|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
VÀI LỜI TRƯỚC CHÍNH VĂN
-
-
TUỆ NHẬT giảng đường
đã từng tổ chức pháp hội Dược Sư, nay lại tổ chức pháp hội giảng
kinh. Pháp hội Dược Sư trọng ở hành, pháp hội giảng kinh trọng ở
giải. Có thể nói coi trọng cả hành và giải.Pháp hội Dược Sư
trọng ở hành lấy tự lợi làm chánh, pháp hội giảng kinh trọng
giải, lấy lợi tha làm đầu. Đây là biểu hiện của tinh thần TỰ
LỢI,LỢI THA.
-
Chư vị hẳn đã biết,
thế giới ngày nay có nhiều biến động. Trước tình hình đó, những
Phật tử chúng ta phải phát đại tâm Bồ Đề. Không chỉ vì Đạo Phật
suy vi mà phải phát tâm Bồ Đề, mà chính là phải phát tâm Bồ Đề
để cứu khổ nhân lọai. Vì lẽ đó, là một tín đồ Phật giáo, việc
phát tâm Bồ Đề là việc không thể trì hõan. Những đệ tử của Phật
đang sống trong trời đất tự do, nếu không phát tâm Bồ Đề thì
tiền đồ của đạo Phật sẽ không thể nào tưởng tượng được.
-
Tôi trở về tổ quốc
lần này, được pháp sư Ấn Hải mời tới đây thuyết giảng Phật pháp
với chơ vị mấy ngày. Sau nhiều lần bàn bạc, rốt cuộc tôi đã
quyết định chọn giảng bài văn Khuyến phát tâm Bồ Đề của đại sư
Tịnh Am. Nghe đề mục nay, chư vị có thể hiểu ngay rằng, điều sẽ
giảng lần này không phải là kinh của đức Phật nó ra, cũng không
phải là luận điều của các bậc Thanh Văn hoặc Bồ Tát, mà chỉ là
một bài văn ngắn, hơn nữa lại là tác phẩm do bậc hiền triết thời
xưa Trung Quốc sọan ra. Những người đã quen nghe kinh có thể sẽ
không được thỏa mãn về điều này. Tuy vậy, tôi xin thưa rằng bài
văn Khuyến phát tâm Bồ Đề tuy là của bậc cổ đức Trung Hoa, nhưng
nội dung mỗi câu, mỗi chữ của nó đều bắt nguồn từ thánh giáo của
Như Lai, đặc biệt là về nhân duyên phát tâm Bồ Đề, chỉ ra hết
sức rỏ rang tường tận. Vì lẽ đó, chúng ta nhất thiết không thể
vì nó là bài văn của một vị cổ đức Trung Hoa mà bỏ qua, thậm chí
xem nhẹ nội dung của nó, đây là điều tôi phải thưa trước với chư
vị.
-
Phát tâm Bồ Đề là cái
gốc của việc tu học Phật pháp. Ở những nơi lưu hành Phật pháp
Đại thừa, nhất là ở Trung Hoa, nhừng người học Phật, ai ai cũng
đều biết câu “Phát tâm Bồ Đề”. Hơn nữa câu nói phát tâm Bồ Đề
này, hầu như đã thành câu nói đầu lưỡi của đệ tử Phật, thường
xuyên nói ra nơi miệng. Còn như Bồ Đề là gì? Tâm Bồ Đề là gì?
Làm thế nào để phát tâm Bồ Đề? E rằng nhiều người chưa thật hiểu
lắm. Nghe giảng bài vă Khuyên phát tâm Bồ Đề này ròi, tôi tin
rằng sẽ hiểu rõ chính xác.
-
Phát tâm Bồ Đề quyết
không phải là việc bình thường mà là cực kỳ hiếm có rất khó đạt
được. Một hành giả Phật pháp, nếu đã thực sự phát tâm Bồ Đề thì
địa vị của người đó trong Phật pháp sẽ rất cao cả, ngay cả công
đức mà người đó có được cũng sẽ rất là rộng lớn. Bởi vì ngừoi đã
phát tâm Bồ Đề, ngay lúc đó đã có thể được tôn xưng là Bồ Tát.Bồ
Tát sở dĩ trở thành Bồ Tát chính là ở chỗ đã phát tâm Bồ Đề.
Người đã phát tâm Bồ Đề, tuy hã còn là một phàm phu nhưng đã
không còn là phàm phu bình thường nữa, mà đã trở thành một vị
phàm phu Bồ Tát rồi. Có điều là, việc này sinh ra tâm Bồ Đề cố
nhiên là cực kỳ khó, nhưng lại rất dễ thối chuyển. Một người đã
phát tâm Bồ Đề, nếu không chịu được những gay go phức tạp, mà
một khi đã để mất đi cái tâm Bồ Đề, thì cái tư cách Bồ Tát của
người đó sẽ vì vậy mà mất theo. Vì lẽ đó, là Bồ Tát hay không
phải là Bồ Tát, mấu chốt quan trọng nhất không ở đâu khác, mà
hòan tòan quyết định ở chỗ đẫ phát tâm Bồ Đề chưa? Có thể vĩnh
hằng giữ lấy, không để mất cái tâm Bồ Đề ấy hay không?
-
-
I-SỰ TÔN QUÝ ĐẶC BIỆT
CỦA TÂM BỒ ĐỀ VÀ CÔNG ĐỨC CỦA NÓ.
-
-
Trước hết xin nói về
sự tôn quý đặc biệt của tâm Bồ Đề: Muốn nói đến sự tôn quý của
tâm Bồ Đề phải dùng so sánh hoặ thí dụ mới rõ ra được. Những câu
chữ chính thức nói về sự tôn quý của việc phát tâm Bồ Đề có rất
nhiều, rất nhiều trong kinh điển Đại thừa của đức Phật Đà. Ở đây
chỉ xin cử ra mấy điều đơn giản.
-
Trong kinh nêu ví dụ:
Có một Đại Long Vương trên đầu đội cái vương miện Như ý Diệu Bảo
lớn. Vì cái vương miện đó mà mọi lòai cừu địch đều không dám xâm
phạm Đại Long vương đó, càng không phải nói là điều dám tỏ ý dọa
nạt. Ví dụ đó muốn nói rằng: một vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ Đề đội
trên đầu một cái vương miện Diệu bao tâm Bồ Đề và tâm Từ Bi, vì
cái vương miện đó mà mọi lọai hữu hình trong ác thú( ác thú còn
gọi là ác đạo, chỉ tam đồ: địa ngục, quỉ đói và súc sanh- N D)
đều không dám xâm phạm vị Bồ Tát đó. Ngay cả các lọai thiên ma,
ngọai đạo muốn xâm phạm vị Bồ Tát cũng đành chịu bất lực. Phát
tâm Bồ Đề tôn quý như thế nào từ đây có thể rõ.
-
Trong kinh lại nêu ví
dụ: Vật báu của người đời cho là quý gía nhất, không gì hơn ngọc
kim cương. Một viên kim cương hòan chỉnh không sức mẻ, không tỳ
vết gì, cố nhiên là có gía trị bằng cả mấy tòa thành, không thể
tính đếm hết được. Ngay khi viên kim cương đó vỡ ra, không còn
hòan chỉnh nữa, nó vẫn có gía trị hơn hẳn mọi lọai châu báu
khác. Mọi thứ châu báu khác đều không thể quý báu và có gía trị
như nó được. Không những thế, cái tên gọi kim cương cũng không
vì sự tàn khuyết không trọn vẹn của nó mà mất đi, kim cương vẫn
là kim cương. Đem những mảnh kim cương vỡ đó đi cứu giúp vô số
người nghèo đói thiếu thốn, nó vẫn có gía trị cứu tế.
-
Đây là lấy kim cương
để ví tâm Bồ Đề, lấy viên kim cương hòan chỉnh không khuyết tật
để ví tâm Bồ Đề quảng đại viên mãn. Vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ Đề
quảng đại viên mãn, cố nhiên là cao cả nhất, vĩ đại nhất trong
mọi giới chúng sanh.Ngay cả một hành giả Phật pháp chỉ có phần
ít tâm Bồ Đề. Thì công đức, trang nghiêm của hành gỉa đó cũng đã
vượt xa công đức , trang nghiêm của mọi Thanh văn, mọi Duyên
giác. Đồng thời cũng không vì chỉ có phần ít tâm Bô Đề mà mất đi
cái tên gọi Bồ Tát. Hơn nữa vị Bồ Tát chỉ có ít phần tâm Bồ Đề
đó cũng có thể đi cứu giúp những chúng sinhbần cùng thiếu thánh
tài Phật pháp, khiến cho những chúng sinh không có thánh tài
Phật pháp đó nhờ sự hóa độ của Bồ Tát mà có được thánh tài Phật
pháp, dần dần bước lên con đường giải thóat của Phật giáo,cuối
cùng thân tâm đều đạt được sự giải thóat tự tại. Giá trị tôn quý
của tâm Bồ Đề cũng được chứng minh qua những ví dụ này.
-
Trong kinh lại nêu
thí dụ: Có một người xách một ngọn đèn đi vào buồng tối. Cái hắc
ám trong buồng tối đó không phải mới có một hai năm nay mà đã
dồn nén tích tụ từ mấy trăm ngàn năm. Thế mà, khi xách ngọn đèn
vào, ánh sang từ ngọn đèn tỏa ra lập tức xua tan mọi hắc ám. Nên
hiểu người xách đèn đó là vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ Đề, còn ngọn
đèn là bó đuốc Đại quang mínhoi sang mọi tâm trí mà Bồ Tát cầm,
hắc ám trong buồng tối là hắc ám vô minh trong lòng chúng sinh.
Một vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ Đề cầm ngọn đuốc Đại quang minh soi
sang mọi tâm trí, đi vào cái buồng tối của tâm ý chúng sinh, làm
cho mọi phiền não chướng, mọi nghiệp chướng cho đến mọi hắc ám
vô minh tích tụ từ trăm ngàn kiếp nay tất cả tiêu trừ sạch sành
sanh. Từ đay có thể hiểu được việc phát tâm Bồ Đề là quý giá đến
mức độ nào trong việc tu học Phật pháp.
-
Căn cứ vào Phật pháp
mà nói, một người trên thế gian, bất luận làm việc tốt gì, ắt
hẳn sẽ coa công đức. Phát tâm Bồ Đề cũng sẽ được công đức tương
ứng. Công đức do phát tâm Bồ Đề mà có được sẽ quảng đại vô cùng,
thù thắng trang nghiêm không gì so sánh được. Rốt cuộc, quảng
đại thù thắng đến như thế nào, chỉ có thể làm sang tỏ được qua
sự so sánh công đức. Ví dụ như sông Hằng của Ấn Độ, sông đó có
rất nhiều, rất nhiều cát. Gỉa sử một hạt cát là một thế giới
Phật, số thế giới Pật nhiều như số cát sông Hằng. Gỉa sử có
người chất đầy đồ thất bảo khắp cả bấy nhiêu thế giới Phật để
cúng dường Phật Thế Tôn, các vị có thể tưởng tượng rằng công đức
mà người có được là to lớn đến mức không thể nào tả hết.
-
Nhưng Phật cho chúng
ta biết rằng, nếu có một người khác, có lòng khẩn thiết chí
thành chắp tay lại, niệm phát tâm A nậu đa la Tam diểu Tam Bồ
Đề, thì công đức của người ấy sẽ vượt rất xa công đức của người
đã chứa đầ thất bảo trong hết thảy thế giới Phật để cúng dường
chư Phật. Từ đây chúng ta có thể hiểu được công đức phát tâm Bồ
Đề rộng lớn đặc biệt như thế nào.
-
Trong kinh vì sao phả
nói rõ sự tôn quý và công đức đặc biệt rộng lớn của việc phát
tâm Bồ Đề? Nên biết rằng chư Phật mười phương, bất luận là Phật
đã thành ngày xưa, hay hiện nay đang thành Phật, tất cả đều là
nhờ phát tâm Bồ Đề. Nhờ phát tâm Bồ Đề. Mà được thành Phật. Thế
thì tôn quý và công đức đặc biệt rộng lớn của của việc phát tâm
Bồ Đề không phải nói cũng đủ rõ.
-
Các vị có thể tự hỏi:
Mục đích cuối cùng của việc học Phật là gì? Phải chăng hy vọng
sau này mình sẽ thành Phật? nếu đúng như vậy thì phát tâm Bồ Đề.
Nếu không phát tâm Bồ Đề mà muốn thành Phật thì tuyệt đối không
thể được. Tiếp theo, hãy xin tự hỏi: Phát tâm Bồ Đề là để thành
Phật, thế thì sao nhất định phải thành Phật? Thành Phật có nhiều
tướng hảo trang nghiêm, viên mãn mọi công đức. Nhưng đây chưa
phải là mục đích chủ yếu. Mục đích chân chính nhất của việc
thành Phật vẫn là để hóa độ chúng sanh. Như kinh đã nói:”Để lợi
chúng sinh, nguyên thành Phật”. Trong Kinh Vô Tận Ý, đức Pật dạy
chúng ta:” Nếu không vì hóa độ chúng sinh, ta không phát tâm Bồ
Đề này”, cho nên phát tâm Bồ Đề không chỉ là để hy vọng sau này
mình sẽ thành Phật, mà quan trọng hơn vẫn là ngay bây giờ có thể
hóa độ chúng sinh, thâm nhập xã hội, tiếp cận nhân quần, tùy
phận tùy sứ c mở lối cho chúng sinh ra khỏi đường mê. Nói theo
cách nói thông thường: Phát tâm Bồ Đề có hai mục tiêu: Hướng
lên, thành Phật là mục tiêu của chúng ta; hướng xuống, hóa độ
chúng sinh là mục tiêu của chúng ta. Cho nên nói:” Trên cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sinh” chính là ý này.
-
-
II- PHÁT TÂM BỒ ĐỀ,
BẤT NHỊ PHÁP MÔN ĐỂ VÀO ĐẠO ĐẠI THỪA
-
-
Phật pháp có sự sai
biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Đó là đìeu ai cũng biết, không
cần phẩi nói. Vào Tiểu Thừa có đường vào Tiểu Thừa, vào Đại Thừa
có đường vào Đại Thừa. Con đường duy nhất để vào Tiểu Thừa là
phải phát tâm yếm ly, không phát tâm yếm ly, tuyệt đối không thể
bước lên con đường giải thóat của Thanh Văn. Còn bất nhị pháp
môn vào Đại Thừa là phải phát tâm Bồ Đề mà chúng ta đang nói
đây. Nếu không phát tâm Bồ Đề tất nhiên không thể bước lên con
đường Bồ Đề của Bồ Tát. Và tâm Bồ Đề một khi đã nảy sinh trong
thân tâm, thì mặc dù chưa phát sinh công đức khác, cũng tức là
đã bước vào cửa đại Thừa rồi. Nhưng cũng cần phải nói, đã phát
tâm Bồ Đề mà lại để thối chuyển, thì trong Phật pháp, cho dù đã
có đủ các lọai công đức thông hiểu về tính không, vẫn cứ rơi
xuống các hạng Thanh Văn địa, mất tư cách làm hành giả Đại Thừa.
Vì vậy, đã vào cửa Đại Thừa hay chưa, hòan tòan quyết định bởi
việc đã phát tâm Bồ Đề hay chưa.
-
Về việc này, trong
Kinh Hoa Nghiêm đức Phạt đã từng nói:” Tâm Bồ Đề là hạt giống
của hết thảy các Phật pháp”. Hạt giống là chỉ cái nhân. Trong
thế gian, hạt giống gì thì kết quả ấy. Hạt giống có đủ lọai khác
nhau, như giống lúa mạch, giống ngũ cốc, giống lòai đậu v..v…là
bất cộng nhân (nhân không chung riêng biệt) của từng lọai riêng
biệt khác nhau. Vì bất luận hợp với duyên gì, hạt giống lúa
thường cuối cùng không thể nào thành ra nhân của giống lúa mì,
hạt giống lúa mì không thể thành ra nhân của giống lúa thường,
Nhưng đất, nước, không khí, nhiệt độ, phân bón v.v… thì lại là
cộng nhân (nhân chung) của tất cả, vì chúng hợp với giống thóc
sẽ thành ra nhân của mầm cây lúa, hợp với giống lúa mì sẽ thành
ra nhân của mầm cây lúa mì. Chúng không chọn riêng biệt đối
tượng gì, hợp với hạt giống nào thì giúp cho sự sinh trưởng của
giống cây ấy. Nên hiểu rằng,cái tâm Bồ Đề vô thượng nói ở đây là
bất cộng nhân trong mầm cây Phật, sẽ thành ra nhân tố chủ yếu
của Phật cũng như hạt giống riêng biệt khác nhau của các giống
lúa thường, lúa mì v.v…
-
Bảo tính luận nói:
Tín giải Đại Thừa là hạt giống, Tuệ là mẹ sinh ra mọi Phật
Pháp”. Hai câu này có nghĩa là: Tâm Bồ Đề do tin hiểu Đại Thừa
mà phát ra cũng như hạt giống làm cha, trí tuệ ưu việt thông đạt
các pháp vô ngã, cũng như bà mẹ hiền từ. Cha là hạt giống, nếu
như thuộc về Hán tộc, thì con sinh ra, tất nhiên cũng thuộc về
Hán tộc, tuyệt đối không thể sinh ra con là người Tạng hoặc
người Mông. Cho nên, cha là cái nhân quyết định con thuộc giống
nào, còn như mẹ bất luận là người Tạng hay người Mông, nếu như
kết hợp với cha là người Hán, thì sẽ sinh ra con thuộc giống
người hán; nếu kết hợp với cha là người Mông sẽ đẻ ra con thuộc
giống người Mông. Do đó, mẹ là cộng nhân sinh con. Từ đay có thể
hiểu rằng: Trí tuệ Bát nhã tuệ vô ngã là mẹ chung của thánh giả
Tam Thừa – Chư Phật cố nhiên đều dựa vào Bát nhã ba la mật,
Thanh văn, Duyên giác cũng dựa vào Bát nhã ba la mật. Như Tán
tuụe độ của Long Mãnh Bồ Tát nói: “ Chư Phật, Bích Chi Phật,
tịnh chư Thanh văn nhân, giải thóat duy y tuệ, quyết định vô hữu
dư”. Nghĩa là: Chư Phật, cho đến các Thanh văn, đều chỉ dựa vào
tuệ mà giải thóat, không có gì khác ngòai cái đó. Vì vậy, chỉ
dựa vào trí tuệ Bát nhã chứng chư pháp không tính thì không thể
phân biệt Đại Thừa, Tiểu Thừa được, phải lấy tâm Bồ Đề và hạnh
quảng đại thì mới làm sang tỏ được Đại Thừa khác với Tiểu Thừa.
Như vậy, Tuệ Bát Nhã chứng chư pháp không tính còn chưa phải là
con đường riêng của Đại Thừa, các đạo phẩm khác ngòai Tuệ Bát
Nhã ra không hẳn không còn phải nói nữa. Do vậy, naêu muốn vào
cửa Đại Thừa, không truyền dạy tâm Bồ Đề là không được. Ngòai
ra, không có con đường nào khác để vào Đại Thừa.
-
Lại lấy ví dụ để tổng
kết: Như việc sinh con đẻ cái ở thế gian, phải có đủ hai thân
phụ mẫu; không cha, cố nhiên không thể sinh, không mẹ càng khỏi
phải nói. Đạo chi viên mãn của Phật pháp Đại Thừa thì phải coi
phương tiện là cha, trí tuệ là mẹ. Cha phương tiện là gì? Là
phát tâm Bồ Đề. Mẹ trí tuệ là gì? Là tuệ chứng tính không. Một
hành giả Phật pháp, nếu như tự nhận là Đại Thừa, thì phải phát
tâm Bồ Đề. Không có ai không phát tâm Bồ Đề mà được coi là Đại
Thừa cả. Khi nào tâm Bồ Đề phát sinh trong thân tâm ta thì khi
ấy ta vững vàng trở thành hành gỉa Đại Thừa. Người tu học Phật
pháp ở nước ta vẫn tự nhận là Đại Thừa, nhưng đã phát tâm Bồ Đề
hay chưa, còn phải chờ tự hỏi mình.
-
-
III- NÓI SƠ QUA VỀ ĐỀ
MỤC BÀI VĂN NÀY
-
-
Nói Tam Tạng trong
Phật pháp, thì Kinh có đề Kinh, Luật có đề Luật, Luận có đề
Luận. Các bậc đại thiện tri thức hoăng dương Phật páp, bất luận
nói về Kinh nào hay Luận nào, trước hết cũng nói về đề Kinh, đề
Luận ấy, hoặc sơ qua hoặc tỉ mỉ, vì đề nục của Kinh, Luận là con
mắt của tòan bộ Kinh, Luận. Có nhận thức đại thể vêđề mục thì
cũng nắm được đại cương của nội dung, Bài văn đem ra thuyết
giảng hôm nay tuy chỉ là một bài văn ngắn, nhưng vă cũng có đề
mục của văn, cần phải nói rỏ. Hiểu rỏ được đề văn thì cũng có
thể hiểu được đại ý của bài văn. Giải thích đề mục Kinh Luận,
chúng ta thường phân biệt thông đề và biệt đề. Bài văn này cũng
có thông đề , biệt đề. Chữ “văn” là thông đề, nghĩa là đề chung
của các bài văn khác. Bài này gọi là “văn”, bài văn khác cũng
gọi là “văn” như “Văn Tây phương phát nguyện” (Tây Phương phát
nguyện văn),”Văn giới sát phóng sinh” ( Giới sát phóng sinh
văn), tất cả có cái đề mục chung là “văn” Năm chữ “ Khuyết phát
Bồ Đề tâm” là biệt đề, chỉ rõ chỉ có bài này có tên gọi như vậy,
không thể chung cho các bài khác. Gọi là “biệt đề” là như vậy.
Chữ “văn” là thông đề, ở Trung Quốc là chữ “văn” trong từ ‘văn
chương”, còn trong tiếng Phạn ở Ấn Độ có câu “danh cú văn thân”.
Nhưng chữ văn trong “danh cú văn” khác hẳn với chữ “văn” ở nước
ta là gom chữ thành tên,gom tên thành câu. Gom câu thành bài thì
mới thành “bài văn” hoặc như hiện nay góp chữ thành bài gọi là
“văn” trong “bài văn”. Còn chữ “văn” trong “danh cú văn” tiếng
Phạn là chỉ chữ cái. Nhiều chữ cái ghép thành từ, nhiều từ ghép
thành câu, cho nên chữ ‘văn” trong “danh cú văn” là đơn vị cơ
bản cấu thành từ, thành câu, khác hẳn nghiã chữ “văn” trong “bài
văn”. Có người lấy chữ “văn” trong “danh cú văn” để giải thích
chữ “văn” trong đề mục bài này, tôi cho là không thỏa đáng, cho
nên phải điểm sơ qua.
-
Dưới đây, điều cần
phải giảng là biệt đề của bài văn này. Trong biệt đề trước hết
hãy nói bốn chữ “phát tâm Bồ Đề”, có thể chia thành ba lớp:
-
1- BỒ ĐỀ: Là tiếng Ấn
Độ, dịch ra tiếng Trung Quốc thì có hai cách, cách dịch cũ và
cách dịch mới. Cách dịch cũ trước đời Đường là “Đạo”, dịch mới
sau đời Đường là “Giác”. Nếu so sánh ý nghĩa thì: nói về những
diệu lý do chư Phật thánh giả thể hội được và những trí đức đã
thành tựu được mà dịch Bồ Đề là “Đạo”thì không có gì là không
được. Nhưng cách dịch mới là “Giác” thì xác đáng hơn. Chữ “Giác”
và chữ “Ngộ” trong “Giác ngộ” là gần nghĩa nhau, “giác” tức là
“ngộ”, “ngộ” tức là “giác”, nhưng thường ghép với nhau mà thành
ra “Giác ngộ”. Chữ “Giác” nghĩa là Bồ Đề khác nghĩa với chữ
“Giác” trong “cảm giác”, “tri giác”, “ố giác” thường gặp. Như
trong câu thường nói:”giác kim thị, nhi tạc phi”,(biết ra rằng
nay đúng mà trước đây sai) thì chữ “Giác” cũng có nghia là “biết
ra”, nhưng so với chữ “Giác” dịch nghĩa chữ Bồ Đề thì vẫn còn
một khỏang cách. Căn cứ vào những điều được chỉ dẫn trong kinh
Phật, thì chữ “Giác” nghã là Bồ Đề “thuần chính giác”, trái
nghĩa với mê hoặc, là “thanh tịnh giác”, khác với mê hoặc, vì
“Giác” sỡ dĩ gọi là “Giác” vốn là đối lập với mê hoặc. Người
phàm đối với sự vật này kia không hiểu được chính xác, không thể
gọi là “Giác”. Ngay cả trong trường hợp tưởng mình đã hiểu rồi,
nhưng cái “hiểu” đó đã thật “thuần chính” chưa thì vẫn còn là
vấn đề lớn. Vì tất cả những sự “hiểu” thông thường đó , phần lớn
đều còn lẫn thành phần ô trọc trong đó mà chưa “thanh tịnh”. Cho
nên chữ “Giác” nghĩa là Bồ Đề chân chính là phải “thuần
chính”,”thanh tịnh”, không lẫn một mảy may vẩn đục hay mê hoặc
trong đó, nếu không thì chưa đúng nghĩa “Giác” của chữ Bồ Đề.
Trên đây là giải thích giản lược, nghĩa của chữ “Bồ Đề”.
-
Tiếp theo điều cấn
nói là “lọai biệt của Bồ Đề. Nói là lọai biệt, chứng tỏ rằng
không phải chỉ có một lọai “Bồ Đề. Bồ Đề đã có nghĩa là giác
ngộ, đương nhiên là không còn mảy may mê hoặc nào nữa. Do đó
“giác ngộ” và “mê hoặc là trái hẳn nghĩa nhau; khi đã hiện diện
sự giác ngộ thì mê hoặc đã tiêu tan hết rồi, hai cái đó không
thể cùng song song tồn tại, cái lẽ của nó cũng như vậy.Quang
minh xuất hiện thì hắc ám tiêu tan, trái lại hắc ám bao trùm thì
quang minh biến mất. Lại như bạo ác và chính nghã không thể cùng
song song tồn tại, khi chính nghĩa ngững cao đầu dậy thì bạo ác
bị xéo nát. Chữ “Giác” của Bồ Đề cùng với “bất giác” của mê hoặc
cùng cái đạo lý như vậy. Phải đật đến trình độ như thế nào thì
mới gọi đượclà “Giác ngộ? Phải đến đến được cái mức không còn mê
hoặc, thì mới nói là Bồ Đề. Ở địa vị phàm phu, do còn có mê hoặc
chưa thánh tựu được Bồ Đề. Chỉ có những thánh nhân xuất thế, vì
đã dứt được mọi mê hoặc, nên đã thành tựu được giác ngộ, mới có
thể nói là đạt được Bồ Đề. Cùng với thánh nhân xuất thế, nhưng
về trình độ khác nhau chia làm tam thừa khác nhau. Cái mà các vị
Thanh văn thành tựu được là Bồ Đề Thanh văn, cái mà các vị Duyên
giác thành tựu được là Bồ Đề Duyên giác, cái các bậc Phật Đà Vô
thượng thành tựu được gọi là Bồ Đề vô thượng. Nói về ý nghĩa của
giác ngộ, tuy rằng cùng là giác ngộ, nhưng tùy theo mức độ sâu
nông khác nhau mà chia thành ba lọai Bồ Đề, mà Bồ Đề Vô Thượng
là cứu cánh nhất, viên mãn nhất, cũng là cái Bồ Đề mà người phát
tâm Bồ Đề muốn chứng quả.
-
Bồ Đề không chỉ có
danh nghĩa của nó, mà lại còn có tự thể của nó. Cái gì là tự thể
của Bồ Đề? Đó là điều chúng ta bàn tiếp dưới đây.
-
Phật pháp có sự phân
biệt Tam thừa cộng giáo và Đại Thừa bất cộng giáo: Tự thể của Bồ
Đề từ Tam thừa cộng giáo là chỉ tuệ thanh tịnh vô lậu xuất thế.
Tuệ này không phải cái gì khác, mà tức là Tuệ tâm sở trong ngũ
biệt cảnh, chỉ có biệt cảnh tuệ thông với lậu và vô lậu, mà đây
là chuyên chỉ tuệ tâm sở vô lậu. Tự thể của Bồ Đề xuất từ Đại
thừa bất cộng giáo thì chỉ tứ trí Bồ Đề thanh tịnh. Tứ trí Bồ Đề
thường được nói đến trong duy thức học, tức là tứ trí chuyển bát
thức thành tứ trí – thành sở tác trí, diệu quan sát trí, bình
đẳng tánh trí và đại viên kính trí. Đại thừa coi tứ trí này là
tự thể của Bồ Đề. Trên lập trường đó, Bồ Đề mà thánh giả tam
thừa đạt được, vẫn chưa đủ tư cáchgọilà Bồ Đề, vì tứ trí của nó
chưa viên mãn, giác ngộcòn chưa cứu cánh, phổ biến. Như giác ngộ
mà các thánh giả Thanh văn, Duyên giác đạt được chỉ là bộ phận,
chưa thể biết khắp hết tất cả, cho nên không được gọi là Bồ Đề;
giác ngộ của các thánh gỉa Bồ Tát đạt được, phổ biến thì cố
nhiên đã phổ biến, nhưng vẫn chưa đạt đến vô thượng, cho nên
cũng không thể gọi là Bồ Đề.
-
Giác ngộ của thánh
giả tam thừa, đã đều không thể gọi là Bồ Đề, thì tại sao kinh
nói có ba lọai Bồ Đề của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát? Nên biết
rằng đây là đứng trên tướng bình đẳng của Bồ Đề mà nói, vì Bồ Đề
tức là giác ngộ, thánh giả tam thừa đều đã được giác ngộ, cho
nên có thể gọi chung là Bồ Đề. Nhưng theo ý nghĩa thù thắng thì
chỉ có vô thượng Bồ Đề mới có thể chân chính gọi là Bồ Đề. Vì
chỉ có chứng được vô thượng Bồ Đề thì mới hòan thành được tứ
trí. Khi chưa thể hòa thành viên mãn. Vì thế, gắn với ý nghĩa
thù thắng của Bồ Đề, chỉ lấy tứ trí làm thể . Diệu quan sát trí
trong tứ trí, nhị thừa có thể đạt được thành tựu từng bộ phận.
Còn như Thành sở tác trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên kính trí,
nhị thừa căn bản không thể thành tựu. Chân chính hòan thành tứ
trí Bồ Đề duy chỉ Phật và Phật mới có thể cứu cánh viên mãn. Vì
thế cho nên, chỉ có giác ngộ mà Phật Đà tối cao hòan thành tứ
trí mới chân chính gọi được là Bồ Đề. Mà vô thượng Bồ Đề này lấy
tứ trí làm thể. Giấc ngộ của nhị thừa, do đó không thể gọi là Bồ
Đề.
-
Bồ Đề là giác ngộ,
lấy Vô Lậu tuệ làm thể. Vô lậu tuệ tức là tuệ tâm sở trong biệt
cảnh, cho nên Bồ Đề cũng có tâm sở tương ứng của nó, cũng tức là
tâm sở tương ứng với tứ trí, Trên vị hữu lậu, nói đến họat động
tâm thức của người ta, cái gọi là tương ứng tâm sở: như đệ bát
thức có năm tương ứng tâm sở, đệ nhất thức có 18 tương ứng tâm
sở,đệ lục có 51 tương ứng tâm sở, năm thức trước có 34 tương ứng
tâm sở. Đến tứ trí do Bồ Đề Phật quả hòan thành là do bát thức
chuyển thành. Bát thức hữu lậu đã có tâm sở tương ứng thì tứ trí
vô lậu cũng có tâm sở tương ứng của nó. Cho nên bất luận một trí
nào trong tứ trí , cũng quyết không phải là cô đơn biệt lập. Tâm
sở tương ứng của bát thức hữu lậu có sợ khác nhau hoặc nhiều
hoặc ít. Tâm sở tương ứng của tứ trí vô lậu thì lại cũng có 21
tương ứng tâm sở, tức là ngũ biệt cảnh: dục. thắng giải, niệm,
định, tuệ; ngũ biến hành: tác ý, xúc, thụ, tưởng, tư, thêm vào
đó mười một thức tâm sở: tín, tàm, quý,vô tham, vô sân, vô si,
tinh tiến, khinh an, bất phóng dật hành xả, bất hại.
-
Tương ứng với Bồ Đề
tứ trí, không ngòai 21 tâm sở nói trên, đó là nghĩa tương ứng Bồ
Đề.
-
2- TÂM BỒ ĐỀ:
-
Ý nghĩa của Bồ Đề,
còn có nhiều điều có thể nói. Nay hãy tạm dừng ở đây, để nói về
tâm Bồ Đề. Cái tâm nói ở đây hơi khác với cái thường nói, tâm
không phải là cái cục thịt tạo thành, cũng không phải là hư vọng
phân biệt tâm thường nói mà là hy vọng, nguyện vọng tham muốn.
Phật pháp thông thường nói đến “dục” (tham muốn) đều là cái
không tốt, có ý chê trách. Nhưng nếu nói đến lòng tham muốn
thiện pháp (thiện pháp dục) thì không phải là không tốt , mà là
điều không thể thiếu được đối với người tu học Phật pháp. Nếu
không có thiện pháp dục thì sẽ không đi tìm sự giải thóat, khinh
trung cầu Vô thượng Bồ Đề. Khi đã có thiện pháp dục rồi thì sẽ
nhiệt liệt theo đuổi những mặt nói trên. Cho nên chữ tâm trong
Tâm Bồ Đề có nghĩa là hy vọng,dục cầu, cũng có nghĩa là lập chí.
Chúng ta bất luận làm việc gì cũng phải có nguyện vọng, dục cầu,
lấy nó làm động lực thì mới có thể hòan thành được việc ta muốn
làm. Việc thông thường trong thế gian mà còn như vậy, huống gì
chúng ta muốn hòan thành Vô thượng Bồ Đề, nếu không có nguyện
vọng cao cả, dục cầu nhiệt liệt thì làm sao có thể đạt được mục
đích thành Phật? Vậy tự thể này tức là dục tâm sở trong ngũ biệt
cảnh. Cái dục tâm sở này giải thích chính đáng chữ “tâm” trong
phát tâm Bồ Đề.Nhưng còn phải biết rằng, chính cái dục tâm sở
trong biệt cảnh, trên địa vị phàm phu lậu thông với tam tính:
thiện, ác, vô ký, duy cái chí nguyện dục Bồ Đề này, khi bắt đầu
khởi phát, tức là tùy thuận vô lậu pháp của thiện pháp hữu lậu.
Nên biết rằng, để cầu được Vô thượng Bồ Đề mà phát sinh nguyện
dục này, dựa trên nguyện dục này mà tiên lên theo hướng mục tiêu
muốn đạt tới, công đức pháp vô tận mà Đại thừa Phật quả đã có
đều do cái dục tâm này sinh ra. Vì vậy chữ “tâm” trong “tâm Bồ
Đề”, chúng ta không thể coi thường được.
-
3- PHÁT TÂM BỒ ĐỀ:
-
Tâm đã nói rồi, bây
giờ nói tiếp đến “phát tâm Bồ Đề”. Trung tâm của bốn chữ này là
chữ “phát”.”Phát” có nghĩa là “phát sinh”, “phát khởi”, tức là
phát sinh, phát khởi cái Bồ Đề tâm ấy. Nghĩa chữ” phát tâm” rất
rộng, như phát tâm niệm Phật, phát tâm trì chú, phát tâm tụng
kinh, phát tâm tham thiền. Đây là nói về phương tiện tu trì Phật
pháp. Nếu nói về phương diện thế tục, có thể nói phát tâm cầu
tài, phát tâm làm quan,phát tâm cầu danh, phát tâm cầu trí. Mà
phát tâm gì, ắt phải làm việc đó. Cho nên Luận nói: “Như người
tham công danh, phát tâm cầu danh, phát tâm cầu công danh, tu
hành đặng công danh, nếu tham tài bảo, phát tâm cầu tài bảo, tu
hành đặng tài bảo. Phàm người muốn cầu thiện cầu ác, đèu trước
hết phát cái tâm rồi sau thực hiện cái chí của mình. Cho nên,
người cầu Bồ Đề thì phát tâm Bồ Đề, tu hành Bồ Đề.
-
Cái tâm nguyện cầu
chứng vô thượng Bồ Đề này, làm sao mới có thể phát khởi được?
Nói kỹ, thì có thể nói từ nhiều mặt, ở đây chỉ nói sơ qua hai
lọai: Một là phát tự tính nội tại: trong lòng ta vốn đã có giác
tính Bồ Đề, nhưng khi nó bị phiền não che mất, sức mạnh của giác
quá mỏng yếu, không thể tác dụng mạnh. Như người ta khi đang có
bệnh, tinh thần vận động hẳn không thể nâng lên được.Tuy trong
trạng thái phiền não mê hoặc động lọan bất an, nhưng giác tính
Bồ Đề vẫn tồn tại, chưa vì đau mất đi. Muốn rời bỏ cái tướng
động lọan bất an đó, trừ phi chứng được Bồ Đề Phật quả thì không
chê. Khi nói có cái tâm thành Phật ấy rồi thì nên biết đây tức
là đã phát tâkm Bồ Đề tự tính nội tại. Hai là phát tự trợ ngọai
tại: có thể có người nói: nội tại đã có thể phát tâm Bồ Đề, thế
thì tại sao nay không thấy chúng sinh tự phát? Đó là vì không
được ngọai duyên tư trợ.Thế nào là sự tư trợ ngọai duyên? Tức là
thiện hữu và thánh giáo. Như nghe Đại thừa thánh giáo, dựa vào
huấn tập thường xuyên của thánh giáo ấy, thế là tự mình phát đại
tâm Bồ Đề. Đây là phát tự trợ bằng lực thánh giáo. Hoặc xem thấy
thần thông, đạo lợc của Phật, Bồ Tát, khiến cho tự mình phát đại
tâm Bồ Đề. Đây là phát tư trợ bằng lực thiện hữu.
-
Bốn chữ “phát tâm Bồ
Đề” đã lần lược giảng rồi, trước nó còn có chữ “khuyến” cũng cần
phải nói qua. Sự phát khởi tâm Bồ Đề có khi là tự phát tự động.
có thể được như vậy là tốt nhất, nhưng có người, mặc dù có tu
học Phật páp, nghe giảng Phật pháp mà vẫn không thể phát tâm Bồ
Đề. Không thể phát tâm Bồ Đề thì không thể hóa độ chúng sinh. Mà
Phật pháp thì lấy hóa độ chúng sinh làm gốc. Trong tình hình đó,
cần phải hướng dẫn, khích lệđể có thể phát tâm Bồ Đề. Vì vậy bài
này gọi là văn “Khuyên phát tâm Bồ Đề”.Nguyên nhân là căn tính
nhân lọai khác nhau, có người nếu không có sự hướng dẫn, khêu
gợi, khai thị thì căn bản không hiểu được thế nào phát tâm Bồ
Đề. Nếu đem công đức, diệu dụng, lợi ích của việc phát tâm Bồ Đề
giảng cho chúng sinhnghe, làm cho họ hiểu được tầm quan trọng
của việc phát tâm Bồ Đề thì tự nhiên họ sẽ có thể bắt đầu phát
tâm Bồ Đề.
-
Căn cứ những điều nói
trên đây, chúng ta có thể biết rằng: người tu học Phật pháp Đại
thừa chân chính, không những phải tự mình phát tâm Bồ Đề, đồng
thời cò khuyến dẫn người khác phát tâm Bồ Đề. Chỉ có người đều
phát tâm Bồ Đề, thì Phật pháp mới có thể tiếp tục hoằng dương,
chúng sinh mới có thể phổ độ! Đại Sư Tịnh Am hiểu sâu sắc điều
đó, nên người đã viết bài văn này để khuyến khích mỗi một người
tu học Phật pháp chúng ta, bất luận tăng tục, nam nữ đều phải
phát tâm Bồ Đề. Đặc biệt trong thời thế hoang lọan ngày nay,
phát tâm Bồ Đề quả là một việc cấp bách trước mắt của hành giả
Đại thừa.
-
-
IV- GIỚI THIỆU GIẢN
LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ BÀI VĂN
-
-
Kinh luận Phật giáo
được truyền dịch từ Ấn Đ, vì vậy giảng thuyết Kinh luận, tất
nhiên phải nói đến lịch sử người dịch Kinh Luận.Bài văn Khuyến
phát tâm Bồ Đề này của một Tổ sư Trung Hoa, không phải là dịch
từ Ấn Độ, do đó cũng phải giới thiệu giản lượ tiểu sử của tác
giả.
-
Tác giả bài văn, pháp
danh là Thực Hiền, tự là Tư Tề, biệt hiệu Tỉnh Am nên nói chung
người ta thường chỉ biết gọi ngài là Đại Sư Tỉnh Am. Trong dòng
Tịnh Độ ngài vẫn được suy tôn là một tổ sư. Tôi đã từng đọc hai
bộ truyện tổ sư dòng Tịnh Độ, một bộ nói ngài là Tốư đời thứ
chin. Một bộ nói ngài là Tổ sư đời thứ mười một. Vì tôi không
chuyên nghiên cứu về dòng Tịnh Độ, cũng chưa đi sâu nghiên cứu
lịch sử chư vị tổ sư dòng Tịnh Độ, nên không thể khẳng định ngài
đúng là một trong những tổ sư Tịnh Độ.
-
Đại sư Tịnh Am người
huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô. Khi còn tại gia, ông bố là
người có học, bà mẹ họ Trương là một người đàn bà hiền tuệ. Điều
đặc biệt nhất là ngay từ khi còn nhỏ ngài đã có thói quen ăn
chay. Cha ngài mất sớm, nhưng bà mẹ của Đại sư hiểu rằng con
mình vốn có túc căn, vì vậy khi ngài lên bảy tuổi, bà mẹ bèn đưa
ngài đến am Thanh Lương huyện Thường Thục xin thu nhận ngài. Đến
15 tuổi thì chính thức thế độ, 24 tuổi thụ giới cụ túc ở chùa
Chiêu Khánh Hàng Châu bấy giờ. Đại sư thông tuệ hơn người, kinh
điển đọc qua là thuộc hết. Trong khi học chữ, không những có thể
làm thơ mà còn giỏi thư pháp. Tiếp đó nhân ở chùa Phổ Nhân có
một vị sư mất, Đại sư thống niệm vô thường, cho nên sau khi thụ
đủ luật nghi đại sư nghiêm trì tịnh giới, tinh tiến tu đạo, ngày
chỉ ăn một bữa, không đặt lưng xuống chiếu vẫn coi là thường. Về
sau Đại sư hiểu ra rằng một người xuất gia tu hành mà không giáo
lý là không được, do đó đã theo pháp sư Cử Thành nghe giảng Pháp
Hoa huyền nghĩa, theo Pháp sư Thiệu Đà học Duy thức, Lăng
nghiêm, do đó mà tinh thông cả hai Tông Tính Tướng. Mục đích của
học là để thực hành, mà không phải chỉ để nắm học vẩn trí thức.
Sau khi thông hiểu nghĩa lý, Đại sư lại đến chùa Sùng Phúc, thân
cận Hòa Thượng Linh Thịu tham cứu phép hướng thượng, chỉ qua
thời gian ba bốn tháng thì bừng giác ngộ. Linh Thịu thiền sư
thấy người đĩnh ngộ phi phàm, nên hết sức coi trọng, muốn truyền
y bát cho Ngài, nhường Ngài trụ trì chùa Sùng Phúc, nhưng Ngài
không tiếp nhận, bất đắc dĩ đành phải rời bỏ thiền sư Linh Thịu.
-
Rời chùa Sùng Phúc,
Đại sư đến chùa Chân Tịch cấm túc ở đó, giải hành cùng tiến bộ.
Ban ngày đọc Tam Tạng, ban đêm trì nệm thánh hiệu A Di Đà. Mãn
hạn cấm túc ba năm, tăng chúng mời Ngài giảng Kinh Pháp Hoa, Đại
sư thăng tòa khai diễn, lời tuôn chảy như suối phun sông cuộn,
tăng nghe giảng không ai không thụ Pháp ích sâu sắc. Thế là đại
sư bắt đầu hành hóa.
-
Sau đó, để được chiêm
ngưỡng xá lị Phật Đà, người đến chùa A Dục Vương. Nguyên nhân là
người cảm thấy không được diện kiến Như Lai là một nghiệp
chướng. Vậy là chùa A Dục Vương có thân xá lị của Phật Đà, nếu
được nhìn thấy xá lị chân thân của Phật Đà cũng không phải hổ
thẹn là một Phật tử của Phật. Thế là mùa xuân năm Kỷ hợi người
đến chùa A Dục Vương triều lễ xá lị Phật Đà. Theo truyền tụng,
xá lị Phật Đà chùa A Dục Vương hết sức linh nghiệm, màu sắc của
xá lị trong tháp tùy theo mức độ thành tín của người triều bái
mà khác nhau. Người thì thấy xá lị màu trắng, người lại thấy màu
đỏ, thậm chí có người thấy xá lị màu đen. Đại sư Tịnh Am triều
lễ xá lị, do lòng thànhcủa người nên người đã được thấy màu sắc
tốt đẹp nhất của xá lị, lại được thấy xá lị tỏa sang. Vì được sự
cảm ứng đó, Đại sưcàng phát tâm hơn.Ngày Phật nhập niết bàn15
tháng 2, người tập họp rất nhiều tăng ni cư sĩ, cử hành Pháp hội
Niết bàn, quảng tu cúng dường, bản thân người trước sau năm lần
cầm hương cúng Phật, lại định lễ hành năm đến ngày Phật nhập
Niết bàn thì diễn giải hai kinh Di Giáo và Di Đà, biểu thị tôn
chỉ tâm tức Phật.
-
Đại sư đã khởi xướng
Pháp hội Niết bàn ở chùa A Dục Vương, cùng đại chúng phát 45
nguyện và liền thấy cảm ứng thù thắng, riêng người càng cảm thấy
quý hóa hiếm có, nên mới viết bài: “Văn khuyến phát tâm Bồ Đề”
này, khích lệ tứ chúng cùng phát tâm Bồ Đề, trụ trì Như Lai
chính Pháp, hóa độ chúng sinh đau khổ phiền não. Bài văn này
viết rất sinh động, dễ cảm động lòng người. Người đương thờiđọc
bài văn này, ai cũng cả động nước mắt như mưa, nguyện cùng phát
tâm Bồ Đề, cùng hướng theo Vô thượng Bồ Đề cùng tế độ chúng sinh
đau khổ ở tam đồ.
-
Đại sư sinh vào ngày
mồng 8 tháng tư năm thứ 24 niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, tich
vào ngày 14 tháng tư năm thứ 12 niên hiệu Ung Chính, chỉ sống ở
thế gian 49 năm, tăng lạp chỉ 25 năm. Lúc sinh thời, đại sư đã
trụ trì rất nhiều chùa chíền, không chỉ hòa hợp với tăng chúng
trong chùa, mà còn đã hóa độ rất nhiều người. Người không chỉ
chuyên việc trụ trì lo liệu công việc trong chùa như nhiều tăng
ni hiện nay. Sau cùng người trụ trì chùa Phạn Thiên, đóng cửa
trong thôn HươngTrai chuyên tâm niệm Phật, dứt tuyệt mọi chuyện
thế tục, lại hạn định mỗi ngày đêm niệm Phật 10 vạn tiếng. Quả
là công phu đến đâu, thành tựu đến đấy. Ngày đức Phật thành đạo
tháng 12 năm thứ11 niên hiệu Ung Chính, Đại sư nói với tăng
chúng rằng: 10 ngày trước ta đã nhìn thấy Tây phương tam Thánh
giáng lâm trong không trung, không ngờ hôm nay ta lại thấy, có
lẽ ta sắp vãng sinh Tịnh độ rồi. Nói xong, một mặt người bàn
giao mọi việc trong chùa, một mặt vào thành cáo từ chư vị ngọai
hộ. Lúc đó có một thị giả (người giúp việc) xin Đại sư để lại
lời kệ. Đại sư liền viết kệ như sau: “Thân tại Hoa Trung Phật
hiện tiền, Phật quang lai chiếu Tử kim liên. Tâm tùy chư Phật
vãng sinh khứ, vô khứ vô lai sự uyển nhiên” ( nghĩa là: Thân
đang ở Trung Hoa thấy Phật hiện về, hào quang của Phật chiếu
rộng tòa sen vàng. Tâm theo chư Phật vãng sinh Tịnh Độ, vô khứ
vô lai sự uyển nhiên). Đọc xong bài kệ. Đại sư tắm rửa, thay
quần áo và không ăn uống gì nữa. Đúng giờ ngọ ngày 14, người
hướng về phía Tây niệm Phật rồi bình thản mà tịch. Một đời đại
đức bỗng chốc lìa bỏ thế gian, những người thân cận Đại sư xưa
nay và mọi tăng ni tín đồ ai ai cũng đau buồn. Giữa lúc mọi
người đang dau buồn thì Đại sư chợt mở mắtnói với mọi người
rằng: Các đạo hữu đừng buồn, ta đi một lát sẽ lại về. Nay có một
điều quan trọng cần nói với chư vị đạo hữu: “Sinh tử sự đại, các
tự tịnh tâm niệm Phật” (nghĩa là: việc sinh tử là việc lớn, ai
nấy hãy tịnh tâm mà niệm Phật). Đây quả thực là câu nói quan
trọng. trên lập trường Phật pháp mà nói, bất cứ việc trọng đại
nào ở thế gian đều không lớn bằng việc sinh tử. Trong thế gian
bất luận việc to việc nhỏ, việc khó việc dễ, đều có thể nhgĩ
cách giải quyết, chỉ có việc sinh tử là không thể thương lượng
được, cũng tức là việc đại sự sinh tử, không thể có người khác
đến thay thế cho ta. Bình thường nếu không tu hành đúng phép,
thì việc sinh tử không thể hiểu hết được. Phương pháp giải quyết
đại sự sinh tử, tuy nói là vô lượng vô biên, nhưng quan trọng
nhất là niệm Phật. Vì vậy khi lâm chung, Đại sư Tịnh Âm đã dặn
lại mọi người hãy tịnh tâm niệm Phật.
-
“Sa môn” là tiếng Ấn
Độ, dịch ra tiếng Trung Hoa là “cần tức”, nghĩa là như câu
thường nói “cần tu giới định tuệ, tức diệt tham, sân, si” (chăm
chỉ tu giới định tuệ để đọan trừ tham, sân, si). “Sa môn” là tên
gọi chung những người xuất gia tu Phật. Đại sư là người xuất gia
tu hành, cho nên gọi là sa môn Thực Hiền. Sa Môn Thực Hiền cuối
cùng trụ trì chùa Phạn Thiên ở Hàng Châu, chùa ở mé ngòai núi
Phượng Sơn Hàng Châu. Chùa này khởi sang tờ đời Tống, khỏang
giữa đã có một thời kỳ suy vi, đến đời Minh lại trung hưng. Chùa
Phạn Thiên lúc đầu có lẽ là Đạo tràng trọng tham thiền hoặc niệm
Phật, sau đổi thành một giảng viện ( Phạn Thiên giảng tự), trở
thành một tự viện trọng về giảng dạy Phật pháp cho các môn đồ.
-
Đại sư Thực Hiền tự
là Tư Tể, từ Pháp danh và tự hiệu này, có thể thấy rằng sư phụ
của Ngài đặt tên định hiệu cho ngài là căn cứ vào câu “Kiến hiền
tư tề, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã” (nghĩa là: thấy người
hiền thì mong cho bằng người ấy, thấy người không hiền tự mình
kiểm tra lại mình). Quả vậy, Đại sư Tịnh Am đã không phụ kỳ vọng
của sư phụ ngài, vì trong hành trạng, cả cuộc đời của người, mọi
việc người đã làm đều thực sự phù hợp với tên và hiệu của ngài,
ngài không phải là hữu danh vô thực.
--o0o--
|
|