-
Cảnh Chùa Huế
-
Nguyễn Hứu Thái
-
---o0o---
-
-
Cố
đô Huế trông giống như một khu vườn lớn, trong đó có những khoảng
không gian uy nghi, quan cách, lộng lẫy của những cung điện, đền
đài, có những khoảng êm đềm, ấm cúng, thân thiết của những nếp nhà
vườn, ngôi đình dân dã và cũng có cả những khoảng tĩnh tại, thanh
thoát, lặng lẽ của những cảnh chùa. Ngôi chùa đó gắn liền vào tổng
thể kiến trúc Huế, hài hòa như chính đạo Phật đã hòa tan vào lòng
đời, lòng người xứ Huế. Tìm hiểu về những ngôi chùa Huế cũng chính
là tìm về một phần quan trọng làm nên văn hóa xứ Huế.
-
NÉT RIÊNG CỦA NẾP
CHÙA HUẾ
-
Chưa có một vùng đất nào trên đất
nước ta lại có một mật độ chùa chiền cao như Huế. Quanh Huế có
trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ, nhiều ngôi nguy nga có sự đóng
góp công sức của triều đình, tầng lớp quý tộc, nhưng cũng không ít
ngôi chùa mộc mạc gắn với làng quê của dân gian.
- Theo
sử sách thì chùa Huế xuất hiện từ thế kỷ XVI, nhưng phải từ khi
Nguyễn Hòang vào trấn đất Thuận Hóa và các chúa Nguyễn tiếp theo
muốn xây dựng một xứ Ðàng Trong biệt lập với triều đình vua Lê -
chúa Trịnh ở phía Bắc, thì các hoạt động văn hóa xã hội được thúc
đẩy và chùa được xây dựng nhiều để làm chỗ sinh hoạt tinh thần.
- Có
thể kể ra đây một số ngôi chùa tiêu biểu: Thiên Mụ (1601), Báo
Quốc (1674), Từ Ðàm (1683), Thuyền Tôn (1709), Từ Hiếu (1843),
Diệu Ðế (1844), Phước Thọ Am (1831), Trúc Lâm (1909)...
- Chùa
chiền ở Huế, ngay cả những ngôi chùa triều đình góp công sức xây
dựng cũng không bao giờ đồ sộ, xây cất tốn kém, sử dụng quá nhiều
công của nhân dân như các ngôi chùa lớn ở phía Bắc: ví như chùa
Trăm Gian, chùa Dâu, quy mô to lớn như Quỳnh Lâm (Ðông Triều), Sài
Nghiêm (Chí Linh), Hồ Thiên (Kinh Bắc)...
- Nếp
chùa Huế về cơ bản vẫn tiếp nối truyền thống ngôi chùa Việt, nhưng
tinh tế, không đồ sộ, khoa trương, ít rườm rà, không nhiều gian.
Ngôi chùa là ngôi nhà rường bình dị, thân thiết, gần gũi dân gian.
-
Chánh điện thường chỉ khiêm tốn có 3 - 5 gian, 2 chái, cắt mái 2
tầng nên nhẹ nhàng, thanh thóat hơn mái chùa nặng nề phía Bắc.
Chái nhà hai bên dành cho phương trượng, trụ trì, giám tự. Tiếp
theo chánh điện là chiếc sân trong bao quanh bởi thiền đường, Tăng
xá. Vườn chùa trồng cây ăn trái, bố trí tháp mộ các vị Tổ, trụ
trì, Tăng chúng. Sau vườn là khu canh tác, trồng hoa màu.
- Nội
thất chùa bình dị, cân đối và không trang trí sặc sỡ. Ngoài bộ
tượng Phật Tam Thế truyền thống, bên tả có Quan Công, bên hữu là
Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Về sau, vào thời chấn hưng Phật giáo những
năm 1950-63, có cải cách lại hệ thống thờ tự: trước Tam Thế đặt
thêm tượng Phật Thích ca, gian tả có Bồ tát Ðịa Tạng, gian hũu có
Bồ tát Quan Thế AÂm, tả hữu thì vẫn đặt Kim cang, Hộ pháp.
- Từ chùa Huế cũng phát xuất ra các
món ăn chay Huế khá phong phú. Nghề đúc chuông ở đây cũng rất độc
đáo, cung cấp cho cả các vùng phía Nam và các chùa người mình ở
nước ngoài.
-
Chùa Thiên Mụ
- Tháp
Phước Duyên vươn lên trên dòng sông Hương từ lâu đã là biểu tượng
xứ Huế. Thực ra tháp chỉ là một phần của cả một tổng thể chùa
tháp, tọa lạc trên một khu đồi lớn. Tháp này cao 21m, có 7 tầng,
xây cất thời vua Thiệu Trị (1844). Chiếc chuông ở đây cũng rất lớn
và cổ kính, đúc vào năm 1710, nặng 2.052kg và cao 2,35m. Chùa
Thiên Mụ được sắp vào chùa xây dựng sớm nhất ở Huế, vào năm 1601.
Thời vua Gia Long sáng lập triều Nguyễn có vời Hòa thượng Mật
Hoằng (chùa Ðại Giác ở thành Gia Ðịnh) về làm Tăng cang tại chùa
Thiên Mụ. Hòa thượng Ðôn Hậu nổi tiếng cả nước thời chống Mỹ đã
trụ trì chùa này từ năm 1945.
-
Chùa Báo Quốc
- Khu
Tổ đình xây dựng từ năm 1674 với một cái am nhỏ, sau nhiều đợt
trùng tu của các đời chúa và triều đình Nguyễn đã trở thành một
cảnh chùa xây dựng theo hình chữ “khẩu” quy mô khang trang trên
diện tích 2ha, nằm ngay sau ga Huế. Từ lâu nay ngôi chùa vẫn được
xem như là nơi phát xuất phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
từ những năm 30 của thế kỷ qua, do Hòa thượng Trí Ðộ lãnh đạo. Học
đường Linh Quang chuyển về đây vào năm 1948 đã biến chùa thành nơi
un đúc Tăng tài cho cả nước. Từ năm 1957, chùa được xây lại mới
nhưng bố cục vẫn theo truyền thống.
-
Chùa Từ Ðàm
- Ra
đời từ năm 1683, gốc phái Thiền Lâm Tế. Chùa nay xây dựng lại hiện
đại, cơ bản vẫn tôn trọng lối bố cục truyền thống nhưng các bộ
phận sinh hoạt đã có đổi mới, logic hơn với đầy đủ sân lễ, giảng
đường, nhà Tổ, nhà Tăng, nhà khách. Từ lâu, nơi đây đã nổi tiếng
với phong trào chấn hưng Phật giáo, từng làm nơi đặt trụ sở của
Tổng hội Phật giáo Việt Nam, năm 1945 là trụ sở của Phật giáo Cứu
quốc. Tổ chức Gia đình Thanh niên Phật tử cũng ra đời tại đây. Từ
năm 1963, chùa Từ Ðàm trở thành trung tâm đấu tranh của phong trào
Phật giáo yêu nước suốt thời gian chống Mỹ ở phía Nam. Tên tuổi
Hòa thượng Thích Trí Quang gắn liền với ngôi chùa này qua các mùa
pháp nạn.
-
Chùa Từ Hiếu
- Xây dựng từ năm 1843 ở phía Tây cố
đô, vị trí gần các lăng tẩm triều Nguyễn, trên một khuôn viên rộng
đến 4,5ha. Nguyên là am An Dương, vào năm 1848 các thái giám góp
công tu tạo để ký thác tuổi già. Tổng thể chùa khá hoàn chỉnh với
nào hồ bán nguyệt, nhà bia, tiền đường, chánh điện, nhà Tổ...
Trước cổng chùa có tháp Bồ Ðề dựng từ năm 1896 để chứa những kinh
tượng hỏng cho tự hủy. Dãy nhà chư Tăng nghỉ ngơi, nghiên cứu kinh
kệ gọi là “Tả Lạc Thiên” và nhà tiếp khách thập phương gọi là “Hữu
Ái Nhật”. Nay chùa còn xây mới thêm Thiền đường dành cho người ở
xa đến có chỗ nghiên cứu, tu tập.
-
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003