|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
HẠT GIỐNG NHƯ LAI
-
Diệu Trân
-
--o0o--
-
-
Tiếng gõ cửa dồn dập, khẩn cấp, nóng nảy, cuồng nộ... Tôi buông
cuốc, không kịp rửa tay, vừa chạy lên nhà trên, vừa chùi hai bàn
tay bết bùn vào quần jean.
-
Cửa mở. Bạn ào vào như cơn lốc, nước mắt tuôn như suối, nức nở
như sấm chớp mưa giông! Tôi dùng nguyên bàn tay lem luốc, ấn
mạnh bạn xuống ghế và ra lệnh:
-
-
Ngồi yên đó, ta rửa tay, pha trà xong rồi hãy khóc tiếp.
-
Không ngờ trong tình cảnh đó, bạn lập tức tuân hành mệnh lệnh,
nín bặt, không cả tiếng sụt sùi. Được đáp ứng bất ngờ, tôi lại
là người bối rối. Tôi cố tình đổ nước vào ấm thật đầy, để lâu
sôi, cố tình nhẩn nha rửa bình trà dù bình đã sạch lắm. Tôi câu
giờ chuyện pha trà vì chưa biết sẽ mở lời với bạn thế nào. Cùng
học đạo với nhau đã lâu, tôi chưa bao giờ thấy bạn tỏ lộ sự bi
thảm đến thế! Tôi phải làm gì để chia xẻ với bạn đây?
-
Đặt khay trà xuống bàn, chúng tôi nhìn nhau, im lặng. Chắc bạn
khóc đã nhiều trước khi đến đây, đôi mắt mới đỏ ngầu, sưng húp
thế kia. Hai bàn tay bạn run rẩy, xoắn vào nhau. Hình như bạn
đang cố dùng lực xiết mạnh vào hai tay để nén tiếng khóc. Tôi
buột miệng:
-
-
Khóc đi! Đừng giữ lại! nước mắt tuôn ra nhẹ ngàn lần hơn nước
mắt nuốt vào!
-
Như chỉ chờ có thế, con đê vỡ bung, sức nước hung hãn cuốn phăng
làng mạc, thôn xóm. Đột nhiên, không biết bắt nguồn từ dây mơ rễ
má nào, mấy câu thơ trong bài Tĩnh Thất của Thầy Tuệ Sỹ vụt
ngang như lằn chớp: “Nước lũ tràn. Em nhỏ chết đuối. Tôi ngồi
trên bờ. Vuốt ngọn cỏ mơ”. Đây là một bài thơ dài, từng đoạn
phác họa lên từng cảnh huống bi thương trên quê hương, vô tình
lại đang tả tình tả cảnh rất đúng với hai chúng tôi, một đứa
đang khóc như sông trôi mùa lũ, một đứa lại thản nhiên như kẻ
ngồi trên bờ, vuốt ngọn cỏ mơ. Cám ơn Thầy Tuệ Sỹ, chính hai câu
thơ xẹt ngang khung trời giông bão này đã giúp tôi cách chia xẻ
niềm đau khổ với bạn. Tôi cứ ngồi yên, nhìn bạn khóc, thỉnh
thoảng tiếp tế giấy lau. Không biết bao lâu, rồi mưa cũng phải
ngớt, gió cũng phải ngừng. Tôi rót trà vào tách, đưa cho bạn.
Bạn đỡ lấy, nhìn tôi, rồi lí nhí mở lời:
-
-
Đạo hữu biết không ....
-
Đã
có chủ định, tôi chặn ngay:
-
-
Không, tôi không biết, chuyện gì cũng sẽ kể sau. Ngày mai phải
trả bài cho Thầy rồi mà tôi còn nhiều điểm lúng túng quá, bạn
phải giúp tôi với. Tư tưởng Kinh Duy Ma cao siêu, nhiều ẩn dụ
quá, như khu rừng thiền mênh mông, không cẩn trọng là lạc ngay.
-
Quả nhiên, bạn bị tôi lái nhẹ sang hướng khác mà không hay. Bạn
vừa lau nước mắt, vừa hỏi:
-
-
Mình đang học Kinh Duy Ma Cật, phẩm thứ tám phải không?
-
-
Đúng, phẩm “Phật Đạo” đó. Khi ngài Duy Ma hỏi ngài Văn Thù Sư
Lợi “Những gì là hạt giống của Như Lai?” câu trả lời của ngài
Văn Thù khó hiểu quá! Bạn nhớ câu đó không?
-
Bạn quên khóc, đi ngay vào bài học:
-
-
Nhớ, Văn Thù Sư Lợi trả lời rằng “62 tà kiến và hết thảy phiền
não ở khắp cõi đều là hạt giống Như Lai cả”.
-
Tôi lại cố tình khơi sâu vào bài học, xòe mười ngón tay ra và
bắt đầu lẩm nhẩm tính:
-
-
Hữu thân là hạt giống, vô minh hữu ái là hạt giống, tham sân si,
tứ điên đảo, thập bất thiện là hạt giống .....
-
Bạn tiếp lời:
-
-
Thất thức xứ, bát tà pháp, cửu não xứ là hạt giống .....
-
Tôi ngắt lời:
-
-
Chúng ta sẽ phải học từng phần trong 62 tà kiến đó; nhưng riêng
phần phiền não, ta có thể ôn bài với nhau bây giờ vì đó là phần
tôi chưa thấu triệt khi ngài Duy Ma hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi:
“Sao lại thế? Sao tà kiến và phiền não lại là hạt giống Như
Lai?”.
-
Tới đây, không những bạn ngưng khóc mà còn mỉm cười:
-
-
Ừ, trong Kinh diễn tả là ngài Duy Ma hỏi ngài Văn Thù nhưng thật
ra ngài Duy Ma hỏi cho chúng ta đấy chứ! Các ngài đã khéo lồng
những tình tiết này khiến khi học Kinh chúng ta cảm thấy gần
gũi, thích thú. Ngài Văn Thù đã trả lời rằng; “ Đúng, tà kiến và
phiền não chính là hạt giống Như Lai vì đối với những người đã
thấy pháp vô vi rồi mà vào Niết Bàn thì không thể phát tâm cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa.
-
Tôi phải giả ngây thơ để bạn nói tiếp:
-
-
Sao thế? Người đã thấy vô vi thì dễ cầu pháp hơn chứ?
-
Bạn hăng say:
-
-
Ấy, tuần trước, khi học tới đây Thầy cũng nhắc phải cẩn thận.
Quả nhiên, khi giảng rộng ra thì nghe thế mà không phải thế!.
Người đã thấy vô vi, ví như đã ở trên gò cao; gò cao làm sao mọc
được hoa sen mà chỉ nơi bùn lầy nước đọng sen mới vươn lá, đơm
hoa; hoặc, cũng như khi gieo hột giống, có ai tung hột trên
không trung trăng thanh gió mát mà hột nẩy mầm được không? hay
phải gieo xuống đất bùn phân ẩm mới đâm chồi nẩy lộc?
-
Tôi bàn thêm:
-
-
Nói nôm na thì như người trí tự đặt dấu mốc cho mình, khi đạt
tới thì cho là đã đấy, đã đủ. Trái lại, người ngu biết mình ngu
nên miệt mài học, phát tâm cầu học đến vô cùng nên có thể đạt
tới quả vị tột đỉnh.
-
Bạn đồng ý ngay:
-
-
Trong Kinh Duy Ma có nhấn mạnh thêm về đoạn này với hình ảnh
liên đới rất hay, là người không lặn xuống biển sâu thì không
tìm được ngọc trai quý giá; không khác gì người không trầm luân
trong biển phiền não sẽ chẳng tìm được ngọc Nhất Thiết Trí vì từ
chông gai mới bừng lên hào khí, từ khổ đau mới phát sanh trí
huệ. Do đó mà ngài Văn Thù nói rằng, phiền não là hạt giống Như
Lai.
-
Tôi reo lên:
-
-
Đúng rồi, hạt giống đó chính từ mầm phiền não mà nở thành bông
sen.
-
Giọng bạn bỗng trở lại buồn bã:
-
-
Tri và hành là hai việc khác nhau. Biết thế mà làm được thế mới
khó.
-
Sợ
cơn giông bão lại kéo về, tôi vội vã trấn an:
-
-
Đường tu cũng như đường đời, chúng ta luôn phải đối đầu với
thuận và nghịch, có thế ta mới nhìn ra chân lý, nên đôi khi
chúng ta phải cám ơn nghịch cảnh vì không có nghịch cảnh ta
không có dịp biết mình tu chứng tới đâu. Chỉ khi chúng ta thoát
ra khỏi sự chi phối của ngoại cảnh ta mới vào được thế giới Diệu
Hỷ, đó là thế giới không bị sương gió trần ai xao động.
-
Bạn thuộc bài hơn tôi tưởng khi phát biểu:
-
-
Đã vào được thế giới Diệu Hỷ thì làm gì còn tu với chứng nữa.
Trong phẩm bẩy “Quán chúng sanh” chúng ta vừa học, tôi rất thích
đoạn Thiên nữ thị hiện rải hoa cúng dường và đàm luận cùng ngài
Xá Lợi Phất. Mỗi câu hỏi, câu đáp ở đoạn này là mỗi bài pháp trí
tuệ tuyệt vời.
-
-
Thí dụ.
-
-
Thí dụ ư, nhiều lắm, nói một đoạn thôi. Khi Xá Lợi Phất hỏi
Thiên nữ “Trong Tam-thừa Như Lai, cô tu ở thừa nào?” thì thiên
nữ trả lời “ Tôi không tu thừa nào cả!” Xá Lợi Phất lại hỏi gặng
“Không tu thừa nào thì cô có phải là đệ tử của Như Lai không?”
Tới đây Thiên nữ mới nói rõ: “Khi đi vào rừng cây chiên đàn, ta
sẽ chỉ ngửi thấy mùi hương chiên đàn mà thôi, không mùi nào khác
nữa”. Câu trả lời đầy trí tuệ này khai mở cho chúng ta suy nghĩ
rằng Thiên nữ đã lìa khỏi khái niệm tam thừa, chỉ còn thừa duy
nhất là nhất thừa mà thôi; và nhất thừa đó không tách rời tam
thừa, nhất thừa đó dung chứa tam thừa, có khác gì khi vào rừng
cây chiên đàn thì còn mùi hương nào khác ngoài hương chiên đàn
đâu!
-
Tôi hỏi vặn:
-
-
Ý bạn định nói Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa chỉ là phương
tiện dẫn đến Bồ-Tát-thừa, phải không?
-
Tưởng tôi phản đối, bạn ngạc nhiên, cao giọng:
-
-
Chứ không phải trong Phẩm Bẩy nói rõ vậy ư?
-
Tôi im lặng mỉm cười. Hình như bạn vừa nhận ra “âm mưu” của tôi,
là hóa giải phiền não của bạn bằng cách ôn bài học “phiền não là
hạt giống Như Lai”. Nhưng nhận ra điều đó có hại gì đâu khi nó
giúp bạn biết rằng mọi sự trên đời đều có hai mặt như chiếc mề
đay, và mặt trái mới là mặt quan trọng vì đó là mặt tàng ẩn
những gì ta phải chống trả, đối phó, hứng chịu và nếm mọi đắng
cay. Công lực ta có hay không là khi trực diện mặt trái đó.
-
Sau khi xả thiền, bạn chậm rãi đọc cho tôi nghe bài kệ của
Thiền-sư Vạn Hạnh, và đọc luôn cả bài dịch của Thích Mật Thể như
sau:
-
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
-
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
-
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
-
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
-
Thân như bóng chớp chiều tà
-
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
-
Sá chi suy thịnh cuộc đời
-
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
-
Trước
khi về bạn còn ra vườn hái mấy bông ngọc lan, loanh quanh ngắm
những cành bưởi trĩu trái mà tôi vẫn chưa phải nghe “chuyện gì
bi thảm đến nỗi khóc như mưa bão!!!”
-
Bạn đã thấu triệt bài học “Phiền não là hạt giống Như Lai” mà
bạn không hay.
-
(Trăng thu tháng tám 2005)
--o0o--
|
|