|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- (SÙNG PHÚC
TỰ)
-
- Cách Hà Nội
37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh
Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp:
giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà
tranh ẩn trên sườn núi.
- Đó là núi Câu
Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ ngọn núi này có tên như vậy vì
hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu. Nhưng xét về từ nguyên học,
thì tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa là núi Trâu, về sau có
sách vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta sẽ hiểu được điều
này khi đứng từ xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các ngọn đồi vùng
Kim Quan tạo thành một dãy núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống giữa
đồng bằng, trông chẳng khác nào một đàn trâu mà núi Câu Lậu là con
trâu mẹ đang quay đầu nhìn lại đàn con.
- Từ chân núi Câu
Lậu, leo lên 239 bậc đá ong, chúng ta sẽ đứng trước cổng danh lam
thuộc loại tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở nước
ta: Chùa Tây Phương, tên chữ là Sùng Phúc Tự, còn có tên khác là
Hoành Sơn Thiếu Lâm Tự.
- Năm 1632, vào
đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung
cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 - 1682, Tây Đô Vương
Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến
năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên
mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như
ngày nay.
- Bia chùa Tây
Phương lập năm 1924 có ghi lại sự việc "Sadi Thiết Tử, tên tự là
Thanh Ngọc, quê làng Cao Xá, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, xuất
gia từ nhỏ, đến năm 1893 đến ở chùa Sùng Phúc tức chùa Tây Phương
núi Câu Lậu. Vùng núi này là nơi danh lam thắng cảnh tích phát anh
tài, hương thiền phảng phất. Vì vậy các thân hào kỳ lý trong xã
họp lại nhất trí tu tạo và sửa sang 3 tòa tự vũ, nhiều lần chấn
chỉnh, đồng thời tạc tượng Quan Âm trăm tay cùng tượng Thiện Tài
Long Nữ. Cũng trong thời gian này còn tạc thêm tượng Bát bộ Kim
Cương, Thập bát La-hán vàng son lộng lẫy?".
- Chùa gồm 3 nếp
nhà làm bằng gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ "Tam": tòa bái
đường, tòa chính điện và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này cách nhau
1,60m, tạo nên một nhịp điệu kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ
hứng lấy ánh sáng lung linh từ bên ngoài, tạo cho nội thất một
khung cảnh thoát tục, phù hợp với triết lý sắc sắc không không của
nhà Phật.
- Mỗi nếp chùa có
hai tầng mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao
vươn lên cong vút với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng,
phượng. Vật liệu xây chùa chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các
cột gỗ đều kê trên tảng đá xanh tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp
gồm hai lớp ngói: lớp trên là ngói đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp
dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc. Xung quanh diềm mái của
ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái
gắn nhiều con giống bằng đất nung.
- Khắp chùa hầu
như chỗ nào có gỗ là có chạm trổ những hình tượng trang trí quen
thuộc của dân tộc ta: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng,
phượng, hổ phù? rất tinh xảo.
- Du khách đến
thăm chùa Tây Phương chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp hoành tráng
của kiến trúc thì lại càng sửng sốt khi chiêm ngưỡng thế giới sinh
động của 72 pho tượng gỗ sơn son thếp vàng. Trên đất nước ta không
ở đâu có được một phòng triển lãm tuyệt vời và độc đáo như thế với
nghệ thuật điêu khắc tôn giáo nhưng lại phản ánh những đặc điểm
dân tộc của con người Việt Nam. 72 pho tượng gỗ của chùa Tây
Phương là 72 công trình nghệ thuật đích thực, mỗi pho tượng biểu
hiện không chỉ cuộc đời, tính cách mà cả thế giới tâm linh của các
vị Phật, Bồ-tát và La-hán?
- Hệ thống tượng
ở chùa Tây Phương gồm:
- 1- Bộ tượng Tam
Thế với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là
Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa
thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể.
- 2- Bộ tượng
Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Bồ-tát
Quan Âm và Bồ-tát Thế Chí.
- 3- Tượng Tuyết
Sơn miêu tả đức Phật Thích-ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày
ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh
thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân
gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm
trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
- 4- Tượng đức
Phật Di-lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương
lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự
thỏa mãn, sung sướng.
- 5- Tượng Bồ-tát
Văn-thù: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống
mặt bệ.
- 6- Tượng Bồ-tát
Phổ Hiền: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên
tấm thân phủ đầy y phục.
- 7- Tượng Bát bộ
Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và
cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các
thế võ.
- 8- Mười sáu pho
tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca,
Di-trà-ca, Ba-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn
giả, Phương Nam Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả,
La-hầu-la-đà, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa,
Chà-dạ-đa.
- Thế giới tượng
trong nội thất chùa Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều
văn nhân, nghệ sĩ . Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã
làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con
người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau
quần quại của chúng sinh. Những pho tượng sống động này phản ánh
những sự tích của nhà Phật, đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần
của những nghệ nhân đã sáng tạo ra. Tất cả những bộ phận trên cơ
thể đều mang dấu vết của nỗi đau trần thế: mắt giương, mày nhíu
xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, bàn tay cân vặn, đôi
tai rộng dài ngang gối nghe đủ chuyện buồn vui của đời người. Tất
cả các giác quan của con người như đều căng lên trong từng thớ gỗ:
-
Các vị ngồi đây trong lặng yên
-
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
-
Như từ vực thẳm đời nhân loại
-
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
- Từ những biểu
hiện sinh động đó của nỗi đau đời thương người, nhà thơ rút ra một
nét đặc trưng chung của các vị: niềm băn khoăn, day dứt trước lẽ
tử sinh, ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Câu hỏi đè nặng tâm hồn
các vị không tìm lấy sự giải thoát cho riêng mình mà tìm sự giải
thoát cho cả chúng sinh.
-
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
-
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
-
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
-
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
- Câu hỏi đó
không chỉ ám ảnh những con người sống trong buổi hoàng hôn của một
thế kỷ chìm trong đau thương, mà vẫn còn là nỗi băn khoăn day dứt
khôn nguôi của con người trên con đường đến Chân - Thiện - Mỹ.
--o0o--
|
|