|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Về
Mấy Bài Đường Thi
liên quan đến
Phật Giáo Việt Nam
-
Lê Mạnh Thát
-
--o0o--
-
-
Giữa
thế kỷ thứ VII và thứ X Phật giáo Việt nam đã là chủ đề thi vịnh
cho một số nhà thơ Trung Quốc, như đã cảm nhận và vang dội trong
tâm hồn họ. Thế mà những bài thơ đó đã không bao giờ được những
cuốn sử nước ta – Phật giáo hay không Phật giáo – kể tới, cho
tới lúc Lê Quý Đôn tìm thấy và ghi lại trong Kiến Văn Tiếu Lục ,
quyển 9 tờ 13a4-b9. Cho đến nay, chỉ có bốn bài thơ xướng họa do
Lê Quý Đôn và những người sau như Thích Mật Thể trích dẫn trong
Việt nam Phật giáo Sử lược, nhưng không những các tác giả này đã
không ghi nhận đầy đủ vì còn có thêm tối thiểu là ba bài nữa, mà
còn chứa đựng nhiều sai lầm và thất lạc đáng tiếc.
-
Chẳng hạn, bài thơ do
Thẩm Thuyên Kỳ viết về thượng nhân Vô Ngại. Theo bản chép của Lê
Quý Đôn, thì đầu đề của bài thơ này là "Cửu Chân Sơn tĩnh tự yết
Vô Ngại Thượng Nhân". Trong khi đó, theo bản in của Toàn Đường
Thi, tập 2, quyển 97 tờ 1047, do Vương Toàn hiệu điểm và Trung
Hoa Thư cục xuất bản năm 1960 ở Bắc Kinh, thì đầu đề là "Cửu
Chân sơn Tịnh Cư tự yết Vô Ngại Thượng nhân". Như thế thì ngôi
chùa ở đây không phải là "chùa Sơn Tĩnh hạt Cửu Chân", mà Thích
Mật Thể đã giải thích, ngược lại là "chùa Tịnh Cư núi Cửu Chân".
Sự sai khác này sẽ cho chúng ta nhiều chi tiết lôi cuốn. Thí dụ,
nó cho ta biết là tại núi Cửu Chân vào cuối thế kỷ VII có một
ngôi chùa tên Tịnh Cư với nhà sư Vô Ngại nổi tiếng. Không những
đầu đề có sai lầ୬
mà ngay cả văn cứu của bài thơ cũng bị thất lạc. Nếu theo bản
chép của Toàn Đường thi, thì bản chép của Lê Quý Đôn thiếu mất
bốn câu giữa hai câu "Y vương tích vi đàm và "Siêu nhiên Hỗ khê
tịch" mà chúng tôi sẽ bổ túc sau. Cùng một cách, đầu đề của bài
thơ do Dương Cự Nguyên viết, theo Toàn Đường thi, là "Cung phụng
Định Pháp sư qui An Nam", trong khi đó thì Lê Quý Đôn lại chép
thành "Tống phụng Định Pháp sư qui An Nam", rồi từ thời Phạm
Quỳnh trở đi cho đến ngày nay đặt ra một người mang tên là Phụng
Đình hay Phụng Định. Đây là một sự hiểu sai chữ "phụng" của cái
đầu đề. Thực tế là chúng ta không có người nào mang tên Phụng
Đình hay Phụng Định gì cả, chúng ta chỉ có Định Pháp sư và Pháp
sư này giữ chức Cung phụng tại Kinh đô Trường An.
-
Nêu ra những sai lầm
và thất lạc của bản chép Lê Quý Đôn, chúng tôi không chỉ nhắm
đến sự chính xác văn hiến và lịch sử, mặc dù một số chính xác
như thế rất đáng cần và rất đáng thực hiện. Mà là để sửa sai
những lầm lạc và khuyết thất dai dẳng do sự sai lầm và thất lạc
của bản chép Lê Quý Đôn. Kể từ ngày bản chép của Lê Quý Đôn ra
đời, những người nghiên cứu nước ta đã tiếp tục sao chép lại
chúng với tất cả những sai lầm và thất lạc đó một cách thản
nhiên, ngay cả khi họ có cơ hội nhận ra chúng. Chẳng hạn, Thích
Thể Mật trong Việt Nam Phật giáo sử lược đã sao chép y nguyên từ
bản của Lê Quý Đôn rồi giải nghĩa sai những đầu đề của các bài
thơ ấy. Lê Thành Khôi, tuy chắc có thể có trong tay văn bản Toàn
Đường thi, mà vẫn viết:
-
"Chen Ts’iuan K’I
rendit visite au Supérieur Vô Ngại dans sa pagode de Son Tinh au
Cửu Chân. Deux moines: Duy Giám et Phung Đinh allèrent prêcher à
la cour de Ch’ang an". (Trầm Thuyên Kỳ đến thăm Thượng sư Vô
Ngại nơi chùa của ngài là Sơn Tịnh ở Cửu Chân. Hai nhà sư: Duy
Giám và Phụng Đinh đi hoằng pháp tại triều đình Trường An).
-
Những cái tên sai lầm
về Sơn Tĩnh và Phụng Định của Lê Quý Đôn đều được những người đi
sau v.v… lập lại một cách cung kính. Điều đáng ngạc nhiên hơn
nữa là, cả Nguyễn Đăng Thục lẫn Lê Văn Siêu đều có dịp nói đến
cuốn sách Bắc thuộc thời đại đích Việt Nam của Lữ Sỹ Bằng, thì
ít nhất họ cũng phải đọc được cái đầu đề bài thơ của Dương Cự
Nguyên, mà Lữ Sỹ Bằng đã dẫn một cách đúng đắn là "Cung phụng
Định Pháp sư qui An Nam", chứ không phải "Dương Cự Nguyên tặng
Phụng Định Pháp sư qui An Nam", như Nguyễn Đăng Thục ghi.
-
Chính vì cái tình
trạng sai lầm thất lạc này, chúng tôi cho viết những dòng sau,
hy vọng cái tình trạng đáng phàn nàn kia được chấm dứt và gợi ý
cho một vài trí tò mò lẫn phê bình từ những mới bắt đầu nghiên
cứu. Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn sau khi sửa sai và bổ túc,
đặt những bài thơ này vào khung cảnh lịch sử, từ đấy giúp xác
định một phần nào niên đại những nhân vật và sự tình Phật giáo
Việt Nam do chúng nói đến, mà cho đến nay chưa bao giờ được thực
hiện, tạo nên không ít những xếp đặt lộn xộn về thứ tự thời gian
ra đời của chúng. Như việc bài thơ của Trương Tịch bị đặt trước
Trầm Thuyên Kỳ là một ví dụ. Cuối cùng, chúng tôi nhằm cung hiến
một phần nào tư liệu cùng gợi ý cho việc nghiên cứu lịch sử Phật
giáo nước ta những thế kỷ VII cho tới thế kỷ X, đặc biệt là liên
quan tới những địa điểm điều tra khảo cổ học Phật giáo, có thể
tại miền Bắc Trung bộ. Những bàn luận dưới sẽ hoàn toàn giới hạn
vào việc đạt đến ba mục đích vừa nêu, do thế sẽ không đề cập đến
những chi tiết không liên quan đến chúng, mặc dù quan trọng đối
với nhà thơ hay bài thơ liên hệ.
-
Cứ Cựu Đường thư
quyển 190 trung, tờ 5b5-9, thì Thẩm Thuyên Kỳ là "người Nội
hoàng Tượng châu, đỗ Tiến sĩ, làm thông sự xá nhân, giỏi văn
chương, sở trường về thơ thất ngôn, nổi tiếng ngang với Tống Chi
Vấn, nên người đương thời gọi là thể Thẩm Tống. Sau Kỳ đổi làm
khảo công lang viên ngoại, mắc tội giao thiệp với giặc, bị đày
ra ngoài Ngũ Lĩnh. Trong khoảng niên đại Thần Long, ông được gọi
về giữ chức Khởi cư lang, rồi lên Tụ văn quán trực học sĩ, sau
lại làm Trung thư xá nhân kiêm thái tử chiêm sự. Năm đầu Khai
Nguyên, ông mất, văn tập gồm 7 quyển".
-
Cuộc đời của Thẩm
Thuyên Kỳ như vậy sống khoảng giữa những năm 655-713, vào khoảng
niên hiệu Trường An bị đày ra Ngũ Lĩnh, mà văn thư của ông xác
định một cách rõ ràng là Hoan Châu. Niên hiệu Trường An bắt đầu
năm 701 và chấm dứt giữa năm 705, tức 4 năm. Có nghĩa là Kỳ bị
đày ra Hoan Châu khoảng những năm 701 – 704, vì đầu niên hiệu
Thần Long, tức năm 705, ông được gọi về và trao chức Khởi cư
lang. Trong thời gian trên dưới ba bốn năm bị đày này tại Hoan
Châu, Kỳ đã làm một số bài thơ, trong đó có hai bài liên quan
trực tiếp đến Phật giáo Việt Nam. Bài thứ nhất mô tả một ngôi
chùa tên Thiệu Long tại Hoan Châu, mà Toàn Đường thi, tập 2
quyển 95 tờ 1024, ghi như sau:
-
Thiệu Long tự
-
Ngô tùng Thích Ca cửu
-
Vô thượng sư Niết bàn
-
Thám đáo tam thập tải
-
Đắc đạo thiên Nam
đoan
-
Phi thắng thích thù
phương
-
Khởi huyên qui lý nan
-
Phóng khí nãi lương
duyên
-
Thế lự bất tằng can
-
Hương giới oanh bắc
chữ
-
Hoa kham ẩn nam loan
-
Nguy ngang giai hạ
thạch
-
Diễn dạng đàm trung
lan
-
Vân cái khán mộc tú
-
Thiên không kiến đằng
ban
-
Xử tục lạc yến tọa
-
Cư bần nghiệp hạnh
đàn
-
Thí tương hữu lậu khứ
-
Liêu tác vô sanh quan
-
Liễu nhiên cứu chư
phẩm
-
Di giác tĩnh giã an
-
-
Dịch :
-
-
Chùa Thiệu Long
-
Ta lâu theo đấng
Thích
-
Thầy vô thượng Niết
bàn
-
Ba mươi năm tìm đạo
-
Được đạo ngõ trời Nam
-
Không may phương này
đến
-
Lẽ về khó hỏi han
-
Duyên lành lúc đày ải
-
Đời nghĩ không từng
can
-
Cõi thơm vây bến bắc
-
Chùa hoa nép sườn nam
-
Cấp dưới cheo leo đá
-
Nhẹ vỗ sóng hồ lan
-
Mây che trông cây tốt
-
Trời trống ngó mây
dang
-
Ở đời siêng ngồi định
-
Sống nghèo cõi nghiệp
hành
-
Thử đem thân hữu lậu
-
Đi dựng quán không
sanh
-
Rõ ràng hiểu các phẩm
-
Càng biết tịnh là an
-
Bài thơ này không có
sai khác nào đáng chú ý, từ chữ "đàm" trong câu thứ 13 mà Toàn
Đường thi chép chữ "song", và chữ "lạc" câu thứ 15, mà có bản
chép ra chữ "cần". Chúng tôi sửa chữ "song" của Toàn Đường thi
thành chữ "đạm", bởi vì những chữ khác trong câu đó đều nói đến
sóng vỗ, mà sóng vỗ thì hà tất phải vỗ vào cửa sổ, trừ khi lụt
lớn. Tự dạng của chữ "song" và chữ "đạm" hầu như giống nhau, và
"đạm" có nghĩa là cái hồ, do thế thích hợp với những chữ "diễn
dạng đàm trung lan" của toàn câu. Theo chính chú thích của Trầm
Thuyền Kỳ, thì địa điểm ngôi chùa và cơ hội làm bài thơ xảy ra
như sau:
-
"Chùa Thiệu Long,
ngôi chùa kỳ tích nhất trong vùng Giang Lĩnh, cách thành Hoan
châu khoảng 25 dặm, người miền Bắc hễ hết ngày thì đến nghỉ,
theo lệ mà cúng hương, tôi làm bài thơ này sau khi trở về
thuyền…" (Thiệu Long tự, Giang Lĩnh tối kỳ, khứ Hoan châu thành
nhị thập ngũ lý tượng, bắc khách tất nhật, du khể, tùy lệ thí
hương, hồi ư chu trung tác).
-
Bằng vào giới thiệu
này và vào nội dung của bài thơ trên, ta có thể thấy chùa Thiệu
Long đã để lại những ấn tượng gì trong tâm hồn Kỳ. Kỳ thú nhận
là, chính tại đó, ông đã đắc đạo, sau ba mươi năm tìm đạo và
theo đấng Thích đã lâu. Chùa đã giúp cho Kỳ hiểu rằng, rõ ràng
nghiên cứu kinh điển thì càng biết rõ tĩnh là an.
-
Điều đáng tiếc là với
một ngôi chùa như thế, những miêu tả cũng như chú thích trong
bài thơ của Kỳ không xác định một cách minh bạch gì hết vị trí
khả hữu của nó. Từ câu 9 đến câu 14, tức "cõi hương vây bến bắc,
chùa hoa nép sườn nam, cấp dưới cheo leo đá, sóng vỗ nước hồ
lan, mây che trông cây tốt, trời trống ngó mây vươn", chỉ cho ta
biết một cách mập mờ rằng ngôi chùa nằm ở phía nam một sườn núi,
đối lập với một bến nước phía bắc, do thế ngó xuống một bình
nguyên, trước mặt là những cấp đá dẫn lên chùa và một cái hồ,
trên sườn núi cây cối xung quanh chùa tốt tươi. Thế thì ngôi
chùa ấy ở đâu? Theo lời chú thích, ngôi chùa cách thành Hoan
châu khoảng 25 dặm, và có con sông bên cạnh, để cho "cõi hương
vây bến bắc" và Kỳ trở về thuyền làm thơ. Ngọn núi như vậy cũng
phải cách Hoan Châu 25 dặm và có một con sông chảy quanh qua
phía bắc của nó. Hiện chúng tôi không thể xác định ngọn núi ấy
tên gì. Tuy nhiên để bắt đầu cho việc tìm lại cái tên cho ngọn
núi ấy, ta phải định xem vị trí của Hoan Châu nằm ở đâu tại nước
ta ngày nay.
-
Cái tên Hoan Châu khá
quen thuộc với người nước ta, tối thiểu là cho đến tháng 12 năm
Long Phù Nguyên Hóa thứ nhất (1100) khi vua Lý Nhân Tôn đổi nó
ra phủ Nghệ An. Hoan Châu thời nhà Lý như vậy có thể nói là
tương đương với tỉnh Nghệ An ngày nay. Thế, vào thời Đường nó ra
sao? Nguyên Hòa quận huyện đồ chí quyển 38 tờ 16a4-5 của Lý Cát
Phủ, viết khoảng năm 815, cho biết, "Hoan Châu ở về phía Đông,
cách biển 100 dặm, phía nam cách biên giới Lâm An khoảng 190
dặm, bắc cách Diễn Châu 150 dặm". Thái bình hoàn vũ ký quyển 171
tờ 6a10-14, ghi khác đi một chút, theo đấy "Hoan Châu đông dọc
theo biển đến châu Phúc Lộc 102 dặm, nam đến biển lớn 150 dặm,
đến châu Ky My Tu 240 dặm, bắc đến Diễn Châu 150 dặm và Ahâu
603 dặm, tây nam đến nước Vạn Đơn 15 ngày đường, ước chừng 750
dặm, đông nam đến nước Hoàn Vươn 10 ngày đường, ước chừng 500
dặm, bắc đến Hóa Châu 520 dặm, tây bắc đến sông Linh Bạt 470
dặm, tây nam đến châu Ky My Thường 300 dặm". Tân Đường thư quyển
43 tờ 45b6-46a1 phối hiệp những sai khác trên, rồi thêm " Hoan
Châu đông đến biển lới 150 dặm, nam đến Lâm Châu 150 dặm, tây
đến biên giới nước Hoàn Vương 800 dặm, bắc đến biên giới Ahâu
603 dặm, nam đến biên giới quận Tân Đáng 400 dặm, tây bắc đến
sông Linh Bạt 470 dặm, đông bắc đến Biên Châu 502 dặm".
-
Trước những ghi chú
sai khác này, báo cáo của Nguyên Hòa quận huyện đồ chí đáng được
chấp thuận hơn cả, bởi vì tính cổ sơ cũng như giá trị văn điệu
của nó. Ngay cả khi kết nối với những mẫu tin của Nhạc Sử và Âu
Dương Tu, chúng ta tối thiểu cũng có có thể rút ra hai dữ kiện
chắc chắn, đấy là Hoan Châu cách biển về phía Đông khoảng từ 100
đến 150 dặm ở phía nam của Diễn Châu và Ahâu, và cách Diễn
Châu 150 dặm. Cứ vào hai dữ kiện này, chúng ta có thể đồng ý với
Henri Maspéro để đặt địa phận của Hoan Châu tối thiểu vào đời
Đường thuộc giới vực của tỉnh Nghệ An ngày nay, mà trung tâm có
thể ở khoảng huyện
Nam
Đàn. Chính trong huyện này mà ngôi chùa Thiệu Long của ta phải
được tìm. Trong cuộc điều tra khảo cổ học nơi huyện đó vào năm
1911, Maspéro đã cho biết là ông tìm những viên gạch có tiểu
tượng đức Phật tại di tích của một cổ thành cách đình làng Nhạn
Tháp không xa mà ông giả thiết đó chính là di tích của l sở
thành Hoan Châu. Về những viên gạch này, ông bảo là những tồn
tích của những vật liệu trong việc dựng một ngôi chùa tại xung
quanh đó vào năm 636. Niên đại 636 này chúng tôi không biết
Maspéro rút ra từ đâu, phải chăng từ những ghi chú trên viên
gạch? Vì chưa thấy những viên gạch này, chúng tôi không thể trả
lời được.
-
Ngôi chùa dựng năm
636 có tên gì Maspéro cũng không cho biết. Đương nhiên nếu thành
Hoan Châu quả cách đình làng Nhạn Tháp ngày nay không xa và nếu
câu "bắc khách tất nhật du khế", trong lời giới thiệu của Trầm
Thuyền Kỳ ghi trên, có thể cắt nghĩa như ngôi chùa Thiệu Long,
vì tuy cách Hoan Châu 25 dặm nhưng tất phải gần thành này để cho
bắc khách hễ hết ngày thì đến nghỉ, tùy lệ mà cúng hương, thì
ngôi chùa Thiệu Long phải nằm xung quanh đình làng Nhạn Tháp
không xa. Điều đó tiếc là chúng tôi hiện đang không có một bản
đồ địa hình tỉnh Nghệ An và huyện Nam Đàn nên không thể nói gì
thêm về giai đoạn này về vị trí có thể của ngôi chùa (1). Cứ vào
bài thơ như đã vạch ra, thì ngôi chùa phải nằm cạnh sườn phía
nam của một ngọn núi đối lập với một bến nước của một dòng sông
tại phía bắc. Có ngọn núi nào nằm xung quanh làng Nhạn Tháp ngày
nay không, chúng tôi không thể trả lời được cho đến lúc có thể
làm một cuộc điều tra tại chỗ hay sở hữu một bản đồ địa hình
huyện Nam Đàn và con sông tại phía bắc phải chăng là sông Cả hay
một phụ lưu của nó. Một lần nữa chúng tôi không thể trả lời và
phải chờ đợi. Ngay lúc này những bàn cãi trên giúp vạch ra một
lối tìm lại ngôi chùa của chúng ta.
-
Mọi người đều biết số
chùa chiền tại miền Bắc Trung bộ trước năm 939 cho tới lúc này
hầu như hoàn toàn không biết đến, bởi vì không có một ghi chú
nào còn lại, mặc dù nó là nơi có lẻ đã chứng kiến những ngôi
chùa xưa nhất của chúng ta. Chuyện Vu Pháp Lan mất tại Tượng Lâm
vào khoảng năm 320 và như thế có giả thiết sự có mặt của những
ngôi chùa hay tối thiểu một ngôi chùa tại Tượng Lâm là một ví
dụ. Ngôi chùa Thiệu Long có thể cung hiến cho ta một mốc giới
thứ nhất trong việc định tự lại số chùa chiền vừa nói. Điều này
là khởi điểm điều tra và khai quật đáng chú ý không những đối
với những người nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn
những đối với những người nghiên cứu cổ sử Việt Nam và những bộ
môn khác như nghệ thuật, âm nhạc, văn học … Chính vì những lôi
cuốn này, mà dẫu thiếu thốn tư liệu và kinh nghiệm, chúng tôi đã
cố gắng giới thiệu sự có mặt của nó.
-
Ngoài bài thơ về chùa
Thiệu Long này, Thẩm Thuyên Kỳ còn để lại một bài thơ khác, viết
sau hay trong lúc hầu chuyện với một nhà sư Việt Nam tên Vô Ngại
tại chùa Tịnh Cư núi Cửu Chân, mà ông tự xưng là đệ tử. Bài thơ
ấy, nhiều nhà nghiên cứu nước ta đã cho dẫn với tất cả những sai
lầm và thất lạc của nó như đã kể trên. Nhan đề bài thơ này là
"Cửu Chân sơn Tịnh Cư tự yết Vô Ngại Thượng nhân" – Hầu chuyện
Thượng nhân Vô Ngại chùa Tịnh Cư núi Cửu Chân – mà Toàn Đường
thi quyển 97 tờ 1047 chép như sau:
-
Đại sĩ sinh Thiên
Trúc
-
Phân thân hóa Nhật
Nam
-
Nhân trung xuất phiền
não
-
Sơn hạ tức già lam
-
Tiểu giản hương vi
sát
-
Nguy phong thạch tác
am
-
Hầu thiền thanh cốc
nhũ
-
Khuy giảng bạch viên
tham
-
Đằng ái vân giáng
bích
-
Hoa lân thạch hạ đàm
-
Tuyền hành u cung hảo
-
Lâm quãi dục y kham
-
Đệ tử ai vô thức
-
Y vương tích vị đàm
-
Cơ nghi văn bất nhị
-
Mông muội tức triều
tam
-
Dục cức nhân duyên lý
-
Liêu khuy phóng khí
tàm
-
Siêu nhiên Hỗ khê
tịch
-
Song thọ hạ hư lam
-
Dịch:
-
Đại sĩ sinh Thiên
Trúc
-
Phân thân dạy Nhật
Nam
-
Trong đời khỏi phiền
não
-
Dưới núi tức già lam
-
Suối con hương dựng
cõi
-
Núi ngất đá làm am
-
Chầu thiền câu xanh
mởm
-
Trông khe vượn trắng
nhòm
-
Giây yêu mây quấn
vách
-
Hoa luyến đá dưới đầm
-
Khe trôi sâu lại đẹp
-
Rừng móc áo giặt xong
-
Con buồn không hiểu
biết
-
Y vương tiếc chưa bàn
-
Trí ngờ nghe bất nhị
-
Mông muội liền qui
tam
-
Muốn tìm nhân duyên
lý
-
Đày ải thêm thẹn
thùng
-
May sao chiều khe Hỗ
-
Song thọ núi mù lam
-
Bài thơ này không có
những sai khác, trừ bốn câu chép thiếu trong bản Lê Quý Đôn đã
được bổ túc. Đầu đề bài thơ này ghi lại những cảm tưởng và cảm
tình của Kỳ đối với một nhà sư nước ta tên Vô Ngại sống tại chùa
Tịnh Cư núi Cửu Chân. Về nhà sư này, ngày nay chúng ta không
biết một tí gì hết. Không một tư liệu, Việt hay Trung Quốc, Phật
giáo hay không Phật giáo, nhắc đến vị này. Theo bài thơ, Sư hẳn
là một nhà tu thiền, tuy vẫn tiếp tục công tác hoằng pháp tại
chùa Tịnh Cư núi Cửu Chân, mà mỗi khi giảng thì có vượn trắng
dòm, và tại Nhật Nam. Giai thoại Huệ Viễn "Hỗ khê tam tiếu" còn
gợi ý cho ta thấy là Sư suốt đời không hề rời khỏi nơi tu niệm
này, như Huệ Viễn chỉ tiễn chân khách đến bờ Hỗ khê rồi từ biệt.
Cho nên Kỳ mới tìm đến, và khi gặp ngài nơi khe Hỗ vào một buổi
chiều khi núi mù lan xuống, thì được Sư bàn đến quan niệm bất
nhị trong Phật giáo khiến cho Kỳ đang mông muội bỗng giác ngô
liền qui y Tam Bảo và trở thành đệ tử của Sư. Thế thì nhà Sư này
sống vào khoảng nào?
-
Ở trên, chúng tôi đã
lập bản tiểu sử Kỳ từ Cựu Đường thư, đây là bản tiểu sử tương
đối đầy đủ nhất, trừ chi tiết Kỳ đỗ Tiến sĩ năm Thượng Nguyên
thứ 2, tức năm 675, theo Đường tài tứ truyện quyển 1. Những tác
phẩm khác đa số đều sao chép lại bản này, như Toàn Đường thi
quyển 95 tờ 1020 chẳng hạn. Đường thi kýsự quyển 11 tờ 160 của
Kế Hữu Công không cho biết gì mới, còn Tân Đường thư quyển 200
tờ 1ả-b11 thì ghi lại một cách lộn xộn khó hiểu và khó nhận.
Chung quy, chúng ta không biết Kỳ sinh năm nào. Nhưng vì ông đỗ
Tiến sĩ năm 675 và vì ông đã "thám đạo tam thập tải" và khi bị
đày ra Hoan Châu là vào năm 704 hay trước đó, nên Kỳ do thế phải
sinh vào khoảng năm 655, nếu ta đồng ý chấp nhận Kỳ đậu Tiến sĩ
năm hai mươi tuổi và tìm đạo vào khoảng trên dưới năm mươi tuổi.
Cựu Đường thư bảo ông mất vào khoảng đầu Khai nguyên hay Khai
nguyên năm thứ nhất, tức năm 713. Niên đại ông do đó ở và giữa
khoảng năm 655-713.
-
Bằng vào niên đại và
vào việc Kỳ tự xưng là đệ tử của Vô Ngại khi bị đày ra Hoan Châu
lúc ông khoảng 50 tuổi, chúng ta có lẻ không sai cho lắm khi đặt
cuộc đời Vô Ngại vào những năm 640-710, giả thiết rằng ông đã 60
tuổi, khi Kỳ hầu chuyện. Như đã nói, ngày nay chúng ta không có
một tư liệu hay ám chỉ nào về sự có mặt của một nhà sư tên Vô
Ngại. Niên đại được rút ra vì vậy chỉ có thể chứng thực khi nào
ngôi mộ và ngôi chùa Tịnh Cư của ông được tìm thấy, đặc biệt là
nếu có những bia văn còn tồn tại. Vấn đề là, chùa Tịnh Cư nằm ở
đâu?
-
Theo bài thơ, chùa
nằm tại núi Cửu Chân dưới chân có già lam cho việc giảng đạo và
trên chóp có am cho người tu thiền. Trước mặt chùa chắc có một
cái đầm, để hoa luyến ái và bên cạnh là dòng suối với cái tên
khe Hỗ quen thuộc của truyền thống Tịnh độ bên Trung Quốc. Chính
tại dòng suối này mà nhà sư đã giặt áo để phơi lên rừng Song
Thọ, nơi mà Kỳ đã gặp ông vào một buổi chiều khi sương mù trên
đỉnh núi đang lan tỏa xuống chòm cây vói những vách đá làm nơi
yêu đương cho mây trời và mây đất quấn quít lẫn nhau. Với những
mô tả của Kỳ, những ai đã từng dừng xe trên đèo Hải Vân vào một
buổi chiều nắng nhạt hay một một buổi sáng mát trời tất có thể
nhận ra ngay là, ngôi chùa Tịnh Cư của Thượng nhân Vô Ngại và
Trầm Thuyên Kỳ phải nằm tại một ngọn núi gần biển, một ngọn núi
sát biển. Song vì Kỳ xác định rõ là chùa Tịnh Cư nằm tại núi Cửu
Chân , do thế chúng ta không cần phải suy luận gì cho dài dòng
lôi thôi, mà chỉ cần định vị ngọn núi tên Cửu Cân đây ở vào địa
điểm nào tại nước ta ngày nay mà thôi.
-
Nhạc Sử trong Thái
bình hoàn vũ ký quyển 171 tờ 3a9, trong khi liệt ra một ngọn núi
Tạc Sơn cho huyện Nhật Nam quận Cử u Chân, đã ghi thêm làm, ngọn
Tạc Sơn này cũng có tên là Cửu Chân – (Tạc Sơn nhất danh Cửu
Chân sơn). Chỉ một ghi nhận này cũng đủ làm ta vững lòng và giúp
soi sáng ta khá nhiều trong việc tìm hiểu hai chữ Nhật Nam trong
bài thơ của Kỳ nói gì. Khi Kỳ bảo "Đại sĩ sinh Thiên Trúc, phân
thân hóa Nhật Nam" , thì Nhật Nam đây không phải là quận Nhật
Nam mà là huyện Nhật Nam, bởi vì nếu là quận Nhật Nam thì ta
không thể hiểu, tại sao Thượng nhân Vô Ngại lại ở núi Cửu Chân
của quận Cửu Chân. Nhật Nam như vậy là huyện Nhật Nam, một huyện
của quận Cửu Chân.
-
Về Tạc Sơn, Nguyên
Hòa quận huyện đồ chí quyển 38 tờ 15a10-b1 cho biết "Tạc Sơn ở
tại phía bắc của huyện (Nhật Nam) 130 dặm, xưa khi Mã Viện đi
đánh Lâm An bị sóng gió cản trở, bèn đục triền núi ấy để làm
đường giao thông nên có tên đó"- (Tạc Sơn tại huyện bắc nhất
bách tam thập lý; tích Mã Viện chinh Lập Aᰬ trở phong ba, nãi
tạc thủ sơn loan vi đạo, nhân dĩ vi danh). Huyện Nhật Nam theo
cùng sách, quyển 38 tờ 15a8-9 và tờ 15b2 thì vốn là "đất huyện
Cư phong đời Hán, nhà Tấn chia đặt huyện Tân Ngô. Tùy Khai hoàng
năm thứ 10 (590) cắt đất huyện Nhật Nam thuộc Ahâu, Hoàng
triều nhân theo… biển ở phía đông của huyện 70 dặm". Bằng mô tả
này, ta biết huyện Nhật Nam tại đất huyện Cư Phong đời Hán và
tiếp giáp với biẻn ở phía đông. Chi tiết liên quan đến huyện Cư
Phong giúp ta xác định những liên hệ của Nhật Nam với những
huyện khác của Ahâu.
-
Chẳng hạn, huyện An
Thuận. Huyện này cứ cùng sách quyển 38 tờ 15a1-3 thì vốn là
"đấty huyện Cư Phong đời Hán, nhà Ngô cải là Duy Phong lại chia
đặt huyện Thường Lạc thuộc quận Cửu Chân. Tùy Khai hoàng năm thứ
10 (590) đổi ra huyện Ahâu, năm thứ 16 (596) đổi làm huyện An
Thuận, hoàng triều nhân theo". Cả huyện An Thuận và Nhật Nam
cùng hai huyện khác của Ahâu là Cửu Chân và Sùng Bình, đều nằm
tại vị trí huyện Cư Phong đời Hán. Tên huyện An Thuận vẫn còn
thông dụng cho đến đời Lý. Trong cuộc điều tra và khai quật khảo
cổ học tại vùng Thanh Hóa vào năm 1939, Olaf Janse đã tìm thấy ở
Hàm Rồng một bia văn bằng gạch, theo đấy" […] phù Nguyên niên
Đinh Dậu tuế thập nguyên thập tứ nhật Canh Thìn chi thần, kim
hữu Đại Việt quốc Ahâu An Thuận, Quí Ninh hương Phù Chính lý
thanh tín đệ tử Lý Thị Hà sư niên đăng tam thập cửu mạng chung
thân hóa" mà Trần Văn Giáp đã tái kiến chữ khuyết trước chữ
"phù" thành trinh phù và dịch ra: "Trinh phù năm thứ nhất tuổi
Đinh Dậu tháng 10 ngày 14 giờ Canh Thìn, nay có xóm Phù Chính
làng quí Ninh huyện An Thuận Ahâu nước Đại Việt, vị thầy của
nữ đệ tử thanh tín Lý thị Hà, tuổi lên 39, thọ hết hóa thân".
-
Giá trị của những bia
văn loại này, ngoài việc giúp sửa sai những sai lầm của những
cuốn sử thành văn niên hiệu Trinh phù này, nếu cứ Việt sử lược
quyển 3 tờ 9b4 thì bắt đầu vào năm Bính Thân nhưng qua bia văn
vừa dẫn thì phải thuộc vào năm Đinh Dậu, còn cống hiến cho ta
những điểm chỉ cần thiết cho việ định vị những quận huyện nước
ta qua lịch sử. Vì bia văn này dẫn tìm thấy tại Hàm Rồng trên bờ
sông Mã, huyện An Thuận, dưới thời Lý cũng như thời Đường, do
vậy chắc hẳn phải nằm trong vùng cách tỉnh lhanh hóa không xa.
Một khi đã thế, Cư Phong đời Hán cũng rơi vào cùng chỗ. Vbì
huyện Nhật Nam nằm trên đất Cư Phong, tiếp giáp với biển về phía
đông và có núi Tạc Sơn về phía bắc, như vậy tất không thể định
vị vào địa điểm nào khác hơn là giải đất của những huyện Yên Hóa
và Nga Sơn. Tạc Sơn của Nguyên Hòa quận huyện đồ chí từ đó phải
là một trong những ngọn núi của rặng Thanh hóa. Và vì nó sát
biển để cho Mã Viện đục để làm đường giao thông, nó chắc chắn
phải là rặng núi cuối cùng của rặng ấy.
-
Kết luận này còn có
thể làm vững thêm chính những báo cáo của Nhạc Sử. Trong Thái
bình hoàn vũ ký quyển 171 tờ 3b5-7, Nhạc Sử cũng đã cho dẫn
truyền thuyết đục sườn núi làm đường giao thông của Mã Viện,
nhưng thay vì dẫn nó dưới mục Tạc Sơn , ông đã cho dẫn dưới mục
về Tạc Khẩu, theo đấy "Tạc Khẩu tức là nơi Mã Viện mở đường đá.
Cứ "Quảng Châu ký nói thì Mã Viện đục núi Cửu Chân, lấy đá làm
đê để ngăn sóng biển, từ đấy không còn gặp nước biển lên mênh
mông nữa" – (Tạc Khẩu tức Mã Viện khai thạch đạo xứ, giá Quảng
Châu ký vân: Mã Viện tạc Cửu Chân sơn tức thạch vi đê, dĩ át hải
ba, tự thị bất phục ngẫu trướng hải).
-
Tên núi Cửu Chân ra
đời khá sớm, tối thiểu là vào thời Quảng Châu ký, mà ta có thể
xem như một tác phẩm của Bùi Uyên hay Cố Vi, những người sống
trước thế kỷ thứ 7. Sự đồng nhất Tạc Sơn và núi Cửu Chân như thế
hoàn toàn có thể được biện minh. Vì Tạc Khẩu là nơi Mã Viện đã
đắp đường đá để tiến đánh quân kháng chiến của Hai Bà Trưng do
Chu Bá lãnh đạo năm 39 – 43, nó tất không thể nằm vào địa điểm
nào khác hơn là miền duyên hải giữa sông Đáy và miền phụ cận về
phía Tây Nam, như Maspéro đã nhận ra. Một khi Tạc Khẩu đã nằm
trong vùng Đáy, thì núi Cửu Chân hay Tạc sơn dĩ nhiên phải là
ngọn núi cuối cùng ngó xuống Tạc Khẩu và biển Nam Hải của rặng
Tam điệp ngày xưa, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
-
Vậy ngôi chùa Tịnh Cư
của Thượng nhân Vô Ngại phải ở vào nơi những địa điểm trong
những ngọn núi cuối cùng ngó ra biển của những ngọn núi vừa nói.
Ngọn núi cuối cùng đây phải là khởi điểm của công tác điều tra
khai quật của chúng ta. Nó sẽ dẫn chúng ta về ngôi chùa Tịnh Cư
của nhà sư nổi tiếng, mà từ đây chúng ta hy vọng có thể tìm thấy
tối thiểu một số văn bia vừa dẫn trên, đặc biệt là bia văn của
Vô Ngại. Ngôi chùa này cùng với chùa Thiệu Long nói trước, như
vậy là hai ngôi chùa xưa nhất hiện được biết đến tại miền Trung
nước ta. Chúng ta sẽ giúp vẽ lại phần nào tình trạng sinh hoạt
Phật giáo Việt Nam cũng như những sinh hoạt khác như nghệ thuật,
âm nhạc, v.v… tại miền đó, trước thế kỷ thứ VIII, nếu những di
tích và di liệu của chúng có thể tìm ra. Đấy là một sự mời mọc
xứng đáng cho tất cả công sức của chúng ta.
-
Qua hai bài thơ trên,
chúng ta cũng có thể có một vài ý niệm khá lôi cuốn về tình
trạng Phật giáo Viẹt Nam vào thế kỷ thứ VII, đặc biệt là miền
Bắc Trung bộ. Chính tại miền này, vào thế kỷ VII đã xuất hiện
những người như Trí Hành và Đại Thặng Đăng. Thế mà, nếu ta đọc
lại những cuốn sử Phật giáo Việt Nam, nhất là Thiền Uyển Tập Anh
, chúng ta lại cứ quan niệm là chùa chiền cũng như nhân vật Phật
giáo Viẹt Nam trước thế kỷ X chỉ có tại Bình nguyên và Trung
nguyên Bắc bộ, miền Bắc Trung bộ hoàn toàn không có sinh hoạt
Phật giáo nào. Bây giờ với những điểm chỉ của Trầm Thuyên Kỳ,
một kế hoạch có thể đề ra cho việc tìm lại vết tích Phật giáo
của miền ấy.
-
Trầm Thuyên Kỳ bằng
hai bài thơ trên đã không ngớt lời ngưỡng phục những vị thầy và
những ngôi chùa ở đó. Chùa Thiệu Long "cõi hương vây bến bắc,
chùa hoa nép núi nằm",còn chùa Tịnh Cư thì "suối con hương dựng
cõi, chóp núi đá làm nam" hoặc "trí ngờ nghe bất nhị, mông muội
liền qui tam". Không những thế, Thương nhân Vô Ngại chùa Tịnh Cư
đã gieo vào lònh Kỳ những thâm cảm quá đặc biệt đến nổi không
ngại xem Thương nhân Vô Ngại như một phân thân của đức Phật tại
huyện Nhật Nam "đại sĩ sinh Thiên Trúc, phân thân hóa Nhật Nam"
và tự xưng mình là Phật tử. Chính sự có mặt của những cảnh và
người Phật giáo như chùa Thiệu Long và Thương nhân Vô Ngại đã
dám nói "đày ải cũng duyên lành, đời nghĩ không tùng can" với
chuyện "được đạo ngõ trời nam"và "mông muội liền qui y tam"
(bảo). Những câu vừa dẫn, nếu đọc trong khung cảnh bị đày ải của
Kỳ, ta mới thấy chúng có ý nghĩa tới mức nào. Trong nhiều bài
thơ làm lúc mới tới Hoan Châu ghi lại ở Toàn Đường thi quyển 95
tờ 1025, Kỳ đã viết:
-
Sơ đạt Hoan Châu
-
Lưu tử nhất thập bát
-
Mạng du thiên bất
ngẫu
-
Phối viễn thiên toại
cùng
-
Đáo trì nhật tối hậu
-
Thủy hành đàm nhĩ
quốc
-
Lục hành điêu đề lữ
-
Hồn phách du quỉ môn
-
Hài cốt di kềnh khẩu
-
Dạ tắc nhẫn cơ ngọa
-
Triêu tắc bảo bệnh
tấu
-
Tao thủ hướng nam
hoang
-
Thí lệ khán bắc đẩu
-
Hà niên xá thư lai
-
Trùng ẩm Lạc dương
tửu
-
Dịch:
-
Mới đến Hoan Châu
-
Bị đày mười tám đứa
-
Không chợt bảo ta dời
-
Nối trời xa mới hết
-
Đến chậm ngày rất vơi
-
Biển đi nước Đàm nhĩ
-
Đất bước rừng Trán
xoi
-
Hồn phách qua cửa quỉ
-
Hài cốt miệng kềnh
xơi
-
Đêm thì chịu nằm đói
-
Sớm lại mang bệnh dời
-
Giãi dầu nhắm nam cõi
-
Lau lệ trông Đấu soi
-
Năm nào thư xá đến
-
Lại uống rượu chơi
-
Đọc qua những bài thơ
khổ đau và chua chát loại này, ta mới hấy hai bài thơ dẫn trên
của Kỳ đã để lộ ra những ấn tượng gì mà nhà sư Vô Ngại và ngôi
chùa Thiệu Long đã gợi lên trong lòng Kỳ. Giữa cái cảnh "giãi
dầu nhắm Nam hoang, lau lệ trông Bắc đẩu" lúc mới đến Hoan Châu
và cái tâm tình "đày ải cũng duyên lành" sau khi đi thăm chùa
Thiệu Long về, chắc hẳn nhiều biến cố tâm sự cá nhân đã xảy ra
để làm cho Kỳ có những ấn tượng và cái nhìn mới về đất Hoan
Châu. Hoan Châu bây giờ không còn là Nam hoang hay rừng bọn Trái
xoi nữa, mà là một địa điểm ở đây "cõi hương vây bến bắc, chùa
hoa nép sườn nam, cấp dưới cheo leo đá, sóng vỗ nước hồ lan",
nghĩa là trở thành một địa điểm hấp dẫn thi vị của những nhà
thơ. Giữa cảnh "hồn phách qua cửa quỉ, hài cốt miệng kềnh xơi"
lúc mới tới và cái khẳng định sau ba chục năm tìm đạo mới được
đạo ngõ trời Nam, chắc hẳn Hoan Châu dạy cho Kỳ rất nhiều đến
nổi Kỳ có thể tự cho là đắc đạo, thì ta có thể thấy những thay
đổi gì xuất hiện trong tâm hồn Kỳ. Chính trong cái bối cảnh khổ
đau và chua chát của một người bị đày ải mà ta mới có thể hiểu
hết giá trị tâm tình và tư tưởng hai bài thơ trên của Kỳ đối với
Phật giáo nước ta vào đầu thế kỷ VIII.
-
Việc Kỳ "trí ngờ nghe
bất nhị", thì liền mông muội qui y Tam Bảo và trở thành đệ tử
của Thượng nhân Vô Ngại đương nhiên không phải là mới mẻ gì.
Trước Kỳ hơn nửa thế kỷ, Thích Thiên Phục mà Tống CaoTăng truyện
quyển 20, ĐTK 2060, đã mô tả "như sinh ra thì đầu bạc, tính biết
chuyện xa xôi"…ngày đọc kinh sách, mắt xem bảy hàng, một nghe
không quên, cũng đã tìm đến những danh Tăng nước ta để trình bày
những chỗ nghi ngờ và xin hỏi cách giải quyết. Và đấy là chưa kể
tới chuyện văn phong khiển thỉnh Huệ Thắng của Lưu Hội hơn hai
trăm năm trước đó. Qua sự tình Phật giáo như vưà thấy, chúng ta
bây giờ có thể hiểu tại sao đã xuất hiện những người như Đại
Thừa Đăng và Trí Hành trong cùng một vùng đất bì đày của Kỳ. Hai
bài thơ trên, do thế, ngoài việc giúp ta tìm lại những địa điểm
Phật giáo Việt Nam, còn cung hiến ta một cái nhìn khá đặc biệt
về tình hình Phật giáo tại miền bắc Trung bộ thế kỷ thứ VII đầu
thế kỷ thứ VIII.
-
(còn tiếp)
-
Source: Tập Văn Thành
Đạo (Thiền Viện VẠN HẠNH)
--o0o--
|
|