|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
GIẢI THÍCH CHÍNH VĂN
-
III- BIỆT THÍCH (Giải
thích riêng biệt)
-
“Niệm
Phật trọng ân phát tâm Bồ Đề”.
-
-
1-
Niệm ân đức sâu dày của Phật mà phát tâm Bồ Đề.
-
Vì sao
niệm ân đức sâu nặng của Phật? là vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Như Lai của ta trước hết phát tâm vì chúng ta mà hành đạo Bồ
Tát; trải qua vô lượng kiếp chịu đủ mọi nỗi khổ. Khi ta tạo ra
nghiệp chướng, Phật rất thương ta, tìm mọi phương tiện dạy bảo
hóa độ ta nhưng ta ngu si không biết tín thụ. Ta sa xuống địa
ngục, Phật rất đau buồn, muốn chịu khổ thay ta , nhưng nghiệp
chướng ta quá nặng, không thể cứu vớt tar a khỏi địa ngục. Ta
đầu thay làm người, Phật dùng phương tiện, bảo ta trồng gây
thiện căn, đời đời kiếp kiếp Phật theo sát ta (để giáo hóa)
tâm người không lúc nào lìa bỏ ta.
-
Đay là
nhân duyên phát tâm Bồ Đề thứ nhất. Từ đọan văn này có thể
thấy ân đức của Đại thánh Thích Ca Mâu Ni đối với chúng sinh
trong vòng sinh tử là sâu nặng như thế nào. Một đệ tử Phật tu
học Phật pháp chân chính nếu không biết nhớ và đáp đền ơn sâu
đức nặng của đức Phật Đà mà mình tin thờ, thì không đủ tư cách
là một Phật chân chính.
-
Nhưng vì
sao phải niệm ân đức sâu nặng của Phật? câu hỏi này được trả
lời rằng: “Đức Thích Ca Như Lai là bậc phát tâm trước hết”.
Thích Ca Như Lai nói đây là chỉ Đức giáo chủ Sa Bà. Nói rộng
ra, chư Phật mười phương, vị nào cũng có ân lớn đối với chúng
ta, nhưng chúng ta hiện nay sinh ra trong Sa Bà thế giới, sử
dĩ có thể biết tu học Phật pháp , hòan tòan do thầy chúng ta
là Thích Ca Mâu Ni dạy bảo. Nhưng Đức Thích Ca Như Lai có ân
đối với chúng ta, không phải là sau khi thành Phật hai nghìn
năm trăm năm trước, rồi hóa độ chúng ta mới có ân, ngay từ khi
người phát tâm hành đạo Bồ Tát lúc đầu là đã có ơn hóa độ
chúng ta rồi.
-
Thích Ca
Như Lai là tên của Thánh như các vị vẫn thường nghe. Thích Ca
là họ, là một tộc của dân tộc Sát Đế Lợi. Lúc đầu vốn là họ Cù
Đàm, sau phân chí mới gọi là Thích Ca, có nghĩa là Năng Nhân
(có thể làm việc nhân). Việc phát tâm đầu tiên của Phật Đà
THích Ca, theo Như Lai tự giới thiệu trong kinh điển là bắt
đầu từ thời Phật Thích Ca cổ, nói theo thời gian ba đại A tăng
kỳ kiếp, là từ trước ba đại A tăng kỳ kiếp; nói theo thời gian
vô lượng A tăng kỳ kiếp, là từ trước kiếp vô lượng A tăng kỳ.
Thời đó, có đức Phật xuất thế, tên là Phật THích Ca – để phân
biệt với Phật Thích Ca mà ta tín phụng ngày nay cho nên trong
kinh gọi là Thích Ca cổ.Khi Thích Ca cổ xuất hiện ở đời, giáo
chủ Thích Ca Mâu Ni của chúng ta còn là một thợ cả làm gốm.
Thích Ca cổ quan sát bằng thiên nhãn, biết rằng nhân duyên học
Phật của người thợ cả làm gốm đã chin mùi, thế là người đem
thêm bốn vị đại đệ tử (bốn đệ tử lớn) là Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na đến nhà người thợ gốm và ngủ nhờ
một đêm. Người thợ gốm thấy Phật Đà trang nghiêm và bốn đại đệ
tử uy nghi thì hết sức vui mừng, sinh lòng cung kính tín
phụng, rrất vui vẻ cúng dường các vị. Thích Ca cổ ngay lúc đó
thuyết pháp cho người thợ gốm. Người thợ gốm nghe được Phật
pháp thì phát khởi tâm Bồ Đề, và trong lòng thầm nghĩ: “nguyện
sau này thành Phật, ta cũng như Thích Ca Như Lai”. Lúc đó bên
cạnh người thợ gốm có bốn người làm công, thếy tình cảnh ấy
cũng sinh lòng hoan hỉ, và cũng thầm cầu nguyện: nguyện sau
này khi người thợ gốm thành Phật, chúng ta làm bốn đại đệ tử.
Vì thế, khi người thợ gốm thành Phật Thích Ca, bốn người làm
công cũng thành ra bốn đại đệ tử dưới bệ người. Đó là các vị
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na. Từ đó có thể
biết rằng, nói phát tâm đầu tiên ở đây nói Phật Thích Ca phát
tâm Bồ Đề trước Thích Ca cổ.
-
Nếu theo
khai tích hiểu bản của kinh Hoa Nghiêm, thì Phật Đà sớm đã
phát tâm sẽ vì không chịu được sự đau khổ song trùng về xác
thịt và tinh thần mà dễ thóat thất tâm Bồ đề. Nhưng một Bồ Tát
chí nguyện kiên nghị không coi khổ là khổ, vẫn tinh tiến dũng
cảm đi hành nguyện độ hóa. Sở dĩ Bồ Tát độ sinh phải chịu đủ
lọai khổ, còn vì công tác độ sinh, về mặt thời gian là không
thể chọn biệt, bất luận lúc nào, có chúng sinh đáng độ hóa thì
nóng lạnh gío mưa cùng mặc vẫn phải làm sự nghiệp cứu sinh cần
làm, không thể do sợ khổ mà lùi bước. Về không gian cũng thể
chộn biệt, bất luận ở đâu, mà ở chỗ càng gian khổ thì càng
phải đến đó mà độ hóa chúng sinh đau khổ, không thể sợ khổ mà
không đi. Tóm lại, chỉ cần ta là hành giả Bồ tát, thì ta không
thể sợ khổ mà không độ hóa chúng sinh. Cho nên, trong quá
trình hành đạo Bồ tát phải chịu khổ đau vô lượng vô biên.
-
Khi hành
đạo Bồ tát ở nhân địa, Phật thấy chúng ta làm ác tạo nghiệp
thì sinh lòng thương xót carm thấy chúng sinh chúng ta quả là
đáng thương quá: Vì Phật biết rõ nhân quả không diệt, tạo ra
cái nhân ác nghiệp nhất định không tránh khổi cái quả ác báo.
Vì thế, do sự xui khiến của tâm Đại bi, không thể không vận
dụng đủ lọai phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sinh ngu
si chúng ta, mong ngăn chặn không để chúng ta tạo ra ác nghiệp
để phải chịu ác báo khôn lường. Nhưng chúng sinh cương cường
ngang ngạnh không dẽ gì giáo hóa, tuy Đức Phật mỏi miệng nhọc
lòng, trăm phương ngàn kế giáo hóa chúng ta, nhưng chúng ta
ngu si, không biết tin theo những lời răn dạy của Như Lai, cho
rằng đó là mê tín làm mê muội nhân quần – như rất nhìều nhân
vật mới chịu ảnh hưởng của thời đại, nghe lý luận của Phật
pháp, không những không chịu tiếp thu mà còn dè bỉu là truyền
bá mê tín, có người còn cho là ngăn trở sự tiến lên của thời
đại. Những người ngu tối ngoan cố ấy, không phải là ngu si
điên đảo thì còn là gì?
-
Chúng
sinh đã tạo ra ác nghiệp trên thế gian hiện thực, tất nhiên
phải gánh chịuquả báo ứng với nhân đó, tương lai ắt phải sa
vào tam ác thú như địa ngục chẳng hạn. Khi chúng ta sa vào địa
ngục chịu ác báo, Phật đau buồn, muốn chịu khổ thay ta. Như
Kinh Bát đại nhân giác nói: “Nguyện thay chúng sinh chịu vô
lượng khổ”. Đây hầu như là tâm nguyện chung của mọi hành giả
Bồ Tát. Phật trong khi hành đạo Bồ Tát ở nhân địa, tuy dựa vào
uy đức thần thông không thể lường được muốn chịu khổ thay ta,
nhưng nghiệp lực của chúng sinh cũng không thể lường hết, Phật
Đà dù đại từ đại bi muốn chịu khổ thay ta như vậy, chỉ vì
“nghiệp chướng chúng ta quá nặng”, mình gây ra nghiệp tự mình
phải chịu quả báo, không ai có thể khổ thay ta, Phật “không
thể cứu vớt” chúng tar a khỏi địa ngục. Muốn thóat khỏi địa
ngục, không chịu khổ trong địa ngục, phải chờ khi nào nghiệp
báo chịu hết. Một ngày nghiệp báo chưa hết thì còn phải chịu
khổ một ngày, còn chưa được rời địa ngục một ngày.
-
Chúng ta
chịu hết nghiệp báo, nhờ nhân duyên trì giới hành thiện kiếp
trước, lại được “đầu thai làm người”. Phật đại từ đại bi, dùng
đủ lọai “phương tiện” thiện xão, khai đạo giáo hóa chúng
ta,”bảo chúng ta gây trồng thiện căn”. Thiện căn nói ở đây là
rất rộng rãi, có thể là nhân thiên thiện căn, cũng có thể là
thiện căn giải thóat, có thể là thiện căn thành Phật. Để khiến
chúng ta gây trồng thiện căn sâu dày, sợ chúng ta có lúc quên
mất, nên Phật đã “đời đời kiếp kiếp theo sát chúng ta”, tâm
người không một giây một khắc “tạm lìa bỏ” chúng ta. Quả vậy,
Phật Đà từ khi phát tâm, đời đời kiếp kiếp lúc nào cũng ở cạnh
chúng ta, dùng mọi cách khác nhau dẫn dắt cảm hóa chúng ta, hy
vọng chúng tar a khỏi bể khổ sinh tử. Xưa nay chưa từng vì
chúng ta khó giáo hóa mà lìa bỏ không quan tâm đến chúng ta.
-
Trái
lại, chúng sinhcàng ương bướng khó dạy, thì càng có nhiều khổ
não, càng là đối tượng cần độ hóa của Bồ tát. Vì trong quan
niệm của Bồ tát, những chúng sinh như vậy càng thực sự cần
được tế độ. Giả sử vì chúng sinh ngu tối ương bướng mà xa bỏ
không giáo hóa, thì không phù hợp với tinh thần từ bi. Nên
biết một chúng sinh biết hướng lên, tạm thời chưa giáo thì
cũng chưa đến nỗi sa vào địa ngục. Một chúng sinh không biết
hướng lên mà lại đang tạo ra tội ác, ta không giáo hóa, thì
tiền đồ của chúng sinh sẽ hết sức bi thảm. Vì thế Phật, Bồ tát
đặc biệt chú ý độ hóa những chúng sinhđó sửa mình hướng tới
thiện, hướng tới giải thóat. Từ đây càng thấy rõ ân đức của
Phật Bồ tát đối với chúng ta sâu nặng đến thế nào. Trên thế
gian, cha mẹ đối với con cái cũng vậy, những đứa con thông
minh nhanh nhẹn có thể tự lập, cha mẹ cố nhiên là thương,
những đứa con ngu tối ương bướng không tiến bộ, cha mẹ càng
thương, luôn luôn để tâm săn sóc dạy bảo, mong cho chúng thành
người. Cha mẹ đối với con cái như vậy, Phật Bồ tát đối với
chúng sinh cũng vậy.
-
Khi Phật
mới xuất thế, ta còn trầm luân. Nay ta có thân người thì Phật
đã diệt độ. Tội gì mà sinh vào thời mạt pháp? Phúc gì mà sớm
xuất gia? Nghiệp chướng gì mà không được thấy Phật? May mắn gì
mà thấy xá lị Phật? Mấy câu nói đọc lên thật đau lòng nhức óc.
Nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa trong đó, ắt sẽ khóc to tuôn
lệ. Trên lập trường một đệ tử Phật đang tu học Phật pháp, nếu
được tận mắt thấy Phật Đà thì thật là phúc đức không gì hơn.
Trong kinh điển Đại Tiểu thừa, có thể thấy rõ: Khi Phật tại
thế, bao nhiêu người được giải thóat, bao nhiêu người được
chứng quả A La Hán, bao nhiêu người phát tâm quảng đại, hành
đạo Bồ tát. Vì vậy, là một đẹ tử Phật, ai cũng mong được sinh
vào thời đại đức Phật tại thế, mà không muốn sinh vào trước
thời Phật hoặc sau thời Phật. Trước Phật sau Phật là một trong
bát vạn, tu học Phật pháp không dễ dàng gì. Trong kinh Đại
thừa thường nói đến thân cận Phật, cũng tức là được cùng Phật
ở một chỗ thì viên mãn nhất. Nhưng điều bất hạnh là khi Phật
xuất hiện ở thế gian, thì chúng ta còn “trầm luân” trong tam
đò, không có cơ hội thấy Phật, nghe pháp, đến hôm nay, chúng
ta “có thân người” ( được làm người) thì “Phật đã diệt độ”,
lại không có nhân duyên thấy Phật nghe pháp. Thử nghĩ xem,
nghiệp chướng chúng ta sâu nặng biết bao? Nói thật, nếu chúng
ta sống vào thời đại hai ngàn năm trăm năm trước, khi Phật
xuất thế, chúng ta có lẽ đã được giải thóat, đâu còn trầm luân
trong sinh tử? Nên biết lực uy đức thần thông của Phật là
không thể tưởng tượng được, chỉ cần chúng ta được trông thấy
tướng hảo trang nghiêm của Phật, được nghe giọng nói vi diệu
của Phật, thì ngòai mong đợi, chúng ta sẽ được Phật cảm hóa,
theo Phật tu hành đúng pháp để chứng quả. Vì thế, Phật tử
thừờng phát nguyện sinh trước mặt Phật, phát nguyện đến mười
phương thế giới để thân cận chư Phật. Kinh A Di Đà nói: “Chúng
sinh trong nước Phật, thường vào lúc sáng sớm tất cả ai nấy ăn
mặc đẹp đẽ, cúng dường mười muôn ức Phật, mà đến giờ ăn đã về
đến bản quốc”. Điều đó cho thấy, phải thường ở trước Phật,
phải được thấy Phật nhiều.
-
Ngày nay
chúng sinh vào thời mạt pháp, không may mắn như sinh vào thời
Phật trụ thế, cũng không may mắn như sinh vào thời chính pháp
và thời tượng Pháp. Nhưng điều đó trách ai? Chỉ có thể trách
nghiệp chướng mình sâu nặng, còn biết nói gì hơn? Vì tội
chướng gì mà chúng ta “sinh vào thời mạt pháp”? Đương nhiên là
vì chúng ta chưa gây trồng được thiện căn thấy Phật, mà trái
lại đã tạo ra nhiều tội ác cho nên mới sinh vào thời mạt pháp.
Sinh vào thời mạt pháp bất luận về mặt nào cũng đều là không
hay. Không chỉ nghiệp chướng nặng, mà phúc đức cũng mỏng, trí
tuệ nông, khó khăn nhiều, muốn làm gì cũng khó có thành tựu,
tu hành thì càng chướng ngại trùng trùng. Cho nên hành giả
Phật pháp, khi nghĩ đến đây, không khỏi tự khiển trách, trách
hỏi mình vì tội chướng gì mà sinh vào thời mạt pháp? Câu hỏi
này có thể nói là một sự khiển trách mình nghiêm khắc.
-
Đúng
vậy, sinh vào thời mạt pháp là không may, nhưng nhân quần cùng
sinh vào thời đại mạt pháp, có người mê đắm trong dục lạc,
không hay biết Phật pháp là gì, càng không biết thế nào là tu
hành học Phật. Chúng ta nay không những có thể học Phật, mà
còn biết theo Phật xuất gia tu hành, có thể nói là đại hạnh
trong bất hạnh. Vì thế tự vui mừng mà nói: “sớm được xuất gia”
làm một Phật tử xuất gia hành đúng phép? Theo Phật pháp mà
nói, xuất gia không phải là dễ dàng, không có thiện căn phúc
đức sâu đày thì không có nhân duyên xuất gia. Xuất gia không
chỉ là việc đại trượng phu, mà còn là việc đại công đức. Kinh
nói: “cái lợi xuất gia, cao hơn núi Tu Di, sâu hơn biển lớn,
rộng hơn hư không”. Sở dĩ như vậy vì xuất gia mới thành Phật
được, chư Phật tam thế không có ai không nhờ bỏ nhà xuất gia
mà thành Phật được. Vì thế, hành giả Phật pháp, được xuất gia
trong Phật pháp đều nên vui mừng sâu sắc, đều nên được dự vào
số tăng luân Tam bảo mà mừng vui.
-
Sinh
trong thời mạt pháp, được dự vào hàng ngũ xuất gia, tuy là
đáng vui mừng, nhưng Phật đã diệt độ hơn hai nghìn năm trăm
năm rồi, chúng ta không được tận mắt trông thấy Đức Như Lai
thân vàng, không thể không coi là điều đáng tiếc lớn, không
thể không nói là do nghiệp chướng của ta mà đến nỗi như vậy.
-
Mình
Phật gọi là mình vàng, là theo sách Truyền đăng lục “Tây
Phương có Đức Phật, thân cao trượng sáu, màu hoàng kim”. Cho
nên Phật xuất nhân gian tuy cũng như mọi người, nhưng thân
hình Phật không những cao lớn mà thuấnắc hoàng kim. Thé là vẫn
có chỗ khác người thường. Nếu được mắt thấy Như Lai mình vàng,
khỏi phải nói, đấy là phúc đức lớn. Nay không thể tận mắt thấy
thân vàng của Như Lai, đương nhiên là do nghiệp chướng ta
nặng. Nhưng cuối cùng là “vì nghiệp chướng là gì mà ta không
được thấy Như Lai mình vàng”. Tự hỏi mình như vậy cũng là hàm
cái ý tự khiển trách mình. Chúng ta không được thấy Đức Phật
mình vàng thì đừng trách Phật không từ bi hiển hiện ra cho ta
thấy mà chỉ nên trách mình nghiệp sâu chướng nặng.
-
Đúng
vậy, không được mắt thấy Như Lai mình vàng thật là đáng tiếc.
Nhưng Phật tuy đã diệt độ hơn hai nghìn năm nay mà xá lợi của
người vẫn lưu laị nhân gian, chúng ta vẫn còn cơ hội bái lạy
xá lợi Phật Đà thì vẫn còn là may mắn. Vì vậy mừng vuinói: Hôm
nay Phật ở Niết bàn, ta may mắn sao được tự mình gặp được xá
lợi Phật? Xá lợi (hay xá lị) còn gọi Thiết lợi la, hoặc Thất
lợi la, tiếng Trung Quốc có nghĩa là kiên cố, là nói xác thịt
sinh mệnh của người sau khi chết được đem đốt bằng lửa mạnh,
cái còn lại gọi là “xá lị”, thông thường gọi là linh cốt, vì
lửa mạnh không thể đốt cháy hết, cho nên nói là kiên cố. Trong
đó có một loại “chất đặc hình tròn, long lanh, màu sắc chen
lẫn, xán lạn lạ kỳ, chỉ có những đại đức cao tăng định tuệ
trang nghiêm, thì mới có thể có được, không phải người thường
mà có được. Vì thế người học Phật đặc biệt trân quý, hơn nữa
còn coi đó là sự khảo nghiệm xem có công đức tu hành chân thực
hay không… “Kim quang minh kinh xả thân phẩm nói: “Xá lợi này
được hun xây bằng hương vô lượng giới định tuệ” có lẽ là chỉ
loại xá lợi này “xá lợi Phật Đà, vẫn nói là có hai loại: một
là sinh thân xá lợi, tức là vô lượng xá lợi đốt ra sau khi
Phật tịch diệt, hai là pháp thân xá lợi, tức là mọi kinh điển
Đại Tiểu thừa ghi lời Phật nói: “cung phùng xá lợi” (tự mình
được tận mắt thấy xá lợi) nói ở đây là chỉ sinh thân xá lợi,
vì đương thời đại sư Tỉnh Am đẫ được lễ bái xá lợi ở chùa Dục
Vương, cho nên mới nói như vậy.
-
Suy ngẫm
như vậy,xưa nay nếu không gây trồng thiện căn, làm sao có thể
được nghe Phật pháp? Không nghe Phật pháp thì đâu biết thường
chịu ơn Phật? Ân ấy đức ấy đồi núi khó bì.
-
Theo
những điều đã nói trên mà “suy ngẫm như vậy”, Giả sử trong
kiếp trước chưa từng khiến mình “gây trồng thiện căn” trong
cửa Tam Bảo, thì trong kiếp này ta làm gì có nhân duyên được
nghe chính pháp của Phật Đà. Nếu không “được nghe Phật pháp”
thì “đâu biết thường chịu” ân sâu của Phật? Ơn Phật là chỉ
phương tiện giáo hóa, thay ta chịu khổ, sai trồng thiện căn
như đã nói trên. Mà ơn đức ấy của Phật cao to đến mức gò đồi
núi non ở nhân gian không thể so được; “gò núi khó bì”, “gò”
là gò đồi, núi là núi cao. Bất luận đồi thấp núi cao, nếu so
với ơn đức Phật Đà đã ban cho chúng sinh, khác nhau một trời
một vực, không sao sánh nổi. Như đấng Thích Tôn sinh thời đem
mình cho hổ đói: Theo truyền thuyết, xưa có ba vị hoàng tử
cùng ra ngoài thành du ngoạn, hoàng tử bé nhất tức là Thích
Ca. Họ cùng đi qua một đám rừng, trông thấy một con hổ mẹ đẻ 7
hổ con, đã 7 ngày không có gì ăn. Thích Ca thấy vẩy trong lòng
không nởbỏ qua, liền trốn hai anh, cởi hết quần áo trên người,
tự đi đến trước mặt hổ đói, cho hổ ăn thịt. Hổ cảm động không
dám ăn. Người dùng tre khô đâm cổ, máu tươi trào ra hổ đói
thấy máu mới chịu ăn. Lúc đó trời rung đất chuyển, hoa từ trên
trời tuôn xuống như mưa.
-
Ngoài
tinh thần hy sinh đem mình cho hổ đói ra lại cò như móc mắt
cho người, cắt đầu cho người, xẻo thịt cứu bồ câu, tự nguyện
thay hươu cái cung hiến cho vua, tất cả đều xả thân vì chúng
sinh, tất cả đều tỏ rõ từ bi, tất cả đều có ơn đức sâu nặng
đối với chúng sinh. Ơn đức của Phật đối với chúng sinh nói
không hết, khen không cùng.
-
Trừ phi
phát tâm quảng đại, hành đạo Bồ tát, kiến lập Phật pháp, cứu
độ chúng sinh ra, thì dù nát thịt tan xương há dễ đền đáp (ơn
đức Phật). Ấy là nhân duyên phát tâm Bồ Đề thứ nhất như vậy.
-
Ơn sâu
đức nặng mà Như Lai ban cho chúng ta, nếu ta không biế, nên
không lo đền đáp thì còn có thể lượng tình tha thứ. Giả sử
biết ơn Phật trọng đại mà không báo đền, thì không những không
đủ tư cách làm Phật tử, ngay cả tư cách làm một con người
thông thường cũng không đủ, vì người đời phần nhiều đều có thể
biết ơn, đền ơn. Cho nên là một Phật tử, ta nên luôn luôn nhớ
ân đức của Phật và nghĩ cách báo đền. Nhưng làm sao báo đền ơn
đức Phật? Cúng dường lễ bái, tán tụng ngợi ca, không thể báo
đền ơn Phật trong muôn một. Báo đền ơn Phật một cách chân
chính nhất thiết phải phát tâm quảng đại, hành đạo Bồ tát,
kiến lập Phật pháp cứu độ chúng sinh. Phát tâm quảng đại tức
là phát tâm Bồ Đề; hành đạo Bồ tát tức là theo tâm Bồ đề mà
hành động. Thiết thực làm bất cứ việc gì mà bồ tát nên làm.
Trong quá trình hành đạo Bồ tát, hai nhiệm vụ quan trọng nhất,
không gì hơn kiến lập Phật pháp và cứu độ chúng sinh. Chỗ chưa
có Phật pháp phải ra sức đề xướng Phật pháp; chỗ đã có Phật
pháp, phải tận lực hộ trì. Như vậy là kiến lập Phật pháp. Phật
pháp kiến lập rồi thì phải cứu vớt, độ thoát chúng sinh, làm
cho chúng sinh thoát khổ được vui, giải thoát tử. Nếu như
không phát tâm quảng đại, thì không thể hành đạo Bồ tát; không
hành đạo Bồ tát thì không thể kiến lập Phật pháp; không kiến
lập Phật pháp thì làm sao mà cứu độ chúng sinh? Điều Phật hy
vọng nhất ở chúng ta là làm sao cho cái chính pháp mà người đã
vất vả chứng được trong thời gian dằng dặc tam đại A tăng kỳ
kiếp, lưu truyền không ngừng ở thế gian, khiến cho chúng sinh
khổ não lưu chuyển trong bể khổ sinh tử nhận được giáo hóa của
Phật pháp mà đi lên con đường lớn giải thoát.
-
Hai chữ
“tự phi” trong bài là lời phản diện, tức là giả sử khônt như
thế, chưa nói chúng ta hương hoa cúng dường không thể báo đền
ơn Phật, “cho dù tan xương nát thịt” cũng không thể báo đền
muôn một ơn đức Phật Đà, cho nên nói “há dễ đáp đền”. Kinh Hoa
Nghiêm nói “Giả sử đầ đội kinh trần kiếp, thân làm giường bệ
biến Đại thiên, nếu không thuyết pháp độ chúng sinh, rốt cuộc
không thể đền ơn Phật”. Về thời gian, đầu đội Phật Đà lâu dài
như vậy, về không gian, thân làm giường làm bệ ngồi của Phật
phổ biến đến thế, thì nói chung không thể không nói là đã báo
ơn Phật. Nhưng nói theo Phật pháp, thì như thế không phải đền
ơn chân chính. Đền ơn Phật chân chính chỉ có thuyết pháp độ
sinh. Không đi tuyên thuyết chính pháp Như Lai, không đi độ
hóa chúng sinh khổ não, thì dù ta làm thé nào, chung quy vẫn
không thể nào đền ơn sâu Đức Phật. Vì chỉ có thuyết pháp độ
sinh mới phù hợp với bi tâm từ ý của Như Lai. Hỡi các Phật tử;
Các đạo hữu có muốn đền đáp công ơn Phật không? Giả sử các đạo
hữu muốn, xin hãy bắt đàu từ việc thuyết pháp độ sinh, không
nên buôn bán gia nghiệp của Như Lai nữa! “Đây là nhân duyên
phát tâm Bồ Đề thứ nhất.
--o0o--
|
|