|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
(TRẤN BẮC TỰ)
-
-
Từ
vườn Bách Thảo qua đường Hoàng Hoa Thám sẽ đến một trong những
con đường thơ mộng nhất của thủ đô Hà Nội: đường Cổ Ngư, ngày
nay là đường Thanh Niên, nằm giữa hai hàng cây và hai hồ nước
xanh lặng sóng. Hai hồ này ngày xưa chỉ là một với nhiều tên:
Xác Cáo, Kim Ngưu (Trâu Vàng), Lãng Bạc (Sóng lớn), Dâm Đàm (đầm
Mù Sương). Cách đây 400 năm, người ta đắp con đường Cố Ngự
(nghĩa là cố giữ vững, sau đọc chệch thành Cổ Ngư) ngăn đôi hồ
này: hồ nhỏ là Trúc Bạch, hồ lớn là hồ Tây.
-
Với diện tích 466ha, chu vi 17km, chung quanh có nhiều đền chùa,
thắng cảnh, hồ Tây đã là nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ. Vào
thế kỷ XVIII, Nguyễn Đức Quý đã có thơ vịnh Tây Hồ:
-
Thuyền chứa nguyệt đài ngần ánh tuyết
-
Viện lồng hoa diệp biếc đầm sương
-
Sen xanh in trúc lung lay nguyệt
-
Vầng biếc hoa mai phảng phất hương.
-
Bài Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng là một áng văn nôm
trác tuyệt đậm đà bản sắc dân tộc, thi hứng ngợi ca hùng khí
triều đại Tây Sơn hòa trong cảm hứng trước vẻ đẹp hồ Tây.
-
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một chiều thu Hà Nội đã bắt gặp
dưới ánh hoàng hôn hồ Tây hình ảnh "mặt nước vàng lay bờ xa mờ
gọi, màn sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời" và
đã sáng tác nên một ca khúc thật đẹp.
-
Từ
con đường Cổ Ngư có lối dẫn vào một doi đất nằm bên mép hồ Tây,
hình qui nên gọi là bãi Rùa, còn có tên là bãi Kim Ngư (Cá
Vàng). Chính trên bãi đất này các vua nhà Lý đã dựng cung Thúy
Hoa làm nơi nghỉ mát, các vua nhà Trần dựng điện Hàm Nguyên để
ra vân cảnh. Nền cũ của cung và điện này ngày nay là vị trí của
ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta: chùa Trấn Quốc.
-
Chùa này nguyên trước là chùa Khai Quốc (Mở Nước) khai sáng từ
triều Lý Nam Đế (544 - 548) ở ngoài bãi sông Hồng, phía Đông Bắc
phường Yên Hoa tức Yên Phụ, gần cầu Long Biên bây giờ. Tại chùa
Khai Quốc, dưới triều Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã từng mở
tiệc chay thết đãi các vị cao tăng. Bà cũng thường lui tới chùa
cùng chư tăng đàm đạo.
-
Đến đời Lê Thái Tông (1434 - 1442) chùa được đổi tên là chùa An
Quốc. Hàng năm nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bờ sông. Vì
vậy, năm 1615, vào đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời
chùa vào gò đất Kim Ngư. Dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705)
chùa mới được đổi tên là Trấn Quốc, bức hoành phi mang chữ "Trấn
Quốc Tự" treo ở gian nhà đại bái hiện nay được làm từ lúc đó.
Thời Lê-Trịnh, nơi đây được chọn làm hành cung Trấn Quốc dành
cho vua chúa nghỉ ngơi khi dạo chơi hồ Tây. Năm 1842, vua Thiệu
Trị đến thăm chùa đổi tên thành Trấn Bắc, nhưng nhân dân vẫn
quen gọi tên cũ là chùa Trấn Quốc.
-
Chùa Trấn Quốc không chỉ tự hào về bề dày của lịch sử xây dựng
mà còn về các vị cao tăng và danh nhân đã gắn bó với ngôi chùa.
Các Thiền sư và Pháp sư Vân Phong, Khuông Việt, Thảo Đường,
Thông Biện, Viên Học, Tịnh Không, Trần Tú Uyên đều thụ giáo hoặc
tu trì ở chùa này. Năm 580, Thiền sư Ti-ni-đa-lưu-chi từ Ấn Độ
sang Việt Nam cũng đã dừng chân tại đây một thời gian.
-
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân sang đánh Chiêm Thành, bắt
cả vua Chiêm là Chế Củ và một số tù nhân, trong đó có một vị sư
rất am hiểu kinh pháp đạo Phật. Truy nguyên ra mới biết đó là
Thiền sư Thảo Đường. Lý Thánh Tông phong Thảo Đường chức Quốc sư
và mời Ngài trụ trì chùa Khai Quốc, từ đó mở ra Thiền phái Thảo
Đường ở nước ta. Chùa cũng là Tổ đình của Thiền phái Tào Động
truyền ở Việt Nam đời Hậu Lê.
-
Từ
khi dời vào bãi Cá Vàng, chùa Trấn Quốc đã nhiều lần được kiến
thiết và trùng tu. Năm 1624, dưới triều vua Lê Thần Tông, tòa
Tam bảo, tòa thiêu hương và tiền đường được xây dựng. Đến năm
1639, xây thêm tam quan, hậu đường và hành lang tả hữu. Ở hiên
phải nhà đại bái hiện còn tấm bia ghi lại việc trùng tu này do
Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính lập.
-
Sau một thời gian bị chiến tranh tàn phá, theo nội dung tấm bia
do Tiến sĩ Phạm Quí Thích dựng năm 1815, thì từ năm 1813 đến năm
1815, chùa Trấn Quốc lại được Sư trụ trì là Khoan Nhân tổ chức
trùng tu lại chính điện, nhà thiêu hương, tiền đường, hành lang,
gác chuông, hậu đường, đồng thời đắp tượng Phật và đúc chuông
lớn. Chùa Trấn Quốc là một trong số rất ít những ngôi chùa ở
miền Bắc có pho tượng Thích-ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng
rất đẹp.
-
Ngay cổng chùa có hai câu đối:
-
Vang tai xe ngựa qua đường tục
-
Mở
mặt non sông tới cửa Thiền
-
Trước cửa chùa lại thêm hai câu đối trên hai cột:
-
Trải bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng, chót vót cột trời
chùa Trấn Quốc.
-
Riêng một thú hoa đàm đuốc tuệ, sớm chuông chiều trống, thênh
thang cửa Phật cảnh Tây Hồ.
-
Trong vườn chùa, cùng với những cây cổ thụ sum suê tỏa bóng mát,
có một cây bồ đề được chiết cành từ cội bồ đề, nơi 25 thế kỷ
trước đức Phật Thích-ca thành đạo, do Tổng thống Ấn Độ R. Prasat
mang sang Việt Nam tặng năm 1958.
-
Cảnh thiên nhiên tĩnh mịch bao quanh chùa giữa mùa sen nở trắng,
hồng trên mặt nước hồ Tây dễ gợi lên cho con người không khí
hoài cổ từng được lưu giữ trong những dòng thơ của Bà Huyện
Thanh Quan:
-
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
-
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
-
Mấy tòa sen tỏa hơi hương ngự
-
Năm thức mây phong nếp áo chầu!
--o0o--
|
|