|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
Nghĩ Về Hệ Thống
-
Giáo Dục Phật Giáo Việt
Nam
- Thích
Nhật Từ
-
--o0o--
-
-
1.
Giáo dục Phật giáo là gì ?
-
Giáo dục học là khoa học về việc giáo dục con
người, khoc học về sự huấn luyện đạo đức, huấn luyện trí tuệ và
hình thành nhân cách con người. Giáo dục là khoa học của các
khoa học, đào tạo nên tất cả ngành nghề trong xã hội.
-
Từ gốc độ xã hội học, giáo dục là quá trình hành
thành con người dưới tác động của môi trường xã hội và thực tại
xung quanh con người.
-
Từ gốc độ giáo dục học, giáo dục là quá trình hình
thành có mục đích và hệ thống những sức mạnh về thể chất và tinh
thần của con người, cho từng cá nhân, nhằm xây dựng một cộng
đồng xã hội có vằn hóa, đạo đức, an bình và thịnh trị.
-
Từ gốc độ Phật giáo, giáo dục không chỉ là sự dạy
và học mà còn là quá trình chuyển hóa nội tại, cải tạo cái xấu,
bồi dưỡng và phát huy cái tốt, trang bị cho mỗi cá nhân những
nhận thức chánh kiến, đức tin chân chánh, những phẩm chất tâm
linh, ý chí và đạo đức nhân bản và siêu thế, để họ làm hành
trang tư lương cho đời sống an lạn, hạnh phúc cá nhân, gia đình
và cộng đồng xã hội. Giáo dục Phật giáo nhằm trang bị và hoàn bị
cho con người những kiến thức cần phải có, vạch trần bộ mặt của
hiện thực khổ đau và con đường hướng đến sự diệt tận khổ đau. Đó
là nền giáo dục về hiện thực, thể nghiệm hiện thực, nhận chân
hiện thực và vượt lên trên mọi ràng buộc đối đãi của hiện thực,
để trở về và thể nhập hiện thực như thị.
-
2.
Hệ thống giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
-
Trong các ban ngành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
hiện nay và ngay cả các ban ngành thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam trong các chính thể trước đều xem trọng và đặt ngành giáo
dục lên vị trí hàng đầu, vì tính quan trọng vô song của nó trong
chiến lược duy trì, củng cố và phát huy Giáo hội, góp phần làm
đẹp nền giáo dục nước nhà.
-
Hệ thống giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam hiện nay được xây dựng trên tinh thần của hiến chương Giáo
hội về ngành giáo dục, có thể cụ thể hóa thành 3 hệ như sau:
-
(a) Hệ giáo dục phổ cập:
-
Đây là hệ giáo dục Phật học dành cho Phật tử tại gia,
bao gồm các trung
-
tâm thuyết pháp, giảng dạy giáo lý trên tòan quốc, cho mọi đối
tượng, trình độ và giới tính. Hệ giáo dục phổ cập chỉ nhằm đáp
ứng những gì phổ thông và phổ quát nhất cho các Phật tử, chưa có
điều kiện đáp ứng theo nhu cầu cho từng lứa tuổi, giới tính và
trình độ, vì phổ cập chỉ hàm ý là những gì chung nhất, cần thiết
nhất mà mọi người cần phải có, để sống và làm việc đúng chánh
pháp. Chắc chắn rằng trong tương lai gần với sự đổi mới khế cơ,
khế thời của Đại hội 4 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngành
giáo dục Phật giáo sẽ đầu tư nghiêm túc vào hệ giáo dục phổ cập
này bằng cách thích ứng kịp thời sọan thảo nhiều chương trình
học khác nhau, phù hợp từng đối tượng, trình độ. Giáo hội nên
biên soạn giáo án mang tính sư phạm và khoa học cho thiếu nhi,
cho thanh thiếu niên, cho thanh niên, cho người có tuổi, cho
người mới theo Đạo và cho người mới phát tâm. Sự thích hợp từng
lưới tuổi, trình độ và giới tính là tính sư phạm cần thiết, góp
phần làm tăng hiệu quả giảng dạy của giảng sư, pháp sư, giáo lý
viên cũng như hiệu quả tiếp thu của học viên hay người nghe. Đó
là những vấn đề bức xúc hiện nay, cần được quan tâm và thực
hiện.
-
(B) Hệ giáo dục cơ bản Phật học:
-
Hệ giáo dục này dành cho đối tượng là các Tăng Ni
sinh với trình độ thế học tối thiểu là lớp 9. Hiện nay trên trên
toàn quốc có trên 30 trường cơ bản Phật học. Về chương trình,
giáo dục cơ bản Phật học hiện nay bao gồm Sơ đẳng và Trung đẳng
Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước 1975 và thời gian
học được rút ngắn từ 8 đến 9 năm thành 4 năm như hiện nay. Cơ
bản nên được hiểu không phải là những cái sơ cơ hay sơ đẳng mà
là những gì thiết yếu nhất và phổ quát nhất trong Phật giáo như
giới thánh uẩn, định thánh uẩn, tuệ thánh uẩn, giải thoát và
giải thoát tri kiến. Các môn học của kinh tạng Pali như Tiểu bộ
kinh ( năm thứ nhất ), Trường bộ kinh ( năm thứ hai ) Tăng chi
bộ kinh ( năm thứ ba ), Kinh Na-tiên Tỳ-kheo ( năm thứ tư ) và
Kinh tạng Bắc tông như Kinh Bách dụ, Kinh Bát đại nhân giác,
Kinh Thập thiện, Kinh Lăng nghiêm, Kinh Kim cang bát-nhã, Duy
thức cương yếu, Luận Phật thừa tông yếu, Luật Sa-di, Luật
Tỳ-kheo, Luật Bồ-tát v.v... đều nhấn mạnh đến giới, định, huệ,
giải thoát và giải thoát tri kiến này. giáo dục cơ bản Phật học
là nền giáo dục đặt trọng tâm vào năm thánh uẩn ấy để tạo cho
Tăng Ni sinh nền tảng văn huệ, tư huệ, tu huệ, hướng đến đời
sống thanh tịnh và giải thoát cho tự thân, tha nhân và cộng đồng
xã hội.
-
Tuy vậy, Ban giáo dục vẫn chưa quan tâm đúng mức về
tính nhất quán của giáo án, tính sư phạm của giáo án và các
phương tiện tham khảo, nghiên cứu và thư viện cho Tăng Ni sinh.
Sự kiện này có thể đã làm phát sanh việc lý giải chánh pháp theo
quan điểm cá nhân của giáo sư và giảng viên, từ đó dẫn đến mâu
thuẩn,làm hoang mang Tăng Ni sinh: họ không biết phải theo hệ tư
tưởng của giáo sư hay giảng viên nào và không theo hệ tư tưởng
nào. Ngả ba tư tưởng là đầu mối của sự nghi ngờ và làm suy giảm
đức tin chánh pháp, tổn thương cho việc hành trì, tu tập và do
đó cần phải được loại ra khỏi hệ thống giáo dục cơ bản Phật học.
-
(C) Hệ giáo dục Đại học Phật học:
-
Đây là hệ giáo dục Phật học chuyên sâu cho các Tăng
Ni sinh đã tốt nghiệp Cơ bản Phật học. Thời gian học là 4 năm và
trình độ tốt thiểu để được thi tuyển là lớp 12 phổ thông hoặc
tương đương. Hệ giáo dục Đại học Phật giáo hiện nay, do điều
kiện khách quan của xã hội Việt
Nam, chỉ mới đào tạo cấp Cử nhân Phật học và giới hạn trong đối
tượng Tăng Ni sinh. Một sinh viên tốt nghiệp cử nhân Phật học sẽ
được trang bị các kiến thức cần thiết về Kinh, Luật, Luận quan
trọng của Đại thừa, Tiểu thừa, Nhất thiết hữu bộ, và các bộ môn
ngoại điển như Triết học, Tâm lý học, Thẩm mỹ học, Sinh thái
học, Quản trị học, Lôgíc học, Văn học Việt Nam, Văn minh Việt
Nam, Lịch sử Việt Nam và thế giới v,v...
-
Tri thức cần thiết như vậy giúp các Tăng Ni sinh
viên, sau khi tốt nghiệp, có thể trước tác, dịch thuật, giảng
dạy, góp phần hoàn bị sứ mạng giáo dục phổ cập và cơ bản Phật
học. Tuy nhiên, hiện nay, hệ giáo dục Đại học Phật học vẫn còn
nhiều hạn chế như cơ sở vật chất, giới hạn về số lượng và đối
tượng đào tạo, nhất là chưa vạch được phương hướng cụ thể cho
các sinh viên sau khi tốt nghiệp. Có thể nhận xét rằng chương
trình còn quá nặng nề, cồng kềnh và chưa đi sâu vào từng phương
diện hiện đại của các vấn đề Phật học như các trường Đại học
Phật giáo của Tích Lan và Thái Lan đã làm. Học nhiều môn trong
một năm như hiện nay chỉ giúp cho sinh viên hiểu biết rộng từ
kiến thức truyền đạt của Thầy giáo nhưng không giúp cho sinh
viên có đủ thời giờ để chuyên sâu vào những vấn đề đã được học
hỏi trong lớp. Đó là lối học nhồi nhét, giết chết tư duy và sáng
tạo của sinh viên, làm cho sinh viên phải an phận với những kiến
thức vô cùng hạn chế của trường lớp, không tiến xa được trong
nghiên cứu và trước tác. Chúng tôi thiết nghĩ, trường nên cải
cách chương trình hiện nay, bằng cách giảm bớt các môn học đi
học lại nhiều lần trong bốn năm. Trường nên tổ chức các nhóm
chuyên ngành sau năm thứ hai nhằm tăng cường các môn học liên hệ
với các khoa học hiện đại như triết học Phật giáo, tâm lý học
Phật giáo, giáo dục học Phật giáo, đạo đức học Phật giáo, xã hội
học Phật giáo, thẩm mỹ học Phật giáo, nghệ thuật, kiến trúc Phật
giáo, quản trị học Phật giáo, kinh tế học Phật giáo, chính trị
học Phật giáo v.v...Được như thế, công việc giáo dục của trường
sẽ tiến xa hơn, sẽ đào tạo nhiều nhân tài cho Giáo hội hơn.
-
Ngoài ra, trường cũng nên biên soạn quyển ‘’Sở tay
trường Đại học Phật học Việt
Nam’’, giới thiệu về trường.
-
Nội dung sổ tay có thể bao gồm các vấn đề sau:
-
Lịch sử thành lập và mục đích của trường.
-
Hệ
thống hành chánh của trường như Ban giám hiệu, Ban giảng huấn và
văn phòng hành chánh.
-
*
Chương trình cử nhân Phật học:
-
-Tuyển sinh và thi cử.
-
-Chương trình học trọn khóa.
-
-Nội dung học của từng môn.
-
-Sách tham khảo cho từng môn
-
*
Chương trình Cao học Phật học:
-
-Tuyển sinh và thi cử.
-
-Chương trình học trọn khóa.
-
-Nội dung học của từng môn.
-
-Sách tham khảo cho từng môn.
-
-Qui định về luận văn tốt nghiệp.
-
*Chương trình nghiên cứu sinh tiến sĩ:
-
-Chế độ tuyển sinh.
-
-Thời gian ghi danh.
-
-Yêu cầu bản tóm tắt về chương trình nghiên cứu của
luận án.
-
-Qui định về nội dung của luận án.
-
-Chế độ thi cử và phát văn bằng.
-
3.
Những yêu cầu cơ bản của giáo dục Phật giáo.
-
Để đạt được những mục tiêu giáo dục trên, hệ thống
giáo dục Phật giáo cần thực hiện những yêu cầu căn bản sau:
-
(1) Mô phạm và thân giáo.
-
Người thầy giáo Phật học không chỉ lấy tri thức Phật học truyền
trao cho Tăng Ni sinh mà còn phải lấy năng lực, phẩm chất đạo
đức và phạm hạnh của mình truyền trao cho Tăng Ni sinh, mà thuật
ngữ Phật học gọi là thân giáo.
-
Thân giáo có thể được xem như bài học giáo dục thâm
thúy nhất và thiết thực nhất. Sự phạm hạnh và thanh tịnh của
người thầy có sức tác động mạnh vào tâm thức Tăng Ni sinh, khiến
họ phát khởi chánh tín, làm trổi dậy hạt bồ-đề, làm động lực cho
sự tu tập...Tất cả hành vi thân giáo của người thầy như cách đi,
đứng, nằm, ngồi, cho đến mặc áo, ăn cơm, rửa mặt v.v... là những
giáo huấn sinh động, không thể tìm thấy qua ngôn ngữ văn tự
trong trường lớp.Và do đó, có thể nói sự mô phạm hay thân giáo
của người thầy Phật học được đánh giá rất cao và đóng vai trò
quan trọng trong sự tu học của Tăng Ni sinh.
-
(2) Khế lý và khế cơ.
-
Khế lý và khế cơ là hai yêu cầu cơ bản của nền giáo
dục Phật học. Khế lý là sự trao truyền xác hợp với chân lý
Phật-đà và xiển dương chánh pháp đúng với bản chất của chánh
pháp, không vì lý do gì lại nói trái với chánh pháp. Thệ hiện
khế lý là nhằm đào tạo cho Tăng Ni sinh đức tính chánh ngữ,
bi-trí-dũng, hay đức vô sở úy vì sự hoằng truyền chánh pháp. Khế
cơ là sự truyền dạy xác hợp với căn cơ, đối tượng, nhằm xác lập
chánh kiến, chánh tư duy cho Tăng Ni sinh. Khế cơ đóng vai trò
quan trọng, vì nó xác định rõ yếu tố khế lý kia là để phục vụ
cho ai. Giáo dục Phật giáo là nền giáo dục phục vụ nhân bản. Có
khế lý mà thiếu khế cơ thì mục đích dục phục vụ đó không thể
thành tựu được.
-
Để đạt được yêu cầu khế lý và khế cơ, người thầy
giáo Phật học phải thấu triệt những vấn đề Phật học, nắm rành
tâm lý học tăng và nhất là phải chủ động trong việc triển khai,
giảng dạy thật linh động. Không phải biết cái gì thì dạy cái đó,
mà chỉ dạy những gì cần thiết cho căn cơ đối tượng. Sự thích hợp
với căn cơ đối tượng như vậy mới thật sự là giáo dục sư phạm
Phật học.
-
(3) Sư phạm.
-
Sư phạm là quá trình khoa học của giáo dục, được
thể hiện và đánh giá qua sự vận dụng quy luật trong quá trình
dạy học và còn là yếu tố không thể thiếu trong việc thành tựu
khế lý và khế cơ.
-
Đối tượng của thầy giáo là con người và do đó đối tượng của
người thầy Phật học là Tăng Ni sinh. Muốn giáo dục con người thì
người thầy phải biết thuyết phục, nêu gương, đồng thời tổ chức
các hoạt động thực tiễn để cho các học viên có dịp rèn luyện.
Tính khoa học trong giáo dục sư phạm Phật học được thể hiện cách
chính xác, hợp lý khi nó xác hợp với các quy luật phát triển của
lưới tuổi và đặc điểm của đối tượng.
-
Sư phạm trong giảng dạy Phật học thật chất là một
nghệ thuật truyền trao chánh pháp và huấn luyện trí tuệ, đạo đức
một cách hữu hiệu. Đây là nghệ thuật đòi hỏi nhiều ở sự nổ lực
tự trau dồi của người thầy nhiều hơn bất cứ nghề nào khác.
-
Tính sư phạm hay nghệ thuật giảng dạy trước hết thể
hiện ở khả năng diễn đạt, trình bày kiến thức và các tư tưởng
một cách nhẹ nhàng, thoải mái, giản dị, gần gủi mà đạt được tác
dụng giáo dục sâu sắc. Cái đó Phật giáo gọi là ngữ biện tài và
nghiã biện tài.
-
Ngự biện tài là nghệ thuật sư phạm Phật học còn được thể hiện ở
khả năng sử dụng lời nói, điêu luyện giọng nói, chỉnh lý tốt oai
nghi, dáng điệu, nét mặt, cách đi, cách đứng, cách nhìn và cả
cách ngồi nữa. Thiếu những cái đó thì khó có thể trở thành nhà
giáo dục Phật học giỏi được, nghiã là khó có thể thành tựu được
ngữ biện tài.
-
Ngòai ra, người thầy giáo Phật học còn phải biết
phát huy đồng bộ sức mạnh của các yếu tố giáo dục, tự giáo dục,
di truyền ( hay chủng tử câu sanh ) và hoàn cảnh. Có như vậy,
mục đích giáo dục Phật học mới mong thành tựu mỹ mãn như trận
mưa thấm nhuần và nuôi lớn các loại cỏ cây được.
-
4.
Những yêu cầu đối với người thầy giáo Phật học.
-
Nếu giáo dục được quan niệm như một nghề thì nghề
giáo dục được xem là nghề sáng tạo ra các ngành nghề trên trái
đất. Chính vì thế, nhà giáo dục Phật học trước tiên phải tự giáo
dục và hoàn thiện chính mình bằng các yêu cầu sau:
-
(1) Thẩm thấu chánh pháp, phạm hạnh thanh tịnh.
-
Đây là yêu cầu quan trọng bẫc nhất của một nhà giáo dục Phật
học. Thẩm thấu chánh pháp tức là sự giác ngộ chân lý Phật đà;
sống, làm việc và giáo dục theo chân lý Phật đà. Thẩm thấu chánh
pháp tức là quán triệt tinh thần nội điển-kinh luật luận của ba
hệ giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa và Nhất thiết hữu bộ mà thuật ngữ
Phật giáo gọi là yêu cầu về nội minh. Thẩm thấu chánh pháp hay
nội minh là một trong những yếu tố quan trọng trong ngũ minh của
Phật giáo Đại thừa. Quán triệt nội minh là điều kiện tất yếu
giúp cho mục đích giáo dục chánh kiến được thành tựu trọn vẹn.
-
Thẩm thấu chánh pháp đối với người thầy giáo Phật
học là một đòi hỏi rất lớn và cần thiết, và không chỉ dừng lại ở
đó, người thầy giáo Phật học còn phải là người gương mẫu trong
việc ứng dụng có hiệu quả những thức ăn chánh pháp vào đời sống
thường nhật của mình. Bản thân người thầy giáo Phật học phải là
điểm sáng về ‘’hạnh giải tương ưng’’ hay ‘’tri hành hợp nhất’’.
Người thầy Phật học không thể là một khối rỗng của tri thức mà
là một khối đặc của hành trì. Người thầy Phật học phải là một
hành giả, một nhà tu tập, thể nghiệm chánh pháp. Chính những yêu
cầu đó tạo nên phạm hạnh thanh tịnh nơi thân tâm người thầy Phật
học và tỏa sáng qua tâm linh và sự tu học của Tăng Ni sinh.
-
Người thầy giáo Phật học phải hội đủ sự giác ngộ lý
tưởng Phật giáo cao độ, có đạo đức phạm hạnh trong sáng và đức
từ ái bao la đối với tất cả chúng sinh. Giác ngộ lý tưởng Phật
giáo cao độ tạo cho người thầy giáo Phật học tinh thần vô sở úy
trước những bạo lực, uy quyền, trước những bất công; làm sống
dậy khả năng đề kháng; rửa sạch những nhận thức, chủ trương sai
lầm, trái với bốn thánh đế, tám chánh đạo, nhân quả, duyên khởi,
vô ngã và trung đạo... trong lãnh vực văn hóa và tư tưởng. Sứ
mạng cải tạo tư tưởng, văn hóa xã hội của người thầy Phật học
chỉ có thể đạt được khi người ấy thẩm thấu chánh pháp, có phạm
hạnh thanh tịnh và truyền trao chánh pháp bằng bầu nhiệt huyết
từ bi, vô ngã của mình. Chính vì thế, ảnh hưởng chánh kiến đa
văn, phạm hạnh, đạo đức, uy tín và sự gương mẫu của người làm
công tác giáo dục Phật học là một sức mạnh mà không có sách sư
phạm nào, không có châm ngôn đạo đức nào hay ngay cả sự khuyến
khích và trừng phạt nào có thể sánh ví, thay thế được.
-
(2) Quán triệt ngoại minh.
-
Ngoại minh là thuật ngữ Phật học dùng để chỉ cho sự
sư thông suốt các môn thế học. Hay nói khác hơn, đây là nhu cầu
về trình độ học vấn toàn diện, có chiều sâu lẫn chiều rộng đối
với nhà giáo dục Phật học.
-
Ngày nay, trước sự phát triển tranh minh của khoa
học và học thuật, Phật giáo được nhận định như là tôn giáo của
khoa học và triết học. Để việc truyền bá Phật học có hiệu quả,
nhà giáo dục Phật học phải lão thông các vấn đề khoa học lẫn
triết học. Sử dụng ngôn ngữ khoa học và triết học để triển khai
Phật giáo thì người tiếp thu sẽ thấy dễ hiểu và thâm tín hơn.
Đây chính là yêu cầu cơ bản của ngữ biện tài: ngôn ngữ được
trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng chân lý chứa đựng
trong đó chỉ là một. Kiến thức Phật học mà các Tăng Ni sinh lãnh
nạp được từ một trường Phật học chỉ thuần nội điển không đủ để
làm hành trang giáo dục tha nhân trong thời đại khoa học mới.
Người thầy giáo Phật học phải trang bị cho mình và Tăng Ni sinh
những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về triết học, tôn giáo
học, khoa học tự nhiên, tâm lý học, sư phạm học, giáo dục học,
văn minh Việt Nam và thế giới v,v,...
-
Các Tăng Ni sinh cũng như sinh viên Phật học ngày
nay không thể chỉ thoả mãn những kiến thức thuần nội điển, mà
đòi hỏi nhiều kỹ năng về các khoa học liên hệ. Các đòi hỏi chính
đáng đó còn do ai, nếu không phải là người thầy giáo Phật học
phải có trách nhiệm giải đáp, truyền thụ cho họ về những vấn đề
đó, dù ở mức độ nhất định.
-
Người giáo viên Phật học phải hiểu biết nhiều hơn
những cái được yêu cầu truyền thụ cho Tăng Ni sinh theo chương
trình Phật học viện qui định. Thực tế cho thấy không có một môn
học nào được giảng dạy mà lại không sử dụng những dữ liệu của
các ngành học kế cận, ngay cả ngôn ngữ rút ra từ cuộc sống hiện
thực và từ các lãnh vực tri thức khác nhau. Huống hồ Phật giáo,
nền giáo dục đậm tính triết lý, thâm thúy cao sâu, nếu thiếu
những kiến thức cơ bản về ngoại minh thì khó mà tiếp cận chính
xác được. Thuật ngữ Phật học là ngôn ngữ đặc thù của Phật giáo,
sâu sắc, khó hiểu, cần được chuyển thể qua ngôn ngữ khoa học,
triết học, văn học bác học lẫn bình dân, để phổ cập cho tất cả
đối tượng. Và như vậy, việc giáo dục Phật học sẽ được lan rộng,
lớn mạnh và hiệu quả hơn.
-
(3) Nghiệp vụ sư phạm và sáng tạo.
-
Yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục Phật
học, truyền trao chánh pháp đến với mọi giới theo những điều
kiện mới trước sự tiến bộ gia tốc của xã hội, đòi hỏi nhà giáo
dục Phật học phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ sư
phạm và tính sáng tạo trong nghệ thuật sư phạm của mình.
-
Phương hướng giảng dạy sư phạm và sáng tạo của người thầy giáo
Phật học có ý nghiã sâu sắc và liên hệ mật thiết với tiềm lực
tri thức, trí tuệ và đạo đức tu tập. Đó là mối liên hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức, ngôn từ và hiện thực, tri và
hành. Nghệ thuật sư phạm là nghệ thuật của sự lựa chọn có tính
sáng tạo. Lựa chọn càng thiện xảo thì tác dụng giáo dục hay khế
lý càng cao. Muốn hiệu quả sư phạm càng cao thì người thầy Phật
học phải thường xuyên nghiên cứu, hoàn bị cho mình trình độ lý
luận và kinh nghiệm giảng dạy, bằng cách nghiên cứu các thành
tựu của các khoa học, tâm lý lứa tuổi, sinh lý học và phương
pháp giảng dạy bộ môn... từ những tác giả Phật học và thế học có
uy tín trong lãnh vực chuyên môn trong cũng như ngoài nước và
đặc biệt là kinh nghiệm giáo dục Phật học ở các nước Phật giáo
tiên tiến.
-
Tất cả những tham khảo và nghiên cứu này giúp người
thầy giáo Phật học nâng cao trình độ lý luận về khoa học giáo
dục Phật học của mình trong sứ mạng truyền trì huệ mạng, tiếp
dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
-
‘’Biết mười dạy một’’ hay ‘’những gì Như Lai giảng
dạy như những chiếc lá trong lòng bàn tay, so với những chiếc lá
trong rừng’’ là những qui luật có ý nghiã sư phạm sâu sắc, đáng
cho chúng ta lấy làm phương châm để giáo dục Phật học có hiệu
quả. Giảng dạy trường giang đại hải, không giới hạn, không chọn
lọc và có tính sáo mòn, chẳng những không có ích cho học tăng mà
còn làm cho họ rối lên, dẫn đến sự thối thất trong văn huệ, tư
huệ và tu huệ, là điều cần phải tránh đối với nhà giáo dục Phật
học sư phạm. Người thầy giáo Phật học phải biết lựa chọn và
truyền dạy những gì cần thiết nhất trong biển pháp Phật học mênh
mông để học viên có thể ứng dụng thiết thực trong đời sống, đem
lại hiệu quả cao trong việc tu học, chứ không phải là nhà thuyết
trình, nhồi vào tâm trí học viên hết những gì mình học được qua
năm tháng đa văn và tu tập.
-
5.
Mục đích của giáo dục Phật giáo.
-
Đối với Phật giáo, mục đích giáo dục không phải là
điểm dừng mà là điểm xuất phát của quá trình giáo dục. Mục đích
giáo dục Phật học chính là toàn bộ giáo dục được đầu tư bàng
chất xám, phương pháp sư phạm và lòng nhiệt tâm của người thầy,
và kết quả là, đào tạo một mẫu Tăng Ni sinh lý tưởng nhất của
giáo hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định.
-
Mục tiêu giáo dục Phật học cần đạt được là trang bị cho Tăng Ni
sinh thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo; có đạo đức phạm
hạnh, có văn huệ, tư huệ, tu huệ, giải thoát và giải thoát tri
kiến; lột bỏ mọi kiến hoặc, tư hoặc; hành thành chánh kiến giải
thoát. Mục tiêu giáo dục Phật học là đòi hỏi rất lớn, quyết định
suốt cuộc đời giác ngộ chính mình hiện tại và tha nhân ở tương
lai. Giác ngộ chính mình là tự giáo dục, giác ngộ tha nhân là
tha giáo dục.
-
Tự giáo dục :
-
Bằng trí tuệ và phạm hạnh của mình, người thầy giáo Phật học
phải huấn luyện và đào tạo cho Tăng Ni sinh sự tự giáo dục chính
họ. Các thầy giáo Phật học là tấm gương để họ noi theo. Tự giáo
dục là quá trình đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự giác trau dồi tam
tuệ học, xóa bỏ tam độc, hướng đến tam giải thoát. Trong quá
trình này, người thầy giáo Phật học phải nhấn mạnhvà làm nổi bật
được ‘’hiện thực khổ đau đang khống chế con người là do vô minh,
tham chấp và phiền não’’, mà sự đạt được hạnh phúc, an lạc phải
do tự mỗi người thực hành lời Phật dạy, thông qua con đường bát
chánh, hay nói khác là nhận thức rõ tứ đế và mười hai nhân
duyên. Mỗi người phải áp dụng lời Phật dạy trong cuộc sống để
làm ốc đảo giải thoát cho chính mình. Hãy thắp sáng ngọn đuốc
giải thoát bằng chính sự tu tập của mình, như đức Phật đã dạy:
-
Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật .
-
Trong lộ trình giác ngộ, các con hãi tự mình thắp
đuốc lên mà đi.
-
Trong đại dương luân hồi, các con hãy tự mình lội
vào bờ giải thoát.
-
Các con là hải đảo của chính mình.
-
Đức Như Lai chỉ là bậc Đạo sư trên nguyên tắc.
-
Tha giáo dục:
-
Con đường giáo dục của Phật giáo là giao thoa nhân
duyên: giáo dục chính mình để mà chói sáng, giáo dục người khác.
Đối tượng giáo dục của Phật giáo luôn được xác định là con người
và rộng ra là tất cả các loài chúng sanh ngòai con người. Các
loài chúng sanh kém phước ngoài con người cũng chính là mục tiêu
giáo dục Phật giáo ở cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Mục đích của
Phật giáo là nhằm giáo hóa chúng sanh, do đó, mục tiêu giáo dục
của Phật giáo cũng nhằm giải thoát chúng sanh khỏi những đau khổ
đang khống chế, hoành hành. Con đường giác ngộ của Phật giáo là
tấm bản đồ công bố rộng rãi, không độc đoán, giấu giếm. Ai đi
đúng sự hướng dẫn của nó đều được giải thoát và đặc biệt là giải
thoát đó cũng được thực hiện từ tự thân của từng hành giả, chứ
không thể tìm thấy một ân sủng nào.
-
Tha giáo dục chính là mục tiêu lớn khi tự giáo dục
đã hoàn thành sứ mạng. Một người tự giáo dục đã xong mà không có
tha giáo dục, hẳn không phải là người Phật giáo.Thực tế cho thấy
không một người Phật tử nào sau khi hoàn thành tự giáo dục lại
không dang rộng đôi tay để giáo dục tha nhân bao giờ. Đạo Phật
là đạo của từ bi, cứu khổ. Giáo dục Phật giáo phải phát xuất từ
lòng từ bi vô hạn để cởi mở đau khổ của con người và muôn loài
như đức Phật đã dạy: ‘’Đạo Phật là đạo nói lên sự thật đau khổ
và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ cho tha nhân’’.
-
Tự giáo dục và tha giáo dục là mục tiêu đào tạo căn
bản nhất trong hệ thống giáo dục Phật học nhằm xác định hướng đi
vững chắc, thanh thoát và làm nền tảng cho mọi nền đạo học và
đức học trên thế gian này. Nay mục tiêu đã được xác định. Con
đường thênh thang trải dài đang dang rộng đôi tay để chào đón
tất cả Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp. Hãy tinh tấn, dũng mãnh
bước đi trên con đường giáo dục cao thượng này !
--o0o--
|
|