|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
GIẢI THÍCH CHÍNH VĂN
-
B-
CHÍNH THUYẾT
-
-
Tâm Bồ Đề này là vua
trong các thiện pháp; phải có nhân duyên mới phát kh[ri được.Nay
nói nhân duyên, đại lược có mười lọai. Những gì là mười lọai?
Một là, niệm trọng ân đức Phật. Hai là, niệm ân bố mẹ; Ba là
niệm ân sư trưởng, Bốn là niệm ân thí chủ; Năm là, niệm ân chúng
sinh; Sáu là, niệm ân nỗi khổ sinh tử; Bảy là tôn trọng tính
linh của mình; Tám là sám hối nghiệp chướng; chin là vãn sinh
tịnh độ; Mười la, để niệm chsnh pháp có thể trụ lâu.
-
Lời dẫn của bài văn
đã giảng hết, bây giờ nói nội dung chính của bài văn. Cái gì gọi
là nội dung chính, tức là nói rõ nhân duyên phát tâm Bồ Đề, cùg
tức là nói cho ta biết lấy nhân duyên gì để phát tâm Bồ Đề. Theo
Phật pháp, bất luận làm gì cũng đều có nhân duyên của nó. Có
nhân duyên rồi, sau đó mới có thể làm được việc gì ta muốn làm.
Phát tâm Bồ Đề, tất nhiên cũng không thể thiếu nhân duyên. Nếu
không có nhân duyên, không thể phát tâm Bồ Đề.
-
Trước khi nói nhân
duyên phát tâm, hãy ca ngợi sự thù thắng của tâm Bồ Đề. Hai câu
đầu là ca ngợi tâm Bồ Đề, hai câu tiếp là nói tâm Bồ Đề phải có
nhân duyên mới phát được.
-
“Thử Bồ Đề tâm, chư
thiện trung vương” (tâm Bồ Đề này là vua của các thiện pháp).
Vua có nghĩa là tự do, tự tại. Như vua đời xưa, có thể tự do, tự
tại thống trị tất thảy trong nước, không có ai có quyền lực hơn
vua, cho nên gọi là vua. Bồ Đề trong mọi thiện pháp, quả thật có
nghĩa là tự do, tự tại, không một thiện pháp nào vượt được nó,
cho nên gọi là vua. Sở dĩ gọi là vua là nói cái ý nghĩa đặc biệt
thù thắng của nó. Trong mọi thiện pháp thế gian, phải coi tâm Bồ
Đề là thù thắng nhất, cao siêu nhất. Chữ thiện, khỏi phải nói,
là bao trùm rất nhiềuthiện pháp, nhưng trên đại thể, có thể phân
chia thành thiện pháp thế gian và thiện pháp xuất thế gian.Thiện
pháp tuy là rất nhiều, nhưng sau khi ta phát tâm Bồ Đề, mọi
thiện pháp thảy đều chịu sự thống soái của tâm Bồ Đề này. Nói
cách khác, tâm Bồ Đề có thể lãnh đạo mọi thiện pháp, còn mọi
thiện pháp đều không thể lãnh đạo tâm Bồ Đề. Đây là ý nghĩa của
câu nói: “Tâm Bồ Đề là vua của các thiện pháp”.
-
Trong kinh điển của
Đại thừa thường nói đến tâm Bồ Đề là do sự kích thích của Tâm
đại bi mà phát, do đó hai tên này có quan hệ gắn bó không thể
chia cắt được. Quan Âm đại sĩ đã từng một lần bạch với Phật Đà
rằng: một hành giả Bồ Tát, bất tất phải quảng tu mọi pháp môn,
chỉ cần tu học pháp môn Đại bi, mọi pháp môn khác đều sẽ theo
tâm Đại bi mà chuyển. Vì ta có thể có tâm Đại bi để nhìn chúng
sinh một cách bình đẳng, do sự xui khiến của tâm Đại bi, mọi
thiện pháp tự nhiên sẽ đến theo. Hãy nói về bố thí: nếu có tâm
Đại bi, mặc dù tự tâm ta rất khó khăn, nhưng vì không chống được
động lực cúa tâm Đại bi, ta sẽ hành biện pháp bố thí một cách tự
nhiên. Lại nói về trì giới: nếu có tâm Đại bi, thấy chúng đau
khổ, ta sẽ tự nhiên thủ giới không sát sinh, không trộm cướp.
Nói về nhẫn nhục cũng vậy. Nếu ta có tâm Đại bi, thì dù có
bịchúng sinh lăng nhục, hoặc chịu đủ lọai đả kích, nhưng vì
trong lòng sẳn tâm Đại bi, ta sẽ nhẫn nhục chịu đựng được sự
lăng nhục và đã kích đó. Có thể thấy, mọi thiện pháp đều theo
tâm Đại Bi mà chuyển. Nếu không có tâm Đại bi, thì dù có tu
thiện pháp, cũng sẽ chật hẹp, không rộng rãi, sẽ gián đọan mà
không vĩnh hằng; từ đây có thể hiểu, tâm Bồ Đề trong mọi thiện
pháp là người lãnh đạo có thể thống lĩnh chư thiện. Mọi thiện
pháp hết thảy đều được sự thống lĩnh của tâm Bồ Đề mà hòan thành
được, cho nên gọi là vua trong chư thiện.
-
Phải có nhân duyên
mới phát khởi được là nói về sự phát khởi tâm Bồ Đề, không thể
không có nhân duyên. Pháp không phát khởi cô lập, phải dựa vào
hòan cảnh mới sinh thành được. Đó là câu nói chúng ta thường
nghe được. Sự nảy sinh mọi sự mọi vật, tất phải có điều kiện của
chúng, lại phân biệt điều kiện chủ yếu, và điều kiện thứ yếu dựa
vào sự phối hợp của các nhân tố chủ yếu thứ yếu đó, nhiên hậu
mới nẩy sinh được. Điều kiện chủ yếu thứ yếu đó, theo Phật pháp,
tức là nhân duyên. Nhân là hạt giống Bồ Tát, nếu không có hạt
giống Bồ tát, dù có gặp ngoại duyên, cũng không thể phát tâm Bồ
đề. Vì nội tại có hạt giống Bồ Tát, cho nên một khi tiếp xúc với
ngọai duyên, lập tức phát tâm Bồ Đề. Kinh Pháp Hoa nói: “Hạt
giống Phật theo duyên mà khởi phát”. Càng thấy rõ, nhân duyên
phát tâm Bồ Đề là không thể thiếu được.
-
Nói nhân duyên phát
tâm bồ Đề thì rất nhiều, nếu nhất nhất nói ra, thì thực không
sao nói hết được. Vì thế Đại sư Tỉnh Am mới khái quát sơ lựợc
thành mười lọai: “Nay nói nhân duyên, đại lược có mười lọai”.
Trong mười lọai nhân duyên đó, năm lọai đầu là nhân duyên ngọai
tại, năm lọai sau là nhân duyên nội tại. Những lọai nào là mười?
Đấy là câu hỏi. Dưới đó liệt kê ra mười lọai nhân duyên, mà mười
lọai nhân duyên này tất nhiên là có thứ tự của chúng, không thể
có sự hổ lọan điên đảo.
-
Đệ tử Phật tu học
Phật pháp, bất luận là tại gia hay xuất gia, quan trọng nhất
không gì hơn là luôn luôn tư niệm, đức nặng ơn sâu của Phật Đà
đã mang lại cho ta và phải nghĩ cách báo đền. Cho nên “một là
niệm ơn nặng của Phật” mà phát tâm Bồ Đề được liệt vào thứ nhất.
-
Muốn báo đền ơn đức
Phật, đương nhiên phẩi vận dụng sinh mệnh của ta, mà sinh mệnh
này là do cha mẹ ta mang lại. Ân đức của cha mẹ, cũng không thẻ
không báo đền, cho nên “hai là niệm ân đức cha mẹ” mà phát tâm
Bồ Đề liệt vào thứ hai.
-
Sinh mệnh của ta do
cha mẹ cho, nhưng có được tri thức, hiểu được ít nhiều Phật pháp
là nhờ có sự dạy bảo dìu dắt của sư trưởng. Không có sự dạy bảo
dẫn dắt đó, ta sẽ không biết gì. Cho nên “ba là niệm ân đức sư
trưởng” mà phát tâm Bồ Đề được liệt làm thứ ba.
-
Với người xuất gia
học Phật mà nói, cha mẹ sinh ra ta,sư trưởng dạy bảo ta, cố
nhiên không sai. Nếu như không có sự cúng dường tài vật của thí
chủ, thì ta không thể yên tâm học Đạo, trụ trì Phật pháp, độ hóa
chúng sinh. Do đó, người xuất gia học Phật, ắt phải luôn luôntư
niệm ơn thí chủ. Cho nên “bốn là niệm ơn thí chủ” mà phát tâm Bồ
Đề được liệt vào thứ tư.
-
Giữa người với người
có quan hệ dựa vào nhau mà sinh tồn, cho nên nhân lọai thế giới
đan vào nhau thành một mạng lưới quan hệ hết sức mật thiết,
chúng sinh hình như không có quan hệ gì với ta, nhưng từ vô thủy
cho đến ngày nay, nhìn thời gian dài ấy, cũng là coa quan hệ
thân thuộc, cho nên “năm là niệm ơn chúng sinh” mà phát tâm Bồ
Đề liệt vào thứ năm.
-
Năm lọai ân đức đã
nói trên là điều mà những người tu học Phật pháp phải ghi nhớ.
Nhưng mục đĩch cuối cùng của việc tu học Phật pháp là giải thóat
nỗi khổ lớn sinh tử. Nếu không vì cái mục đích cuối cùng ầyth hà
tất phải học Phật, học Phật có ý nghĩa gì? Cho nên “sáu là niệm
nỗi khổ sinh tử” mà phát tâm Bồ Đề liệt làm thứ sáu.
-
Hiểu rõ sinh tử là
một nỗi khổ lớn, muốn giải quyết đại khổ đó, tất phải tôn trọng
tính linh của mình, cũng tức là tự tôn trọng mình. Giả sử như
một người khônt tôn trọng tính linh của mình, thì ở thế gian anh
ta sẽ tạo ra đủ lọai tội lỗi, sống bất thiện, làm sao có thể
giải thóat sinh tử được? Cho nên “bảy là tôn trọng tính linh của
mình” phát tâm Bồ Đề liệt làm thứ bảy.
-
Tôn trọng tính linh
của mình là nhằm để lìa khỏi sinh tử, mà lìa khỏi nỗi khổ sinh
tử thì phải tu hành đúng phép. Trong quá trình tu hành, muốn
tiến lên thuận lợi vô ngại, phải sám hối tiêu trừ nghiệp chướng.
Vì sự chướng là chướng ngại lớn trên đường tu hành, phải sám hối
tiêu trừ đi – Cho nên “tám là sám hối nghiệp chướng” mà phát tâm
Bồ Đề liệt làm thứ tám. Tu hành ở thế gian ác độc này, những
nguyên nhân cản trở đạo là rất nhiều, nếu muốn được hòan cảnh
thanh tịnh lý tưởng, giải thóat sinh tử một cách thuận lợi, lại
học được rất nhiều phương tiện độ sinh, như vậy chỉ có cầu vãng
sinh tịnh độ. Vì trong tịnh độ là dễ tu hành nhất. Cho nên “chín
là cầu vãng sinh tịnh độ” mà phát tâm Bồ Đề liệt vào thứ chin.
-
Trước khi vãng sinh
tịnh độ, nếu hiểu được Phật pháp, thì không những có lợi ích cho
mình, mà còan có lợi ích cho nhân lọai, thậm chí cũng có lợi ích
mọi chúng sinh trong tam giới ngũ thú. Như Lai có thể vĩnh hằng
trụ tại thế gian. Cho nên “mười là niệm chính pháp trụ lại ở thế
gian” mà phát tâm Bồ Đề liệt làm thứ mười.
-
Mười lọai nhân duyên
trên, nhìn ra như đối lập với nhau, thực ra có quan hệ mật thiết
với nhau, không cho phép chúng tat hay đổi thứ tự trước sau. Đại
sư Tỉnh Am từ trong kinh điển, rút ra mười lọai nhân duyên phát
tâm. Có thể thẫyo đức từ bi và trí tuệ sâu rộng của người.
--o0o--
|
|