|
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
-
Công
Ðức
Đại Thừa
-
---o0o---
-
-
Công đức hay phước đức thật ra cũng chỉ là một ý nghĩa với nhau,
chẳng qua người đời thì hay dùng chữ phước đức, và trong Ðạo lại
hay dùng chữ công đức. Tuy nhiên theo thói thường sử dụng, thời
chữ phước đức thường được dùng để chỉ cho quả và công đức được
nói cho nhân. Như ta thấy một người giầu có sung sướng, ta bảo
là người đó có phước đức, và khi thấy một người đang bố thí, ta
nói người ấy đang làm công đức. Song ta vẫn có thể dùng cả hai
chữ thay cho nhau, và nói cho cả nhân lẫn quả gì cũng đều được.
Như trong kinh A Di Ðà khi các cảnh giới thù thắng của Cực Lạc
thế giới được nói lên, thời sau đó đức Phật đều kết luận rằng :"Cực
lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm", nghĩa
là "cõi nước Cực Lạc đã thành tựu được các công đức tuyệt đẹp
như vậy". Công đức ở đây là nói cho kết quả vậy.
-
Tuy nhiên trong Phật Pháp, công đức thường chỉ cho nhân, dĩ
nhiên là các nhân tốt và thiện, thông thường là hành động bố thí
cứu giúp người cô cùng nghèo khổ, và đặc biệt là bố thí cúng
dường cho Tam Bảo, nhất là cho chư tăng, các vị đệ tử Phật cần
có sự cúng thí như thế để mà hành Ðạo cho đúng Pháp. Vấn đề của
chúng ta là : cứu giúp người nghèo khổ tật bệnh là công đức đã
đành rồi, song tại sao bố thí hay cúng dường cho Tam Bảo mà cũng
là công đức ?
-
Ðể trả lời vấn đề này, chúng ta cần nhận xét đôi chút về ý nghĩa
tổng quát của công đức như sau : có tốn kém công sức của mình
hay phải thiệt thòi chịu hy sinh, thì mới được gọi là "công"
; và tốn kém thiệt thòi hy sinh như thế mà có mang lại được an
lạc cho người khác thì mới được gọi là "đức". Như nếu tôi
chịu vất vả cả đêm để đào tường khoét vách vào ăn trộm nhà người
ta, làm thiệt hại cho người ta, thì tôi có "công" thật
đấy, nhưng "đức" thì hoàn toàn không có. Còn nếu như tôi
chịu thiệt thòi đem tiền của của tôi hay công sức của tôi ra
giúp cho người thiếu thốn được đầy đủ, người bệnh hoạn được chăm
sóc, người đau buồn được an ủi v.v.., làm lợi lạc cho người ta
như thế, thì tôi vừa có "công" mà vừa có "đức"
nữa, nên được gọi là công đức.
-
Chưa hết, theo Phật Pháp, một việc làm có công đức chính yếu
không phải chỉ là ra công sức làm lợi cho người khác, mà là kết
quả do việc làm đó đem lại hoàn toàn hữu ích cho chính mình. Hữu
ích ở đây là mình được sung sướng và hạnh phúc. Thí dụ như tôi
ra công giết anh A để cho anh B được lợi lạc, vì A và B cạnh
tranh với nhau, thì dù là tôi có công và đem lại lợi ích cho B,
song kết quả thì tôi phải xuống địa ngục. Một hành động mà triêu
cảm quả báo xấu như thế không thể gọi là công đức được. Do đó
trong cuộc sống liên hệ đầy phức tạp này, chỉ có kết quả tối hậu
mới xác định được hành động mình làm là công đức hay không phải
công đức.
-
Mà kết quả ở đây không phải chỉ là kết quả nhất thời mà phải là
kết quả tối hậu, như tôi ra công ăn trộm xong, thì cảm thấy lợi
lạc sung sướng với của cải ăn trộm ấy, đó chỉ là một kết quả
nhất thời (nói theo chuyên môn thì đó chỉ là "sĩ dụng quả").
Nếu để "chơi chữ" một chút, ta có thể gọi đó là kết quả của "công",
chứ không phải kết quả của "đức", nghĩa là do tôi có công
ăn trộm nên tôi được kết quả ấy, song ăn trộm không phải là "đức"
mà là "thất đức", thế nên tôi sẽ không có được kết
quả sung sướng chân thật của "đức", mà trái lại cuối cùng
tôi sẽ phải chịu kết quả đắng cay của "thất đức",
như đọa địa ngục trong đời sau chẳng hạn. Kết quả đắng cay này
là kết quả tối hậu của hành động ăn trộm của tôi. Trong Phật
Pháp, kết quả tối hậu thường được gọi là "quả báo"
(gọi theo chuyên môn là "dị thục quả"), và chữ "báo
" ở đây là chỉ cho một thời điểm khác với thời điểm hiện tại
này, tức là chỉ cho một đời sống kiếp sau. Kết quả tối hậu như
thế là quả báo của đời sau vậy.
-
Phật Pháp như thế nhìn công đức như là một nhân tốt cho đời sau
được hưởng quả báo tốt. Và như thế Phật Pháp xác định ý nghĩa
chân chính của công đức không hề ra khỏi nguyên tắc "nhân quả".
Phật Pháp không nhìn theo quan điểm phải, đúng, của thế gian để
xác định ý nghĩa công đức, mà cũng không nhìn theo tình cảm "dịu
dàng" của thế gian hay các lý lẽ tốt thiện của thế gian, để xác
định ý nghĩa công đức, mà Phật Pháp chiếu theo nhân quả hai đời
mà lập thành ý nghĩa công đức vậy. Hễ đời này ra công sức làm
lợi lạc cho người mà đời sau được hưởng mọi điều tốt đẹp, thì
công sức ấy được gọi là công đức. Như đời này tôi bỏ công của ra
bố thí cho nhiều người được an lành, nên đời sau tôi sinh lên
làm vua cõi trời hưởng đủ mọi khoái lạc.
-
Do đó công đức có thể được định nghĩa chính xác hơn nữa là "làm
lợi cho người trong hiện tại và làm lợi cho chính mình trong đời
sau", thì đó là công đức. Chúng ta thấy rõ về nhân quả ở đây
: "làm lợi cho người" là nhân, "làm lợi cho mình"
là quả. Quả chỉ là một hoạt động thụ hưởng, song nhân là cả một
hành động phải ra sức và phải liên hệ với người khác rất phức
tạp. Nếu không có người nghèo khổ và nếu tôi không ra công bố
thí cho người ta, thì nhân sẽ không có, và nhân không có thì quả
sẽ không có theo. Do đó vấn đề nhân hay gieo nhân trở nên quan
trọng hàng đầu.
-
Rốt cuộc công đức dù khi làm thì là lợi cho người khác, song kết
quả tối hậu thì vẫn là làm lợi cho chính mình. Ðó là lý lẽ nhân
quả, một nguyên tắc tự nhiên như thế của tất cả các pháp, nên dù
tôi làm công đức mà không muốn hưởng quả gì hết cũng không được,
như đã vỗ mạnh hai tay vào với nhau mà không muốn phát ra tiếng
gì hết thì chắc chắn là không được. Theo nguyên tắc ấy, Phật
Pháp kêu gọi chúng ta làm công đức không phải theo lối đạo đức
thế gian "thí ân bất cầu báo", mà là làm công đức chính
là để "lợi mình và lợi người". Nói cách khác, người Phật
tử làm công đức là do vì biết đến nhân quả và do vì thâm tín
nhân quả, nên mới làm công đức, mục tiêu là để có được một quả
báo lợi lạc cho mọi người và lợi lạc tối hậu cho chính mình vậy.
Làm công đức mà không cầu hay không nhắm đến một quả báo tốt đẹp
nào hết, thì đó chỉ mà một việc làm tốt ngẫu hứng nhất thời,
hoàn toàn lệ thuộc theo tình cảm ; hay chỉ là làm theo bẩm tính
trời sinh, như một phản ứng bản năng ; hay chỉ là làm hùa theo
bằng một tâm trạng lơ đãng hời hợt ; hay chỉ để xây dựng tư cách
của bản ngã mình theo các tiêu chuẩn đạo đức công ước của thế
gian. Làm công đức theo các lối ấy chỉ chứng tỏ là có một sự
thiếu sót lớn : đó là không biết gì đến chân lý nhân quả phổ
biến khắp tất cả các pháp, tức là nhận định của chúng ta trong
khi làm công đức ấy hoàn toàn không tương ưng với chân lý, nghĩa
là công đức là một nguyên tắc chân lý nhân quả, mà trong khi
thực hiện nguyên tắc ấy, thì tâm thức chúng ta hoàn toàn không
biết đến chân lý ấy, hoàn toàn lạc lõng ở bên ngoài, hoàn toàn
chìm đắm trong cơn mơ của "tình thức", chúng ta được gọi
là làm công đức trong "vọng tưởng". Và do đó chúng ta nên
dành chữ công đức ấy cho các hành động tốt hay thiện
thuộc về Ðạo, và các hành động tốt hay thiện của thế gian thì sẽ
được gọi là thiện hay tốt mà thôi.
-
Theo đó vấn đề công đức trong Phật Pháp không giản dị như chúng
ta tưởng. Ðể sáng tỏ lên ý nghĩa công đức đối với Tam Bảo, chúng
ta cần phải phân tích phần nào về ý nghĩa của công đức theo Phật
Pháp xem ra sao : Phật Pháp khi nói về công đức, thường lấy bố
thí là hành động điển hình. Bố thí là một nhân công đức tiêu
biểu, thế nên chúng ta cũng sẽ dùng bố thí để phân tích về công
đức như sau : Phật Pháp phân công đức bố thí ra làm ba thành
phần căn bản chính yếu, đó là người thí, vật thí và người nhận
thí. Và do vì ba thành phần này rất là sai khác biến thiên và
phức tạp, thế nên công đức bố thí cũng vô vàn phức tạp theo.
Không phải cứ bố thí là đều bình đẳng một ý nghĩa, đều bình đẳng
một quả báo, mà bố thí sẽ tùy theo ba thành phần ấy mà thành vô
vàn công đức sai khác nhau. Câu Xá Luận phân tích ba thành phần
ấy như sau :
-
1. Về người thí hay gọi là "chủ" : Nếu người thí
coi mình như người ra ân và ở bên trên thi ân xuống cho người
nhận thí hay là người thọ ân, hay thí bằng tất cả các tâm trạng
thuộc "tình thức" như đã đề cập ở bên trên, thì
thí như thế chỉ là một hành động thiện của thế gian, chứ không
phải là một công đức thiện ở trong Ðạo. Phật Pháp đòi hỏi người
thí phải có một "tư cách" xứng đáng với công đức bố thí cao cả
này. Tư cách này gồm bẩy tính chất (gọi là "thất thánh
tài") như sau :
-
- thâm tín nhân quả ;
-
- trì giới thanh tịnh ;
-
- đa văn hiểu rộng về pháp ;
-
- trí huệ phân biệt chính xác ;
-
- xả thí không tiếc lẫn ;
-
- tàm là biết tôn trọng điều thiện và biết thẹn với lương
tâm ;
-
- quý là biết sợ quả báo xấu ác.
-
Nếu người thí có đủ bẩy tính chất ấy mà ra tay
thí thời công đức sẽ vô cùng to lớn, quả báo đạt được sẽ khó mà
so bì. Còn tùy theo nếu người thí không có đủ bẩy pháp ấy hoặc
có đủ mà phẩm tính không hoàn toàn, thời công đức và quả báo do
đó cũng trở nên kém hơn và sai khác với nhau. Còn thí mà người
thí thiếu hẳn bẩy pháp ấy thời chỉ là bố thí thiện của thế gian
mà thôi.
-
Ngoài ra muốn được quả báo mọi người tôn trọng mình, thì người
thí còn phải hành thí với tâm tôn trọng người nhận thí (gọi là "tôn
trọng thí") ; muốn được hưởng quả báo sung sướng giầu có
lớn, thì phải tự tay mình hành thí (gọi là "tự thủ thí")
; muốn được quả báo cần đến gì là tự nhiên sẽ có liền, thì phải
hành thí cho đúng thời đúng lúc (gọi là "ứng thời thí") ;
và muốn được quả báo có của cải không bao giờ bị đoạt mất, thời
khi thí đừng làm tổn hại cho người nhận thí và thí các tiền vật
hoàn hảo (gọi là "vô tổn thí").
-
2 - Kế đến là vật thí hay gọi là "tài". Cho dù
người thí có toàn hảo với "thất thánh tài" kể trên đi
nữa, song công đức hơn thua, nhiều ít khác nhau còn phải tùy
thuộc vào phẩm chất của vật thí nữa. Vật được thí ra được xét là
tốt đẹp hay không theo bốn phương diện là mầu sắc hình dáng,
mùi, vị và cảm xúc (tức chính là bốn trần "sắc, hương, vị,
xúc"). Nếu vật thí có hình dáng mầu sắc hoàn toàn đẹp đẽ thời
quả báo sẽ làm cho người thí có được sắc đẹp tuyệt vời ; nếu vật
thí có mùi thơm toàn hảo thời người thí sẽ được quả báo danh
tiếng lẫy lừng khắp mọi nơi ; nếu vật thí có vị ngon ngọt đậm
đà, thời người thí sẽ được quả báo mọi người đều hâm mộ ưa thích
; nếu vật thí đưa lại cảm xúc êm ái dễ chịu thì người thí sẽ
được quả báo thân thể mềm mại, hễ lạnh thì liền được ấm, vừa
nóng thì liền được mát v.v..
-
3 - Cuối cùng là người nhận thí được gọi là "điền".
Thông thường chúng ta ít để ý đến người nhận thí này, với quan
niệm của thế gian, chúng ta chỉ cho rằng người nhận thí là người
đáng tội nghiệp, người cần đến mình, người cầu xin mình, người
quỳ lụy mình, và do đó người ấy sẽ phải sợ mình, và mình sẽ có
uy lực đối với người ấy v.v.. Phật Pháp không nhìn giản dị như
vậy, và lấy thí dụ cho công đức bố thí ví như việc trồng trọt
của nhà nông : tâm tốt không tham và hành động xả của bố thí như
hành động gieo hạt, vật thí xả ra cho ví như hạt giống, và người
nhận thí ví như đất ruộng.
-
Dù chúng ta có tâm tốt đến đâu, và dù các vật chúng ta cho ra
rất là tốt đẹp quý giá vô cùng, song nếu không có người nhận
thí, thì chúng ta sẽ không sao thành tựu được công việc bố thí,
tức không sao có được công đức bố thí và quả báo bố thí. Người
đời không tin nhân quả, nên bao giờ cũng cảm thấy người thí là
người ra ân và phải chịu hy sinh thiệt thòi tài của, còn kẻ nhận
thí kia là người "vô dụng" đáng tội. Quả thật những người ăn xin
là những người vô dụng đáng tội, song khi một người biết thâm
tín nhân quả mà muốn có được một kết quả thật tốt đẹp cho mình
trong tương lai, người ấy biết là cần phải gieo nhân công đức bố
thí, mà muốn thực hành được công đức bố thí, thì không thể nào
thiếu người nhận thí được. Thế nên trong Phật Pháp, cho dù là
vua trên cõi trời, mà khi đã muốn làm công đức bố thí, thì cũng
phải hạ sinh xuống cõi nhân gian này, vì trên cõi trời không có
người ăn xin nào hết để mà thí. Ðã đành người ăn xin là hàng
thấp nhất trong xã hội, hàng mà mọi người khác đều dẫm lên ở bên
trên, song đó lại là nơi để gieo hạt giống công đức, cũng như
mặt đất là thấp nhất và bị mọi loài chà đạp bên trên, song đó là
nơi để chúng ta gieo giống trồng trọt mà thu gặt kết quả. Thế
nên trong Ðạo, người nhận thí được gọi là "điền", tức có
nghĩa là ruộng đất.
-
Lại nữa, "điền" không phải chỉ là những người nghèo khổ,
đói kém, thất học hay là những kẻ bạc phước, vô phước, mà ngay
trong "điền" này lại có đủ cả những người có ân với mình,
những người có công đức hơn hẳn mình, cho đến những người với
công đức vô lượng vô biên. Thế nên "điền" mới chia ra làm
bốn loại : các loài hữu tình (gọi là "thú điền"); các
người cô cùng nghèo khổ bệnh hoạn (gọi là "khổ điền"),
các bậc có ân với mình như cha mẹ, thầy dạy.. (gọi là "ân
điền"), và các bậc thánh (gọi là "đức điền"
hay "phúc điền").
-
Chẳng hạn như tôi bố thí với tâm rất hoàn hảo và với phẩm vật
rất tốt đẹp, song tùy theo là tôi bố thí cho loài người, loài
vật, hay loài trời (thường cho loài trời thì gọi là "cúng")
mà công đức thành sai khác nhau để đưa đến các quả báo cũng theo
đó mà thành sai khác. Lại trong một loài không thôi như loài
người chẳng hạn, cho dù cùng một tâm trạng cùng một phẩm vật mà
tôi bố thí hoặc cho kẻ nghèo khổ, hoặc cho cha mẹ sư trưởng,
hoặc cho chư thánh (thì gọi là "cúng dường"), thời
do các "điền" khác nhau như thế mà công đức và quả báo
cũng thành khác. Dĩ nhiên cũng như đất đai mầu mỡ thì cây quả
tốt tươi và to lớn, khi mà "điền" tốt tươi, tức người
nhận thí là các bậc ân nhân hay chư thánh đầy công đức của Ðạo,
thì công đức bố thí sẽ trở nên hoàn toàn to tát và viên mãn.
-
Do đó "điền" hay người nhận thí đặc biệt hết sức quan
trọng, nhất là trong Phật giáo Ðại thừa. Ðức Phật chọn cách sống
trong xã hội như thế nào ? Ngài chọn cách sống thấp nhất, tức ăn
xin hay gọi theo Ðạo là "khất thực" để mà sống, và
Phật Pháp cho đó là một cách sống chân chính (tức là "chính
mệnh") của một người hành Ðạo cũng như của một bậc thánh.
Bởi vì một người hành Ðạo không dính vào cuộc sống này bằng bất
cứ hình thức nghề nghiệp nào, người đó sinh sống bằng của thí,
và người đó phải trở thành một thứ "điền" cho thế gian.
Song khác với các người ăn xin khác, chỉ xin ăn để sống cho qua
ngày, chỉ để duy trì một cuộc sống khốn khổ thấp hèn không mục
tiêu, như một sự dư thừa vô dụng trong xã hội, do đó họ chỉ là "khổ
điền" của thế gian mà thôi ; trong khi các đệ tử đức Phật
xin ăn không phải để sống cho qua ngày, mà để dành trọn cuộc đời
theo đuổi chân lý và thực hành nếp sống Ðạo, với một lý tưởng
cao thượng là thanh tịnh tâm thức và giải thoát khỏi mọi chìm
đắm của luân hồi. Với một cách sống như vậy, người ấy vừa làm
lợi cho mọi người ở chỗ lấy chính đời sống mình ra để làm chỗ
cho mọi người tạo công đức bố thí, và đồng thời làm lợi cho
chính mình ở chỗ dùng đời sống khất thực ấy mà xả ly tất cả mọi
dính líu, để thích ứng cho con đường tiến tới giải thoát. Do đó
mà họ trở thành "phúc điền" của thế gian này vậy.
-
Ðức Phật như thế khi thành lập nên Tam Bảo, mục tiêu của Ngài là
tạo lập nên "phúc điền" cho thế gian này, tức Ngài đem
chính sự giác ngộ của Ngài ra lập thành Phật Bảo ; Ngài tuyên
thuyết lên con đường Ðạo đi đến giải thoát và con đường Ðạo đi
đến giác ngộ, lập thành Pháp Bảo ; và Ngài thâu nhận đệ tử và
hướng dẫn họ nhất trí đi theo hai con đường Ðạo kể trên, lập
thành Tăng Bảo. Ngài lại đem cả ba Bảo ấy đặt vào trong lòng thế
gian qua cách sống thấp nhất trong xã hội là khất thực, và bằng
cách ấy ngài giao sự tồn tại và bền lâu của Tam Bảo tùy thuộc
vào sự tùy hỉ bố thí cúng dường của mọi người, nhờ vậy mà Tam
Bảo trở thành phúc điền của thế gian.
-
Kể từ đó đức Phật, Pháp của Ngài, và chư Tăng đệ tử của Ngài,
tức Tam Bảo, được coi là phúc điền tối thượng của thế gian. Cũng
chính vì thế nên sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi của Ngài
và tháp thờ xá lợi ấy cũng như tháp thờ Pháp Bảo được thay thế
cho Ngài và cho Pháp Bảo trong vai trò làm phúc điền cho thế
gian. Rồi lại càng về sau này, các chốn già lam, chùa chiền,
tháp tự, là các nơi để thờ phụng Phật Bảo, để bảo trì Pháp Bảo,
và là nơi tập trung và trú ngụ của Tăng Bảo. Thế nên một ngôi
chùa, một tự viện, đã dần dà đủ yếu tố để trở thành những "trung
tâm" thờ phụng Tam Bảo, và trở thành "phúc điền" chính
yếu của thế gian.
-
Công đức bố thí, nói cách khác là công đức cúng dường, từ đó
được tập trung vào các ngôi chùa mà giờ được coi như chỗ của "ba
ngôi Tam Bảo". Người Phật tử tạo công đức không phải chỉ
bằng cách cúng dường ủng hộ, duy trì ngôi chùa mà thôi, mà chính
yếu còn là xây dựng và tạo lập các ngôi Tam Bảo ấy khắp mọi nơi
nữa. Vua chúa của bao đời đã thực hành các công đức ấy một cách
chân thành và thiết tha, song cho đến ngày nay lại có nhiều ngộ
nhận và "lẫn lộn" vế vấn đề công đức này, để rồi công đức bị coi
là "hữu lậu", bị lơ là và đôi khi đến mức độ như coi
thường, cho đó là tham lam và "không giải thoát"... Ðiều chính
yếu vẫn là do chúng ta không phân biệt được rõ ràng đâu là công
đức của Ðạo và đâu là công đức của thế gian, và gốc gác sâu xa
thì chính là ở chỗ chúng ta hoàn toàn mù mờ và không sao phân rõ
được thế nào là Ðại thừa, thế nào là Thanh Văn thừa và thế nào
là Nhân Thiên thừa !
-
Thanh Văn thừa không mấy nhấn mạnh về công đức, tại sao vậy ? Vì
Pháp này chỉ đặc biệt dành cho người xuất gia, mà là người xuất
gia theo hướng triệt để viễn ly khỏi thế gian với mục tiêu là
Niết Bàn giải thoát khỏi ba cõi luân hồi. Công đức vốn là nhân
để đưa đến một quả báo trong đời sau, nhân quả hai đời như thế
rõ ràng chỉ là luân hồi không hơn không kém, thế nên dù công đức
có tốt đẹp đến đâu đi nữa, thì cũng vẫn bị "kiêng kị" và không
được mấy "ưa" trong Pháp của Thanh Văn thừa. Một điểm nữa Pháp
của Thanh Văn nhấn mạnh vào sự thành tựu Ðạo cho riêng cá nhân,
và lấy sự thành tựu nơi cá nhân ấy là cứu cánh của Ðạo. Cá nhân
mà thành tựu thì chính là thành tựu nơi bản tâm của mình : như
thay vì kính trọng Phật, thì tôi hãy thành tựu sự giác ngộ ngay
nơi tâm tôi đi ; thay vì bố thí cho mọi người, thì tôi hãy thành
tựu sự xả bỏ tất cả ngay nơi tâm tôi đi ; thay vì ấn tống đọc
tụng kinh điển, thì tôi hãy mở ra "pháp nhãn" ngay nơi
tâm tôi đi ; thay vì xây dựng chùa chiền, thì tôi hãy thanh tịnh
tâm tôi thoát khỏi tham sân si đi ; thay vì đảnh lễ cúng dường,
thì tôi hãy hướng tâm về quán sát chân lý đi...
-
Với tinh thần thành tựu cho cá nhân như thế, Thanh Văn thừa
không muốn bàn nhiều gì đến mọi hoạt động liên hệ đến mọi người
xung quanh ngay trong lòng thế gian này, và có nói đến thì cũng
không bao giờ cho thấy các hoạt động ấy có gì khác hơn là phúc
đức hữu lậu của luân hồi. Ngoài ra vấn đề chùa chiền, tháp,
tượng..., các thứ vật chất vô tình làm biểu tượng cho Tam Bảo,
lại càng bị "coi chừng" hơn nữa : Thanh Văn thừa không thể chấp
nhận sự linh thiêng hay bất cứ năng lực vi diệu nào đó có nơi
các pháp ấy được, sự liên hệ của cá nhân với các chỗ cao cả ấy
qua các hành động chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường, hay ngay cả
xây dựng và duy trì tu bổ các nơi chốn ấy, thật sự làm phát sinh
ra các công đức, song họ cho đó là do từ tâm của cá nhân phát
sinh ra mà thôi, chứ không phải là từ các đối tượng linh thiêng
kia mà ra, bởi các thứ vật chất vô tình ấy như chùa chiền và
tháp tự chỉ là gạch đá, tượng Phật chỉ là đất gỗ v.v.. thì đâu
có biết gì, đâu có thọ hưởng gì các sự cung kính và cúng dường
của chúng ta, thì nói gì là ban cho chúng ta điều này hay điều
kia. Như Câu Xá Luận coi sự cúng dường cho chùa tháp là một loại
bố thí chỉ ích lợi cho chính mình chứ không ích gì cho đối tượng
được thí, và cúng dường chùa tháp mà có được phúc đức, thì đó là
do tâm xả đồ vật ra bố thí mà thành có phúc, chứ không phải do
chùa tháp thọ hưởng gì các vật thí ấy mà thành có phúc.
-
Ngoài ra Câu Xá còn xác định dứt khoát tâm của cá nhân làm công
đức mới chính là nhân chủng và chính nhân ấy quyết định quả báo,
chứ không phải do nơi "điền", ví như hạt giống ngọt nên
sinh quả ngọt, cho dù gặp phải đất xấu đi nữa thì quả sinh ra
vẫn ngọt. Thế nên với Thanh Văn thừa, chúng ta phải coi chừng
không nên biến các hành động lễ lậy cúng dường ấy trở thành tôn
thờ thần tượng một cách "mê tín", mà chỉ coi đó như một
sự tưởng niệm tôn kính và tri ân Tam Bảo mà thôi...
-
Hơn nữa cho dù các sự lễ bái, cúng dường, xây dựng chùa tháp,
chuông tượng v.v... có mang lại công đức vô lượng đi chăng nữa,
thì đó cũng chỉ thuộc về "nhân thiên thừa", tức là con
đường gieo nhân tốt để sinh lên cõi trời hay vào chốn quyền quý
giầu có của thế gian luân hồi này mà thôi.
-
Ðó là quan điểm của Thanh Văn thừa. Song với Ðại thừa công đức
rất quan trọng, mục tiêu của Ðại thừa là thành Phật và độ sinh,
mà nếu thiếu công đức thì không thể thành Phật được, dù vẫn có
thể chứng Thanh Văn hay Duyên Giác quả được, và không thể cứu độ
chúng sinh với vô vàn căn tính và khuynh hướng sai khác được.
Thế nên, khác hẳn với Thanh Văn thừa, trong phạm vi công đức, "điền"
là yếu tố quan trọng hơn hết, và là yếu tố tối quan trọng đối
với con đường Ðạo của Ðại thừa :
-
Theo Thanh Văn thời Ðạo là một nỗ lực của tâm cá nhân và Ðạo
thành tựu là thành tựu ngay nơi tâm cá nhân. Với Ðại thừa, tâm
cá nhân và nỗ lực của cá nhân vốn dĩ đã là một sai lầm nền tảng,
tức vô minh chấp ngã là căn bản của tâm cá nhân và tham ái là
động cơ gốc của mọi nỗ lực của tâm cá nhân, do đó sở dĩ mà cá
nhân vào Ðạo được là do "đức điền" hay "phúc
điền", tức Tam Bảo, chứ không phải do tự lực của tâm cá
nhân vô minh nọ. Nếu chúng ta làm công đức dựa trên các "khổ
điền" hay "ân điền" thời quả báo của chúng
ta chính là con đường trời người phú quý vinh hoa, và không mong
gì có Ðạo trong các thứ điền ấy. Nhưng nếu chúng ta làm công đức
dựa trên "đức điền", như cúng dường, đảnh lễ, xây
chùa thờ phụng Tam Bảo, thời tâm làm công đức đó của chúng ta sẽ
chuyển thành tâm Ðạo.
-
Bởi Ðại thừa không thấy Ðạo chỉ là một thành tựu siêu thoát
trong tâm của một cá nhân, mà Ðạo chính là cái chân lý bất biến
phổ biến khắp tất cả các pháp, nhờ có chân lý này mà cá nhân mới
thành tựu được sự siêu thoát trong tâm mình. Song cho dù cá nhân
tâm tôi có thành Ðạo hay không thành Ðạo, thì Ðạo luôn luôn vẫn
có đó không tăng không giảm. Ðể làm thể hiện ra cái Ðạo mà là
chân lý bản thể của tất cả các pháp này, chứ không phải chỉ là
sự thành tựu nơi tâm một cá nhân, tôi phải có một hoạt động
trong "liên hệ", như bố thí vật này vật nọ cho người này
người kia, chứ không thể chỉ bằng một hành động tách lìa tất cả
như ngồi thiền trong rừng vắng. Và hoạt động liên hệ ấy phải
tương ưng với chân lý bản thể này, như thí theo lý "tam luân
không tịch", tức cả chủ, tài và điền đều là KHÔNG. Có vậy
thì hoạt động bố thí của tôi mới làm hiển lộ ra chân lý bản thể
phổ biến khắp tất cả các pháp : từ tôi đến vật thí và đến người
nhận thí, mọi liên hệ mọi khía cạnh sống của xã hội của thế
gian, sẽ theo đó mà bộc lộ ra toàn thân chân thật của chúng,
sáng ngời và giải thoát. Tâm giác ngộ của Ðại thừa như thế là
một "Tâm" chân thật, vốn là chân lý sẵn có biến mãn khắp
tất cả các pháp bao la vô biên vô cùng tận, chứ không phải chỉ
là tâm thanh tịnh của cá nhân. Thế nên để thực hành Ðạo Ðại thừa
này, chúng ta cần phải thực hành các pháp môn "trong
liên hệ" với tất cả mọi người và tất cả các pháp. Sự
thành tựu Ðạo nơi cá nhân, với Ðại thừa, cũng chỉ là một phương
tiện để giúp cho Ðạo "liên hệ" thêm đắc lực, thí dụ như
tôi ái ngữ để kéo người ta theo Ðạo, và nếu tâm cá nhân tôi
thanh tịnh và giải thoát thì cũng chỉ là để thêm năng lực cho ái
ngữ và tăng thêm tin tưởng cho người nghe, chứ không phải để
lánh riêng ra mà hưởng riêng sự thanh tịnh và giải thoát nọ. Nói
tóm lại, Bồ Tát thành Ðạo cho cá nhân mình là để dành hết vào sự
nỗ lực cứu độ vô tận chúng sinh, do đó hoạt động thành Ðạo "cá
nhân" không phải là mục tiêu chính, mà hoạt động "liên
hệ" cứu độ vô tận chúng sinh mới là mục tiêu chính của Bồ
Tát Ðạo, bởi vì chân lý không bao giờ lại chỉ hạn cuộc nơi cá
nhân, mà chân lý đích thực nằm ở chỗ "liên hệ" tất
cả các pháp vào với nhau, mà Ðại thừa Trung Hoa thường gọi là "viên
dung vô ngại" hay "pháp thân biến mãn, biến chiếu"
v.v...
-
Hoạt động liên hệ của Ðạo này được gọi là Công Ðức trong Ðại
thừa. Thanh văn thừa mà nói đến hành Ðạo là phải yên tĩnh một
mình thanh vắng v.v.. trong khi Bồ Tát thừa nói đến hành Ðạo là
phải có toàn thể vô tận chúng sinh, vô tận cảnh giới, vô tận
pháp môn phải học, vô tận thiện tri thức để phụng sự cúng dường
học hỏi, vô lượng thế giới đồng hiện khởi lên và náo nhiệt hoạt
động bộc lộ toàn thể bản chất của mình ra, từ vô lượng quốc độ
chư Phật cho đến bất tận muôn vẻ cảnh giới đau khổ của Ðịa
ngục...
-
Một con đường Ðạo bất khả tư nghì như thế, tâm cá nhân vô minh
chấp ngã và tham ái của chúng ta làm sao thâm nhập vào nổi đây ?
Ðại thừa dạy cho chúng ta thực hành Công Ðức, tức thực hành Ðạo
trong liên hệ. Nhờ có liên hệ mà chúng ta có thể được chuyển
biến. Như một đứa bé nghèo cùng khốn khổ, nhờ ông vua nhận làm
con nuôi nên trở thành một hoàng tử. Ðứa bé nghèo kia làm sao
trở thành hoàng tử được, song chỉ vì nhờ có "liên hệ" làm
con nuôi với ông vua mà trở thành hoàng tử. Cũng thế nhờ có liên
hệ của Công Ðức mà tâm vô minh tham ái của chúng ta trở thành
tâm Ðạo : tức nhờ có Công Ðức quy y "liên hệ" với Tam Bảo
mà chúng ta trở thành "con" của Phật, rồi nhờ có Công Ðức cúng
dường ủng hộ "liên hệ" với Tam Bảo mà chúng ta
được thừa hưởng phúc đức Ðạo Pháp của chư Phật để lại cho chúng
ta...
-
Trong một Công Ðức của Ðạo như thế, "điền", tức Tam Bảo,
luôn luôn là quan trọng bậc nhất, bởi nhờ Tam Bảo điền mà tâm
chúng ta chuyển thành Ðạo vậy. Do đó tạo lập chùa chiền để duy
trì và củng cố ngôi Tam Bảo là một Công Ðức siêu việt thù thắng
của Ðạo cho mọi người, chứ không phải chỉ là chuyện tốt của thế
gian hay chuyện riêng tư của bất cứ ai. Vì vậy các quan điểm về
công đức như là pháp hữu lậu, như pháp thế gian, còn tham đắm
chưa giải thoát v.v.. với Ðại thừa, chỉ là các ngộ nhận đầy tai
hại mà thôi. Thế nên chúng ta không khỏi cũng cần phải lưu ý đến
câu chuyện mà chúng ta không mấy ai không biết về Công Ðức xây
chùa của vua Lương Vũ Ðế,
vẫn bị bác bỏ và coi thường trong truyền thống của Thiền tông
như sau :
-
Theo truyền thuyết của Thiền tông thì lần đầu vua Lương Vũ Ðế
tiếp kiến Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, nhà vua hỏi về công đức xây chùa tạo
tượng, cúng dường độ tăng, mà nhà vua thường làm. Tổ trả lời là
không có công đức gì hết. Tại sao ? Vì đó chỉ là các công đức "hữu
lậu" triêu cảm các quả báo nhân thiên trong luân hồi mà
thôi. Ðến khi vua quay sang hỏi về chân lý cứu cánh gọi là "thánh
đế đệ nhất nghĩa", thời Tổ cũng trả lời là "trống rỗng
chẳng có thánh gì hết". Tại sao vậy ? Vua muốn biết nên hỏi
"vậy thì đứng trước trẫm là ai vậy ?". Ý vua hỏi nếu
không có thánh gì hết thì ngài là gì vậy ? Không phải ngài là
bậc thánh đó hay sao ? Vậy tại sao lại nói là không có thánh ?
Tổ trả lời là "không biết !". Thiền tông cho rằng đến đó,
thời vua Lương Vũ Ðế không còn biết vin vào đâu để mà lãnh hội
được ý chỉ của Tổ nữa. Thế nên Tổ bỏ đi, vượt sông sang Thiếu
Thất ngồi nhập định liền chín năm...
-
Câu chuyện thiền đưa lại cho chúng ta một cảm tưởng là vua Lương
Vũ Ðế tuy là một vị vua rất thuần thành, tạo rất nhiều công đức
đối với Tam Bảo và am hiểu rất sâu xa về Phật Pháp, song chỉ là
thế gian đạo mà thôi, và tất cả mọi hoạt động "Ðạo" hay
mọi Công Ðức ấy của vua đều không đưa đến giác ngộ, đều không
làm cho vua nhập Ðạo chân chính được.
-
Song với quan điểm của Ðại thừa về Công Ðức "liên hệ" mà
chúng ta đã bàn ở trên, thì cho dù câu chuyện ấy là có thật đi
nữa, thì chưa chắc là vua Lương Vũ Ðế không hiểu gì về lập
trường của Tổ Ðạt Ma, mà chỉ vì là hai chí hướng khác nhau mà
thôi. Cả hai đều là hai đại Bồ Tát, song Tổ Bồ Ðề thì muốn
truyền đạt tâm Ðạo một cách trực tiếp và muốn cho mọi người trực
nhận ra được Ðạo ngay nơi bản tâm vô minh và phiền não của cá
nhân mình ; trong khi vua Lương Vũ Ðế thì thấy Ðạo nằm ngay
trong cuộc sống này qua các công đức xây dựng chùa chiền và ủng
hộ Tam Bảo vững chắc ở giữa thế gian tối mù và đầy nguy hiểm
này. Từ bi của Tổ Bồ Ðề là ở chỗ nhẫn nại chín năm ròng chỉ để
truyền lại cho một người pháp môn đốn ngộ mà lợi ích chúng sinh
; trong khi từ bi của vua Lương Vũ Ðế là ra công xây dựng ngôi
Tam Bảo, ấn hành kinh điển, để cho chúng sinh có nơi nương tựa
và được cứu độ theo đúng trình độ căn tính của mình. Tổ Bồ Ðề
Ðạt Ma muốn ích lợi cho một số người có căn tính đặc biệt ngoại
lệ, trong khi vua Lương Vũ Ðế là làm lợi ích cho đại đa số quần
chúng. Tổ Bồ Ðề truyền đạo qua tâm và qua cá nhân, vua Lương Vũ
Ðế truyền đạo không phải chỉ qua tâm mà còn qua tất cả các vật
vô tình như gạch ngói gỗ đá được biến thành chùa chiền thờ
phượng ngôi Tam Bảo và đồng đất được biến thành tượng Phật cho
mọi người có nơi nương tựa và có phúc điền để mà đảnh lễ cúng
dường tạo công đức. Tổ Bồ Ðề lọc lựa căn cơ đặc biệt mà truyền
Ðạo, vua Lương Vũ Ðế phổ tế mọi căn cơ. Nói về sự bí ẩn khó mà
hiểu thấu nổi của Ðạo, thì tổ Bồ Ðề nổi bật hơn hẳn, song nói về
công đức và phương tiện đại bi vì tất cả mọi chúng sinh của Ðạo,
thì vua Lương Vũ Ðế rõ rệt hơn hết.
-
Do đó, có thể là vua Lương Vũ Ðế đã hiểu rõ được ý chỉ của Tổ,
song hành nguyện của vua không đi theo hướng đó và nhà vua không
giản dị cho các Công Ðức đó là hữu lậu theo con mắt của Thanh
Văn. Như Bồ Tát không đi thẳng vào Niết Bàn ngay mà phải trải
qua ba vô số kiếp ích lợi cho biết bao chúng sinh, cho chính
chúng ta, được vẹn toàn, rồi mới tính chuyện vào Niết Bàn. Nếu
chúng ta không chê Bồ Tát là đã không vào Ðạo ngay mà cứ vì
chúng ta mà nấn ná mãi trong cõi "hữu lậu" này, trái lại
chính vì thế mà chúng ta mới thấy vô vàn tri ân và hết lòng cảm
phục công đức và dũng lực phi phàm ấy, thì chúng ta cũng khoan
vội coi "nhẹ" vua Lương Vũ Ðế. Nếu Tam Bảo còn đến ngày nay giữa
lòng thế gian với bao nhiêu thế lực của bất tín, của ngoại đạo,
của Ma vương và bao trùm hơn hết là của vô minh, để cho chúng ta
biết đến đạo Phật mà được hưởng ân huệ của Tam Bảo, ấy là do
Công Ðức của biết bao vị Bồ Tát ra công ra sức hộ pháp qua các
công việc Phật sự như in kinh, tạo tượng, đúc chuông, xây chùa,
lập tháp. Ngồi một mình trong rừng núi chưa chắc đã khó hơn là
lao mình vào trong chốn trược ác của chúng sinh mà vì họ thiết
lập ngôi Tam Bảo. Thành Ðạo một mình trong rừng sâu núi thẳm
ngay trong hiện đời này làm sao khó cho bằng trải qua vô biên
kiếp giúp cho mọi người có được một nhân duyên Ðạo ngay giữa
cuộc sống náo ồn đầy phiền não ràng buộc của chính họ...
-
Với cái nhìn của Ðại thừa, Bồ Tát đã làm cho sự sống của thế
gian này trở thành cao cả và linh thiêng. Bồ Tát đã biến cái thế
gian mà các nhà Thanh Văn luôn chê bai là ô nhiễm, lao tù, xiềng
xích, đọa đày, đau khổ, như mụn nhọt như mũi tên... và tìm cách
xa lánh này, trở thành con đường Ðạo viên mãn và tối thượng
nhất. Tóm lại Bồ Tát với chân lý và hành nguyện của Ðại thừa đã
biến toàn thể cuộc sống của luân hồi trở thành một Công Ðức chân
thật bất khả tư nghì tràn đầy Từ Bi và Trí Huệ. Và Ðại thừa
không bao giờ còn thấy các Công Ðức ấy là "hữu lậu",
là "tham đắm" thế gian như một số người vẫn tự hào
là mình theo đúng Ðạo lầm tưởng nữa.
--o0o--
|
|