một ngôi
chùa giàu không được “Sắc tứ”. Nhưng có tên là chùa Bảo Sơn. Bảo
Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn... những cái tên khi đọc lên có âm vang
của sự sang giàu. “Châu Lâm” của xóm tôi khiêm tốn đến nỗi không
muốn lạm dụng đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có
nhiều tiền mới sắm được.
-
Có
một món quà chùa sẵn lòng tặng cho ai cần : đó là những cành
bông điệp. Không biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi
mỗi lần có việc cúng kỵ là chỉ chăm chăm đi hái bông điệp để cắm
lên bàn thờ. Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có thể cắm thêm
bông vạn thọ, bông trang đỏ. Những loại hoa khác như cúc, thược
dược, huệ hồng... dẫu đẹp nhưng là món cắm chơi giữa người trần
với nhau. Tục lệ đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt :
cây bông điệp trồng một lần mà ra bông cả vài chục năm bởi nó là
thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn. Hoa có hai loại, màu đỏ và
màu vàng mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba chùm là đủ ghép thành
một bình. Chùa trồng ba, bốn cây ở trên lối đi và như vậy là đủ
cho nhu cầu của một xóm.
-
Sự
liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dẫu
không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện
diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì
về chùa để tìm an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh
siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.
Mười năm một lần ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành
lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân
chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới
dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây
vừa là Lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười
năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi vào cầm
đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người
hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy
-
Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao nhang hay
buồng cau nải chuối, người có góp phần công đức năm cắc một đồng
hay gói trà phong bánh đều được mời dự bữa cơm chay ngang hàng
với kẻ chỉ tới tò mò đứng coi. Có người quá nghèo thì tới lãnh
phần gọt vỏ bí vỏ khoai hay vo gạo đãi đậu. Có người tối mặt tối
mày trong bếp.
-
Một lần tôi theo cha tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa. Thầy
trụ trì ngồi nói chuyện bình thản với khách trong khi các người
nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu lấy. Họ tự sai pháp, phân công
làm như chuyện chùa là chuyện nhà của họ. Những tiếng kêu gọi,
hỏi han, dặn dò đan tréo vào nhau ;
-
Đưa đây chai dầu phộng!
-
Ra
vác thêm bó củi, em em. Lấy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.
-
Lu
gạo để ở đâu? Chớ tỉn này vét hết rồi.
-
Hỏi chú điệu. Chú điệu ơi! Uở, mà cứ xúc thúng gạo lúa Gòn của
cô Năm mới đội tới đó cũng được mà.
-
Bí
sắp này chắc lấy giống ở Đờ răng. Trái to mà dài như con heo. Ở
trong chùa Tổ, nấu chay có la ghim Đờ răng và Trà Lạch chở
xuống.
-
Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo
hữu giàu ở các tỉnh khác cũng xin quy y làm đệ tử. Một số các đệ
tử gốc ở Dran, Đà lạt. Mỗi kỳ lễ lớn, họ gởi theo xe hàng xuống
từng giỏ cần xé to những bắp sú, cà rốt, khoai tây, đậu Hòa lan,
củ cải... Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở chùa Tổ,
các bà Lý bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon
ra làm sao nhưng tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm
yêu thương ngôi chùa nghèo của họ và cuộc đời tầm thường của
chính họ. Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người.
Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.
-
Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn. Không
có sự náo nức của người dự cỗ. Không ai tham ăn, háu ăn, mọi
người đều huỡn đãi mời mọc nhau. Chỉ vì món chay của nhà-quê hồi
đó không có những mỹ vị đam mê. Xào thì đậu đũa xào dầu, mướp
xào dầu, khoai lang xào dầu. Đại khái là một món rau trái được
lăn qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi cho
chín. Món canh thì nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có bát
này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát nọ là rau cải.
-
Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng. Và mười lần như
một, thế nào cũng có một người đưa ra ý kiến :
-
Ăn
chay thì phải gắp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon.
-
Lần nào dự bữa ăn chay tôi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ đầu tiên
nói lên câu đó. Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói
trước. Và chú Ba tôi thực hành liền. Chú lấy một bát canh, bẻ
bánh tráng nướng bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu đủ bỏ vô
và chú chuẩn bị biểu diễn. Cô tôi đẩy dĩa cốm và bánh in lại gần
(ở miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộn đường
đóng khuôn) :
-
Bỏ
luôn miếng cốm vô.
-
Chú Ba cười liền :
-
Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.
-
Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dịp ghé thăm nhiều ngôi
chùa sang trọng, được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon
lành. Mỗi lần như vậy lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa
quê của tôi , đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo nàn, thanh
đạm đến mức “có thể trộn lẫn nhiều món vào nhau” mà không sợ mất
hương vị. Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi rằng mất?
-
Những kỷ niệm ngày thơ ấu đó dẫu có thời gian cách trở nhưng bây
giờ đây mỗi lần nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mắt.
Tôi có thể nghe cả giọng nói với âm thanh riêng biệt của từng
người. Bà Bộ, buôn trầu cau ở chợ Chiều, mỗi lần lễ xong tới mục
thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn trên xếp đầy những tờ
giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa. Bà châm lửa
đốt từng xấp giấy rồi chắp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính.
Những tàn tro giấy vỡ ra, bị hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn
lững lờ. Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với những bà con đứng
nhìn xung quanh :
-
Các đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó. Các Ngài đứng ở trên cao.
-
Không ai tỏ bày ý kiến. Bà đành nói tiếp – như để thuyết phục
một kẻ hoài nghi tưởng tượng nào đó, - cái lý luận bà đã chuẩn
bị sẵn ở nhà, có lẽ đã nói nhiều lần ở nhiều nơi rồi :
-
Chớ Trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay?
-
Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn. Cả cái không gian âm
u của buổi chiều nơi sân chùa như đầy những vong linh, những cô
hồn tụ hội. Bà Bộ thật xứng đáng được các đẳng ban thưởng. Tôi
chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt của bà lúc ấy.
-
Trải qua cuộc chiến dằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi
chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh
ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, con
chim chào mào chìa vôi chắc ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau
hiên trước.
-
ĐI
CON ĐƯỜNG KHÁC.
-
Bác gắng tăng thêm tốc độ.
-
Dạ.
-
Gắng tăng thêm nữa.
-
Dạ.
-
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp
nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh
đồng trải rộng, trải dài, lác đác có thôn ấp nấp sau những lũy
tre. Chúng nằm bất động, cản ngăn tầm mắt khiến tôi có cảm tưởng
là xe vẫn còn chạy chậm. Tôi muốn giục thêm bác tài nhưng tự
nhiên thấy mình khiếm nhã. Tôi đã giục nhiều lần rồi. Giục thêm,
có khác nào bảo rằng bác ta thiếu thiện chí hay kém tài năng.
-
Tôi ngồi chồm ra trước, làm như tư thế đó giúp cho xe chạy mau
hơn. Tôi rung những ngón tay tưởng như điều đó làm cho chiếc xe
cũng sốt ruột mà gắng chạy nhanh hơn. Rặng núi thấp có những rẫy
sắn rẫy đậu nằm bắc thang trên sườn, từ nãy giờ vẫn chưa vượt
qua. Tôi muốn bất chấp xã giao lên tiếng giục bác tài chạy mau
hơn nữa, nhưng chợt nhìn xuống cây kim đỏ chỉ tốc độ tôi phát
hoảng : 110 cây số giờ. Đó là tốc độ nguy hiểm đối với đoạn
đường này. Là đùa với Thần Chết và đi kề cái chết.
-
Tôi lẩm nhẩm nghĩ : “Đằng nào cũng trễ rồi. Hôm nay đã 16 tháng
chín. Xe không thể chạy về đêm. Trưa ngày 17 là hết. Là xong
hết...” Tôi cảm thấy nóng nơi khóe mắt. Tôi cảm thấy nước mắt
đang tụ tập về điểm lệ nhưng tôi cố ngăn không chúng họp thành
giọt. Tôi cắn răng, cầm chắc sự can đảm trong bàn tay trái nắm
chặt.
-
Chợt xe phanh gấp một tiếng két nhức tai. Tiếng bánh xe lết trên
mặt đường. Người tôi nhảy chồm lên, ngã nhào tới trước. Nhưng
tôi hoàn toàn không có chút hoảng sợ. Tô bình tĩnh đến mức độ lạ
lùng. Tôi sửa lại tư thế ngồi, dựa lưng ra nệm và chậm rãi ra
lệnh :
-
Thôi bác chạy chậm lại. Tám mươi đến chín mươi cây số thôi.
-
Tôi không cần biết cái hãm phanh vừa rồi có nguyên do nào. Mọi
nguyên do đều vô ích khi không sửa chữa được Thực tại. Tôi nhắm
mắt lắng nghe hơi thở của mình. Trong trí óc tôi có tiếng kêu.
“Chương ơi! Chương ơi!”, tiếng kêu của tiềm thức tôi. Không có
tiếng đáp lại. Vĩnh viễn từ nay sẽ không còn tiếng đáp lại.
-
Tôi lần mở xắc lấy ra tờ chương trình. Năm chữ “Đại giới đàn
Phước Huệ” in màu chữ đỏ. Những danh từ xa lạ. Lật trang sau...
-
Điều kiện thọ giới Sa-di :
-
Thuộc hai thời công phu
-
Thuộc hai cuốn luật tiểu
-
Điều kiện thọ giới Tỳ-kheo :
-
Đã
thọ Sa-di ít nhất hai năm
-
Đủ
hai mươi tuổi đời.
-
Thuộc hai thời công phu và bốn cuốn luật tiểu.
-
Phải có đầy đủ y bát, tọa cụ và đãy lọc nước.
-
Những điều kiện này đang ràng buộc Chương. Đang thắt cột Chương
vào một tập thể lớn có qui luật, nơi đó Chương xóa bỏ Quá Khứ
của anh. Nơi đó Chương sẽ là một cái lá trong nhiều cái lá, một
cành cây giữa những cành cây, một hạt bụi lẫn lộn trong hằng hà
sa số hạt bụi. Và tôi, Trâm, người yêu của anh sẽ không còn
chiếm nửa linh hồn anh, ba phần tư linh hồn anh, bốn phần năm
linh hồn anh... mà tôi rút gọn lại chỉ còn là một chúng sinh xếp
đồng đẳng với muôn triệu chúng sinh trước đôi mắt anh. Tôi tham
lam hơn, Chương ơi! Tôi không chịu được ý niệm Dân chủ, tôi ghét
cái cân của ngành Luật pháp bởi tôi không chịu đồng đẳng với ai,
tôi phải chiếm chỗ cao hơn hoặc là tôi đoạn tuyệt.
-
Mà
anh có đi tu thật không? Có thể là con Như nó lầm không? Em nhận
được thư hỏa tốc của nó bảo đích xác là có tên anh trong danh
sách những người nhận giới trong Đại giới đàn. Có thể có sự
trùng tên không? Em không hi vọng lắm. Khó có hai người cùng
mang tên Lại Tăng Chương.
-
Như nó gởi luôn cho tôi tờ chương trình. Ngày 17 tháng 9 Quí
Sửu, sáu giờ : Hưng tác thượng phan, khai chung bản, khai kinh
bạch Phật. Tôi chẳng hiểu nói cái gì trong đó. Đoán lờ mờ là có
treo cờ, đánh chuông, tụng kinh. Chắc không sai mấy, 8 giờ : Tấn
đàn Sa-di. Chắc có nghĩa là truyền giới cho mấy ông Sa-di. 12
giờ : Quá đường. Có phải nghĩa là đi qua phòng ăn để thọ trai?
Có thể là không phải vậy. Mặc kệ. Chiều ngày 19 và sáng ngày 20
: Tấn đàn Tỳ-kheo. Lễ truyền giới cho Tỳ-kheo kéo dài
lâu hơn chắc bởi cấp bực tu trì cao hơn. Chẳng biết Chương sẽ
nhận giới ở cấp bực nào.
-
Tôi hỏi bác tài :
-
Bác dự tính chạy hết tốc lực thì tối nay nghỉ ở đâu?
-
Theo cái đà này thì chúng ta phải nghỉ đêm tại Sông Cầu.
-
Sông Cầu là chỗ nào?
-
Giữa Qui Nhơn và Nha Trang.
-
Chỗ đó có khách sạn không?
-
Không hi vọng có.
-
Tôi định hỏi thêm “Nếu không có khách sạn thì ngủ ở đâu và đậu
xe ở đâu” nhưng trí óc tôi lười biếng quá rồi, tôi không muốn
đặt câu hỏi nữa. Thà để trí óc trống rỗng, trắng bệch còn hơn là
bắt nó nghĩ suy lấy lệ.
-
Con đường chạy dài, xe vượt quá một cánh đồng thì bắt gặp một
xóm làng. Những ngôi nhà tranh đứng hiu quạnh bên cạnh những bụi
chuối bụi sả trông thật buồn. Tưởng chừng như những ngôi nhà bỏ
hoang nếu nhìn quanh quất đâu đấy không thấy một con chó đang
nằm khoanh nơi cháy bếp, một con gà giò ốm lỏng khỏng đi thơ
thẩn nơi vạt nước hay một bà lão gầy gò da mặt nhăn nheo đang
nhíu mắt nhìn ánh nắng rung rinh.
-
Chương sống cô đơn từ những ngày nhỏ. Gia đình anh là một thảm
kịch : Cha mẹ ly dị nhau, cha cưới vợ riêng và mẹ đi lấy chồng.
Anh trở thành đứa trẻ mồ côi bởi vì về ở với cha thì không chịu
được dì ghẻ, về ở với mẹ thì không chịu được dượng ghẻ. Cha và
mẹ anh khi cùng ở với nhau thì điều khiển một nhà xuất nhập cảng
lớn, khi ly dị nhau thì trở nên hai nhà xuất nhập cảng còn lớn
hơn xưa. Trong việc tái lập gia đình, hai người đều tỏ ra gặp
được hạnh phúc. Tóm lại chỉ có Chương mới là kẻ bất hạnh cho dù
cha và mẹ anh đều nài nỉ anh về ở với mình, và ở với người nào
thì anh cũng được chìu đãi sung sướng. Chương sống tự lập ngay
khi vào Đại học. Khi ra trường, anh xin đi dạy học ở một tỉnh
miền trung.
-
Gia đình tôi và gia đình Chương quen nhau từ nhiều năm vì Ba mẹ
tôi cũng mở hãng xuất nhập cảng. Cảm tình giữa chúng tôi biến
thành tình yêu và sóng gió trong gia đình Chương khiến tôi càng
yêu anh nhiều hơn. Tôi thấy tôi có bổn phận đối với Chương, giúp
đỡ và an ủi anh. Chương chỉ còn có tôi ở trên đời để yêu ngoài
cái đam mê suy tưởng Triết học. Yêu tôi, nhưng khi ba mẹ tôi đề
cập đến hôn lễ thì Chương tỏ vẻ ngại ngùng.
-
Hôn lễ, đó là nghi thức cần thiết – tôi nói.
-
Chương gật đầu :
-
Đúng vậy,
-
Nhưng sao anh...
-
Tại vì... Tại vì...
-
Tôi đoán biết tại vì sao rồi. Ba mẹ tôi giàu lớn còn anh thì
hiện thời đang đứng sắp hàng theo chỉ số. Phải đi nhích tới từng
bước. Nếu không muốn để cho đồng tiền cám dỗ thì mắt phải chăm
chăm nhìn lên những chữ Lễ nghĩa, Liêm sỉ, Đạo đức. Chương yêu
tôi mà không dám cưới tôi. Ngoài ra, những hình ảnh của cuộc hôn
lễ linh đình ngày cha anh đi cưới mẹ anh đã ám ảnh anh. Chính
tôi đã được nhiều lần ngồi nhìn say mê những bức hình chụp đám
cưới ấy. Cha anh mặc áo thụng gấm có thêu những cái hoa to bằng
cái bát úp. Má anh đội khăn màu vàng như một nàng công chúa.
Xung quanh hai người là cả một rừng áo gấm và một bầy công chúa
xinh đẹp như nhau. Bây giờ thì những chữ Song Hỉ bị bẻ ra làm
đôi, mỗi người cầm giữ một nửa. Chương không thuộc về một bên
nào. Anh lửng lơ ở nơi biên giới, ở nơi ranh giới, ở no men’land
, ở chỗ đáng lẽ không có người.
-
Tôi nói :
-
Nhưng em không thể đến sồng với anh mà không hôn lễ.
-
Anh biết.
-
Biết mà vẫn cứ để vậy?
-
Anh không có lối thoát.
-
Ba
mẹ em không thể đợi anh lâu.
-
Chắc là anh mất em.
-
Từ
ngày anh ra miền trung, tôi làm gan không biên thư cho cho anh
nữa. Tôi đợi sụ hồi tâm của anh. Thì đột nhiên có bức thư khẩn
cấp của Như.
-
Bác liệu có thể chạy xa hơn Sông Cầu không?
-
Thưa cô chắc không được. Giờ này mà mình còn leo đèo Cù mông thì
không hi vọng đi vượt quá Sông Cầu.
-
Cù
Mông là cái gì?
-
Cái đèo lớn nằm giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
-
Sao mà lắm đèo lắm ải vậy?
-
Miền Trung mà cô. Hết đèo đến ải.
-
Y
như cuộc đời của Chương. Y như mối tình của chúng tôi. Người
bình dân hát rằng : “Thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát
sông cũng lội cửu thập đèo cũng qua”. Đó là những sông những núi
những đèo của Thiên nhiên, dẫu cao dẫu sâu dẫu trắc trở mà với
quyết tâm người ta vẫn có thể vượt được. Chỉ cần thời gian. Với
núi đèo do con người tạo ra thì vượt qua không phải dễ. Và
Chương đang chọn một lối vượt qua của anh.
-
Tôi ngủ lại đêm ở Sông Cầu. Đêm thật đen và thật buồn. Thành phố
nằm bẹp dí xuống mặt đất, nhà thấp và mặt biển liếm sát bờ cát.
Không thấy một sự cố gắng vượt lên. Hạnh phúc xuề xòa. Hạnh phúc
cao một thước năm ngang vòng tay ôm. Hạnh phúc cao một thước sáu
ngang đôi môi hôn. Hạnh phúc trong giây phúc hiện tại, trong đêm
tối an nghỉ, giữa hai tràng đạn bắn vu vơ, giữa hai quả hỏa tiễn
câu vu vơ... Chương ơi anh coi thường thứ hạnh phúc trần gian
này, anh ngước nhìn lên cao hơn, anh rướn mình lên cao hơn.
-
Sau một đêm ngủ chập chờn, mới mờ sáng chiếc Falcon đã lại lướt
gió, nuốt vội đường trường. Những cánh đồng còn chìm trong một
biển sương trắng đục mênh mông. Những toán dân vệ đi thành hàng
lặng lẽ trên những bờ ruộng thấp, mũi súng chĩa xuống đất. Một
đêm tối bất trắc đã qua, mọi người đón nhận ánh sáng mặt trời,
vui mừng như giữa những thời xa xưa loài người còn cư ngụ trong
hang đá.
-
Xe
nhẫn nại bỏ lui lại những xóm làng. Xe hớn hở lượn theo vòng
đèo, xe mê mải bò lên những dốc cao. Ánh nắng đã lên, nhuộm hồng
những tàu lá cau, nhuộm vàng những ruộng lúa. Tôi không có cách
nào trì níu thời gian, chiếc kim đồng hồ cứ lặng lẽ quay vòng và
khi xe tôi ngút hơi đậu lại chân núi nơi địa điểm của giới đàn
thì mặt trời đã lên cao.
-
Trễ giờ rồi. Tôi không còn hi vọng nắm giữ lấy đôi tay Chương và
đổ ra những giọt nước mắt để bắt anh lưỡng lự, khí giới của tôi
chỉ có thế. Tôi hơ hãi leo lên triền núi, đặt chân bất kể lên
những viên đá gập ghềnh. Những bụi me đất, những đám lá dang lá
bìm bìm bò vô tư dưới chân những cây mít cao. Lối đi thoai thoải
rải rác lá vàng, lẩn quất dưới những tàn cây âm u.
-
Leo được nửa dốc, tôi mệt quá ngồi bệt xuống một tảng đá. Đằng
nào thì cũng đã trễ rồi. Bóng người lao xao ở đỉnh núi, di động
rộn ràng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, tiếng mõ gõ nhịp đều đều
được máy phóng thanh chuyền vang xuống núi. Tôi gượng đứng dậy
bước tiếp. Vài người lên xuống cùng chia với tôi lối đi hẹp. Tôi
bước lên những bực cấp xây bằng đá. Tôi vịn tay lên đường lan
can bằng xi măng. Tôi bước lên những bước cuối cùng.
-
Người đi dự lễ mặc áo dài nghiêm trang đứng nhấp nhô ỡ dãy nhà
trù, ở hiên nhà khách, ở sân chùa chen chúc bụi trúc khóm tùng.
Tôi len vào giữa những thân người, tôi luồn vào giữa những thân
cây. Tôi đi lần tới chánh điện. Uy nghi lặng lẽ, một tượng Phật
lớn thếp vàng ngồi tĩnh tọa trên đài cao. Phía dưới nhiều vị sư
đắp y vàng ngồi nghiêm trang sau những chiếc bàn thấp sắp dàn ra
hai bên. Nơi bàn giữa dưới chân tượng Phật, một vị Đại lão hòa
thượng đang chậm rãi cân nhắc từng tiếng giữa cái im lặng mênh
mông, cái im lặng mắc kẹt dưới những góc bàn chân ghế, cái im
lặng rung rinh trên đầu người :
-
Các giới tử ! Phật vì đại sự nhân duyên mà ra đời cho nên nói ra
không lường pháp môn, tám vạn bốn ngàn diệu nghĩa... (tôi đang
nhích tới để nhìn cho rõ mặt vị Đại lão hòa thượng)... tóm lại
không ngoài ba môn học là giới, định, huệ. Song huệ do định mà
phát, định nhờ giới mà sinh, công năng sinh ra giới... Các bậc
Thánh nhờ giữ giới mà chứng Bồ đề, chư Phật do nơi giới mà thành
Chánh giác.
-
Tôi đưa mắt nhìn sang đám đông gần ba trăm vị sư trẻ đang quì
trật tự trước lễ đài, cúi đầu lắng tai. Không cần hỏi ai tôi
cũng biết đó là những ông Sa di. Tôi vội vàng rời chỗ đứng đi
lần về phía giới trường đó.
-
Những ông Sa-di mặc áo tràng màu xám. Vì giới trường hẹp, họ sắp
thành mười mấy hàng, mỗi hàng gần hai mươi ông. Tô điểm mặt từng
người một để tìm khuôn mặt của Chương.
-
Hàng đầu : một, hai, ba, tư, năm... mười ba, mười bảy...Không
có.
-
Hàng nhì : một, hai, ba, tư... mười lăm, mười sáu.
Không có.
-
Hàng ba : một, hai... năm... bảy... mười hai...
-
Hàng tư : một, hai... tám... chín......
-
Tim tôi đập rộn ràng. Lạy Trời đừng có Chương. Sự thể sẽ không
quá chậm đâu miễn là không có Chương trong đó. Tôi sẽ chấp nhận
mọi điều kiện của Chương, tôi sẽ không cần đám cưới linh đình,
tôi sẽ ở cạnh Chương giúp anh vượt qua những khổ não chập chùng
đang bủa vây anh. Tôi sẽ quày xe lại đi ngay ra Trung tìm anh,
tôi sẽ tự lái xe lấy và lần này kim tốc độ sẽ chỉ tám mươi cây
số là cùng, bởi chưng tôi yêu đời, bởi chưng tôi quý trọng sự
sống.
-
Hàng chín : một, hai... tám... mười bảy... Không.
-
Hàng mười : một, hai... mười bốn, mười lăm... Không.
-
Hàng mười một : Một... Tim tôi nhói lên. Mắt tôi hoa đi. Tôi vội
bấu tay vào khung cửa. Chương đó. Rõ ràng là Chương đó. Tôi nhìn
anh trừng trừng. Anh cúi đầu lắng nghe pháp ngôn của Hòa Thượng.
-
Nay các vị nguyện bỏ thế tục theo phép xuất gia, vượt khỏi
thường tình là không lạy cha mẹ. Song các vị phải nhớ bốn ân đức
lớn trong giờ phút này phải chuyên tỉnh lễ tạ, về sau không còn
lạy nữa.
-
Có
tiếng phát ra từ loa phóng thanh :
-
Giới tử xoay về hướng Bắc lễ tạ bốn ơn.
-
Những tấm lưng cúi xuống, quì lạy, đứng lên, rồi lại nhịp nhàng
cúi xuống, cuồn cuộn như những lượn sóng nhấp nhô. Lạy Tạ cha
mẹ! Phải lắm, cha mẹ “sinh thành chi đức”, công lao như bể trời.
Tôi nghe người ta nói “cát ái từ thân”, nhưng cát ái từ thân đâu
phải chỉ có cắt đứt tình thương đối với cha mẹ. Nơi những quả
tim kia chỉ có tình thương cha mẹ thôi sao? Chương ơi, thế em
không có một chỗ đứng nào trong trái tim của anh sao? Sao anh
không lẩm nhẩm nói tiếp lời Hòa thượng rằng : “Còn riêng con,
con xin lạy thêm một lạy để tạ từ...” Không, không, anh tha lỗi
cho em, em không dám đòi hỏi một cái lạy của anh. Tình yêu không
có nghĩa gì hết. Đối với cha mẹ, từ giờ phút này anh đã xin cắt
đứt bổn phận rồi mà. Bốn cái lạy cuối cùng hướng về cha mẹ trả
nghĩa sinh thành. Từ nay dù cha mẹ anh có từ trần, anh cũng
không được quyền quì lạy trước bàn thờ nữa. Anh đã cắt đứt mọi
dây liên lạc tìm cảm, cắt đứt mọi bổn phận riêng tư, như cái cây
đã bứt lìa hết mọi lớp rễ chằng chịt bám vào lòng đất và thay
vào đó, cây sẽ nhú ra những lớp rễ mới, bám vào những sinh môi
mới. Em thuộc vào sinh môi cũ của anh. Đã cắt đứt lìa rồi. Hai
giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má tôi.
-
Cùng với các vị Sa-di, anh vừa tụng niệm bốn lời thệ nguyện vừa
quỳ lạy liên hồi:
-
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
-
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
-
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
-
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
-
Anh lạy vụng hơn mọi người, luôn luôn quỳ gối chậm hơn và đứng
dậy cũng chậm hơn. Có hồi vướng víu gấp gáp, anh lúng túng sắp
ngã. Nhưng anh đã gượng lại được. Nhìn anh quỳ lạy mà lòng em
xót xa. Quỳ lạy là cái hình thái khiêm tốn cùng cực, hạ mình
cùng cực, là xóa bỏ cái ngã mạn to lớn mà ngoài đời, trước kia
anh đã dựng lên với tất cả niềm kiêu hãnh. Bây giờ, ở giữa chốn
này, anh xếp lại đôi cánh đại bàng.
-
Giọng trầm trầm của Hòa thượng chủ lễ :
-
Các giới tử, cái y này tiếng Phạn gọi là ca sa. Mặc y này có thể
giải thoát tham, sân, si... Tôi nay trao y này cho các vị, các
vị phải gia pháp mà thọ trì.
-
Tiếng Hòa thượng vừa dứt, mỗi Sa-di lần mở chiếc y vàng mới
tinh còn nguyên lằn xếp choàng vào người, choàng ra ngoài chiếc
áo xám đang mặc. Gần ba trăm vị vươn tay duỗi vai, xốc cổ vuốt
lưng... đã tạo ra một sinh hoạt rộn ràng. Nhiều vị lúng túng
trong việc tháo cái dải áo và cột lại dải áo. Nhiều vị vội vàng,
xỏ tay lộn ngược. Chương là một trong những người lúng túng.
Ngoài đời anh vẫn vậy. Anh như con hải âu bay vượt trùng dương,
thách thức bão tố, nhưng để đứng trên boong tàu thì chỉ làm trò
cười cho lũ thủy thủ độc ác nhỏ nhen.
-
Một vị Tỳ kheo đứng cạnh đó đã tiến lại choàng chiếc y vàng lên
vai anh. Vị đó còn ân cần buộc dải áo giúp anh và vuốt thẳng bâu
áo. Xin cảm tạ vị Tỳ kheo rộng lòng lân mẫn. Chương hôm nay chỉ
còn quý vị để giúp đỡ, để an ủi. Ngày trước đôi mắt tôi chọn
ca-vát cho anh. Đôi tay tôi chọn bít-tất cho anh. Mũi tôi chọn
nước hoa cho anh. Hôm nay thì những món kể trên trở thành kỷ
niệm. Hòa thượng lúc nãy có trao giới tướng :
-
Các ông suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu
thơm vào người, không xem nghe ca múa hát xướng, không ngồi
giường cao, không tham chứa vàng bạc...
-
Mọi giới cấm đều không nặng đối với Chương. Khi ở ngoài đời anh
cũng chỉ bị nhuộm màu đời một cách lợt lạt. Luôn luôn anh là kẻ
phong phú trong suy tưởng mà bần cùng trong hưởng thụ.
-
Khi các vị Sa-da đã tề chỉnh y vàng đứng sát cạnh nhau thì cái
quang cảnh giới trương bỗng sáng rực hẳn lên. Màu vàng rực rỡ,
màu của tâm niệm giải thoát, màu của Đông Nam Á Châu tràn đầy
ánh nắng và tràn đầy khổ đau. Chương bây giờ đã hòa mình vào cái
khối màu vàng kia rồi. Anh lẫn lộn trong đó, anh biến mất trong
đó, không thể chỉ nhìn sau lưng mà biết được anh, không thể chỉ
nhìn dáng đi mà biết được anh. Mà bây giờ cho dù có nhìn rõ mặt,
thì anh cũng đã không còn là anh nữa rồi. Anh đã thay đổi khác
rồi.
-
Tiếng chuông trống đổ hồi chấm dứt buổi lễ. Các Sa-di sắp hàng
một đi vòng trước sân chùa, đi theo một hành lang dài để về các
liêu. Từ môt góc hoa viên, đoàn nhã nhạc bốn người mặc áo đen
dài luân phiên nhau thổi những điệu kèn thật buồn. Tôi rời chỗ
đứng, đi ra phía hành lang, ẩn mình dưới một gốc trắc bách diệp.
-
Đoàn Sa-di lần lượt đi qua, áo vàng rực rỡ, mắt nhìn xuống đất,
chân bước khoan thai. Tiếng kèn thánh thót, tiếng kèn nỉ non như
dẫn dụ gót chân, như nâng nhẹ gót chân, những gót chân trần chạm
nhẹ trên nền xi măng.
-
Một vị Sa-di đi qua, gương mặt nông dân nặng và chắc. Tiếp tới
một vị nét mặt ngây thơ, tuổi chưa đến 18. Một vị mày rậm và
dài, mắt xếch như môn sinh của một Thiếu lâm tự. Một vị gầy gò
mảnh khảnh tuổi có đến 30. Một vị đẫm thấp mập mạp dáng khoan
dung yêu đời. Một vị da mặt đen đúa lấm tấm nhiều mụn. Chương
lững thững đi tới kia. Luôn luôn nét mặt anh rạng rỡ và dáng dấp
uy nghi. Không một cử động dư. Anh đi ngang qua chỗ tôi đứng.
Ánh sáng nơi khuôn mặt bất động làm tôi bỗng nhiên bối rối kinh
sợ. Tự nhiên tôi quỳ xuống.
-
Hành động bất ngờ khiến có người lao xao di chuyển gần tôi. Họ
đoán một biến động, phòng ngừa một bạo động. Tôi phải giơ tay ra
hiệu cho họ yên tâm. Tôi không muốn xáo động những bước chân của
Chương. Lúc nãy tôi có ý định đợi khi anh đi qua tôi sẽ khẽ gọi
tên anh. Tiếng gọi sẽ khua động cả tâm thức anh, sẽ chấn động cả
tâm linh anh, sẽ phá đổ cả cái mặt biển bình lặng của tâm hồn
anh hiện tại. Tôi tự tin bởi tôi biết tôi ngự trị nơi cái vùng
trời Quá Khứ của anh. Nhưng khi nhìn ánh sáng nơi khuôn mặt bất
động của anh, tôi vụt thấy tôi là kẻ bại trận. Vô nghĩa, phù du
là tình yêu của một người đàn bà, là chính ngay người đàn bà.
Trời ơi! Một con phù du vừa có ảo vọng ngông cuồng là vỗ cánh
lên để làm giật mình một con sư tử.
-
Bóng của Chương đi khuất, nối tiếp theo là những bóng khác, cũng
chậm rãi đều đặn theo một nhịp điệu êm êm, mê hoặc của giọng kèn
nỉ non. Tôi vẫn cứ quỳ đó bất động, bất lực, cảm thấm thía lần
đầu tiên thân phận phù du của mình.
--o0o--
|
|