|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
C-LỜI KẾT
-
1- Tự kiểm tra mình
-
Như thế mười duyên
biết đủ, tám phát hay đều, thì tiến lên có, khai phát có nơi.
Cùng nhau đã được làm người, sống đất Hoa Hạ, lục căn đầy đủ, tứ
đại nhẹ yên, đã có lòng tin, không bị ma chướng.
-
Lời dẫn và nội dung
chính của bài văn này đã giải thích rồi, đây là lới kết toàn
văn. Phần này chia làm bốn đoạn đây là đoạn một: tự kiểm tra
mình.
-
Như vậy, mười loại
nhân duyên phát tâm Bồ Đề, chúng ta đã nhận thức được, thì từ
nay về sau đã có “đất” để phát tâm Bồ Đề. Như vậy, “tám pháp”,
tà, chính, chân, ngụy … chúng ta cũng đã biếtđủ, thì từ nay đã
có cửa đúng dẫn chúng ta hướng đến Niết bàn cực lạc. Tiến lên có
cửa (xu hướng hữu môn) tức là không đến lỗi sai hướng lạc đường,
khai phá có nơi (khai phá hữu địa) tức là biết rõ phát tâm Bồ Đề
như thế nào. Đã phát tâm Bồ Đề, tất nhiên sẽ có thể chứng được
quả Niết bàn.
-
Đồng thời, chúng ta
lại đều may mắn “cùng được làm người” “nhân thân nan đắc kim dĩ
đắc” (Thân người khó được nay đã được) được làm kiếp người quả
là không dễ gì, phải tận dụng tốt cái kiếp người này mà làm được
một việc gì có ý nghĩa trong Phật pháp, cũng tức là trong kiếp
này giải thoát cái thân người mỏng manh bại hoại này, đừng để
cái thân này kéo lụy mà gây ra tội lớn vô biên. Kinh nói: “kẻ
mất kiếp người (nhiều) như đất bụi trên mặt đất, kẻ được kiếp
người (hiếm) như hạt bụi đầu móng vuốt” chúng ta há lại không
biết mượn cái thân người này mà làm việc gì tự lợi lợi tha có ý
nghĩa hay sao? Chúng ta há lại hồ đồ phí phạn cái thân người
trong kiếp này chăng?
-
Chúng ta không chỉ
được ở kiếp người, mà lại cùng “ở đất Hoa Hạ”: Hoa Hạ là chỉ đất
Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc nói trong kinh Phật, không phải là
nước Trung Hoa. Nơi nào có Phật giáo lưu hành, thì ở đó gọi là
Trung Quốc. Ở những nơi có Phật pháp lưu hành,được nghe Phật
pháp,, ta không thấy Phật pháp là đáng quý, nhưng một khi sinh
ra ở nơi không có Phật pháp muốn nghe Phật pháp không được nghe,
lúc đó ta sẽ thấy cầu được Phật pháp không dễ dàng gì. Cho nên
sinh ra ở đất Hoa Hạ, được nghe Phật pháp thì phải mừng vui mới
phải. Càng phải tận dụng cái thời cơ và hòan cảnh tốt đẹp đó mà
tu học Phật pháp tích tập tư lương thành Phật.
-
Sinh ra làm người ở
Trung Quốc cố nhiên là rất tốt rồi, nhưng nếu về sinh lý có
nhiều khuyết tật, thì không thật là mĩ mãn. Nay ta may mà “lục
căn đầy đủ” (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều tốt- ND) thì càng
phải lợi dụng tấm thân có lục căn hoàn bị đó mà tội luyện trong
Phật pháp. Trong kinh nói lục căn không hoàn bị là một trong bát
nạn, không thể xuất gia thụ giới. Có thể thấy lục căn hoàn bị là
một điều kiện hết sức quan trọng để tu học Phật pháp, không thể
coi thường.
-
Lục căn hoàn bị là
pháp khí tu học Phật pháp, cố nhiên là rất tốt, nhưng nếu tứ đại
(đất, nước, gió, lửa-ND) không điều hòa, thân thể dễ đau ốm thì
vẫn là một chướng ngại lớn của việc tu hành. Nay chúng ta không
chỉ lục căn hoàn bị, mà “tứ đại” cũng “nhẹ yên”, ít ốm ít đau.
Nếu không được thực sự phát tâm học Phật thì làm sao phải với
chính mình: có người nói, thân thể khỏe mạnh là cái gốc của mọi
sự nghiệp. Học Phật cũng cần có thân thể khỏe mạnh, nếu không
thì khó mà được cái công việc lớn lao tự lợi lợi tha.
-
Có đủ những điều kiện
ưu việt nói trên, nhưng giả sử thiếu lòng tin vào Phật pháp thì
cũng nhất định không thể học Phật thành công được. Kinh ví lòng
tin cũng như cái tay. Vào núi châu báu, nhờ có đôi tay thì lấy
được châu báu vô lượng. Nhưng nếu không có tay thì dù châu báu
trên núi nhiều bao nhiêu, ta cũng không được gì cả. “Nơi vào cửa
Phật, lấy lòng tin làm gốc” không có lòng tin kính, dù có pháp
bảo vô lượng, ta cũng không được gì cả. May sao chúng ta “có đủ
lòng tin” đương nhiên chúng ta sẽ học Phật đúng phép.
-
Dựa vào lòng tin để
học Phật quả thật là quý hóa, nhưng trong quá trình học Phật lại
phải có thêm một điều nữa mới thật thuận lợi, đó là không gặp ma
chướng. Gặp ma chướng thì ta đã từng thấy nhiều hành giả thoái
thất đạo. Chúng ta đã từng thấy nhiều hành giả thoái thất đạo
tâm mà không phải tự mình muốn thế, chỉ vì gặp ma chướng mà nên
nông nỗii ấy. Chúng ta nhờ túc căn sâu dày, từ khi bắt đầu học
Phật đến nay, may sao không gặp ma chướng quấy nhiễu. Vì thế ta
càng phải tinh tiến tu học, không được lười biếng trể nải
-
Huống nay chúng ta
vừa được xuất gia, vừa thụ Phật giới, vừa gặp đạo trường, vừa
được nghe phật pháp, vừa xem xá lợi, vừa tu sám hối, vừa gặp bạn
lành vừa có thắng duyên, không phát tâm lớn Bồ Đề hôm nay thì
còn đợi đến ngày nào?
-
Được làm kiếp người
quý báu, cố nhiên là đáng mừng rồi, được xuất gia thụ giới lại
càng là may mắn lớn những điều may mắn. Vì người xuất gia thụ
giới, không phải ai cũng gặp hàng loạt tám điều may mắn như thế.
-
“Vừa được xuất gia”
là nói người được làm người không ít, nhưng được xuất gia thì
không nhiều. Nên biết rằng “xuất gia là việc đại trượng phu,
không phải việc mà công hầu khanh tướng làm được”. Xem ra, xuất
ra rất giản đơn, nhưng thật ra không dễ dàng gì. TheoPhật pháp:
một người thật lòng xuất gia phải là người có thiện căn nhất
định. Nay chúng ta đã được xuất gia “không phát tâm lớn Bồ Đề
hôm nay”, thì thử hỏi “còn đợi đến ngày nào?”
-
“Vừa thụ giới”, có
nhân duyên xuất gia không nhất định đã được thụ giới. Vì thụ
giới thì phải có đủ mười sư. Nếu sinh ra ở một nơi Phật giáo
không được thịnh vượng lắm mà đức tăng đủ tư cách thụ giới lại
thiếu thì ta muốn được xuất gia, lại có thể có đủ đại giới tỳ
kheo là điều may mắn lớn. Như vậy “không phát đại tâm hôm nay
thì chờ đến ngày nào?”. Bỏ lỡ cơ hội này há chẳng đáng tiếc lắm
sao?
-
“Vừa gặp đạo trường”.
Đạo trường đây là chùa A Dục vương, có xá lợi Phật. Chỗ có xá
lợi Như Lai là chỗ có Phật đà. Gặp Được một đại trường như vậy
đâu có dễ dàng? Vì chùa chiền các miền không ít nhưng có quy mô
như chùa A Dục vương, có xá lợi Phật, thật ra là không nhiều.
Nay chúng ta gặp được đạo trường tốt hiếm có như thế này mà
“không phát tâm Bồ Đề hôm nay” thử hỏi “còn đợi đến ngay nào?”.
-
Vừa nghe Phật pháp
“Phật pháp lưu hành khắp thế gian, nhưng nếu không có người
hoằng dương Phật phápthì ta muốn nghe Phật pháp đâu có dễ. Nghe
pháp là việc đầu tiên của người học Phật pháp. Chỉ có nghe pháp
thì mới nhận thức được con đường chính của Phật pháp. Phật pháp
khó mà nghe được, nay ta đã được nghe, lại biết được lợi ích của
Phật pháp đối với chúng sinh, nếu không phát tâm lớn Bồ Đề hôm
nay “đem những điều nghe được chuyển đến cho chúng sinh, ngõ hầu
có ích cho nhân quần, thử hỏi “còn chờ đến ngày nào”.
-
“Vừa xem xá lợi”, Xả
thân phẩm trong Kim quang minh kinh nói: “ Xá lợi này là huân
tập của hương vô lượng giới định tuệ” Vật ngưng đọng hình tròn
long lanh tỏa sáng mà đốt ra sau khi Phật nhập Niết Bàn chính là
loại hương này. Nhưng chỉ có Phật đà giới đức thanh tịnh, định
tuệ trang nghiêm mới có thể đốt ra hương này, không phải người
thường có được, cho nên người học Phật đặc biệt quý trọng, không
những cúng dường có công đức lớn, chỉ được nhìn thấy cũng đã có
công đức. Nay ta đã được chiêm ngưỡng xá lợi, làm sao có thể
“không phát tâm lớn Bồ Đề hôm nay”?
-
“Vừa tu sám hối”
nghiệp chướng tích tụ từ vô thủy đến nay, phải theo sám pháp mà
tu thì mới tiêu trừ được. Vì Phật pháp là Phật pháp, xá lợi là
xá lợi, nếu ta không sám trừ nghiệp chướng của bản thân, thì mọi
thắng lợi của Phật pháp đều không có quan hệ gì với ta. Đại sư
Tỉnh Am nói, nay chúng ta tập hợp ở đạo trường này, cùng tu hành
pháp sám ma (Tức sám hối- ND) gột rửa mọi tội lỗi, nếu không
phát tâm Bồ Đề vào lúc này để trên cầu đạo Phật, dưới hóa chúng
sinh, làm việc đáng làm của Phật pháp thì còn chờ đến lúc nào?
-
“Vừa gặp bạn lành”
bạn lành tức là đạo hữu (Pháp lữ) Tu học Phật pháp, điều quan
trọng nhất là có đạo hữu tốt, cùng tiến bước trên đường lớn của
Phật pháp, thì mới có thể không ngừng tiến theo hướng Bồ đề, nếu
không có bạn lành, thì không chỉ tu học khó tiến mà lại dễ thoái
tâm. Bạn lành không phải là dễ gặp. Kinh nói: “Bạn lành khó gặp”
là như vậy. Nay ở đạo trường chùa A Dục Vương, gặp bao nhiêu bạn
tốt, nếu không phát tâm lớn Bồ Đề ngay hôm nay, thì đên bao giờ?
-
“Vừa có thắng duyên”.
Thắng duyên tức olà nhân duyên thù thắng. Nhân duyên thù thắng
nhất ở thế gian này không gì hơn là được gặp Tam bảo Phật, pháp,
tăng mới là nhân duyên thù thắng hơn cả. Nay tuy ở thời mạt
pháp, chúng ta vẫn có thể gặp Tam bảo, lại thành kính quy y Tam
bảo, như vậy không phải là thắng duyên là gì? Đã có thắng duyên
như vậy, nếu “không phát tâm lớn Bồ Đề hôm nay” thì thử hỏi “còn
chờ đến ngày nào?” Tóm lại, ngay bây giờ là lúc phải phát tâm,
không thể để lỡ.
-
2- Khuyên rộng khắp
đại chúng
-
Kính mong đại chúng:
thương tôi ngu dốt, xét tôi khổ chí, cùng lập nguyện này, cùng
phát tâm này, ai chưa phát tâm thì nay phát, ai đã phát tâm rồi
thì phát thêm nữa; ai đã phát thêm rồi nay hãy tiếp tục phát
tâm.
-
Đại sư Tỉnh Am sau
khi đã nói rõ những thắng duyên trên, lại kêu gọi đại chúng rộng
khắp, nay tôi nguyện đại chúng giáo hữu có mặt tại đay, hãy
thương sự vụng về và chân thành của tôi, xét khổ tâm bỉ chí của
tôi, tại đạo trường chùa A Dục vương này, trước tháp xá lợi Phật
Đà này, hãy cùng với tôi lập nguyện lớn ccầu Bồ Đề cùng phát tâm
Bồ Đề quảng đại. Không thể chậm trể, ai chưa phát tâm nguyện Bồ
Đề hãy phát tâm ngay hôm nay ai đã phát tâm nguyện Bồ Đề rồi,
hãy làm cho tâm nguyện Bồ Đề ấy lớn thêm theo ngày tháng. Nếu ai
đã nêu cao được tâm nguyện lớn thì muôn vàn xin chớ để thoái
thất tâm nguyện Bồ Đề.
-
Đừng sợ khó mà khiếp
hãi rút lui, đừng cho là dễ mà coi thường, đừng nóng vội mà
không kiên trì lâu dài, đừng lười biếng trể nải mà không dũng
mãnh, đừng uể oải mà không hăng hái, đừng chần chừ mà chờ đợi
đến ngày mai, đừng vì mình ngu đần mà không dám phát tâm, đừng
cho rằng mình căn cơ nông mỏng mà tự nghĩ mình không có phận.
-
Phát tâm Bồ Đề vô
thượng rồi, phải hành đạo Bồ Tát rộng rãi, mà hành đạo Bồ Tát là
rất gian nan khốn khổ tuyệt đối không thể nghĩ là nhẹ nhàng. Xưa
kia Phật Đà phát tâm hành đạo Bồ Tát, đã phải qua một lịch trình
làm được những việc khó làm, với tinh thần đại vô úy, đã gạt bỏ
mọi gai gốc nguy hiểm khó khăn rồi mới đạt được mục đích thành
Phật. Nay trong bài đại sư Tỉnh Am đã nêu ra tám điều “đừng” để
khuyên chúng ta không được sơ ý trong khi phát tâm Bồ Đề.
-
1- Đừng vì khó khăn
mà khiếp sợ lùi bước: Tôi thường nói, vấn đềcá nhân dễ giải
quyết, công việc của đại chúng khó xử lý. Phát tâm Bồ Đề để độ
hóa chúng sinh là mưu cầu hạnh phúc cho đại chúng, nhưng tính
của từng người khác nhau, khi tiếp xúc với quần chúng không thể
tránh khỏi nhiều việc gai góc khó giải quyết, như sợ khó khăn mà
không dám tiến lên thế thì tất nhiên sẽ khiếp hãi lùi bước,
không còn dũng khí làm Bồ Tát nữa, cho nên hành đạo Bồ Tát đầu
tiên là phải không vì khó khăn mà không dám tiến lên để tránh
cái tâm lý khiếp hãi thoái chuyển.
-
2- “Đừng
cho là dễ mà khinh thường” Việc lớn hành đạo Bồ Tát cho là gian
nan cố nhiên là không được, nhưng cho dễ dàng cũng không được.
Trong đoạn “tôn trọng tính linh của mình” đã từng nói, chúng
sinh vốn có viên ngọc quý Phật tính, phải gia công mài rũa mới
sáng đẹp, nếu coi là dễ mà khinh thường thì dễ nẩy sinh tự mãn.
Người tự mãn cuối cùng sẽ tự phá tự bỏ, không thể thành công,
thử nghĩ mà xem, làm một việc nhỏ ở thế gian mà còn khó thành
công huống hồ gì việc lớn thành Phật độ sinh?
-
3- “Đừng
nôn nóng mà không kiên trì lâu dài” Đạo Bồ Tát là lâu dài, phải
kiên trì làm trong thời gian dài thì mới đến được tận cùng con
đường Bồ Đề, do đó không thể nôn nóng mà thiếu lòng kiên trì.
Trung Quốc có câu tục ngữ: “Dục tốc bất đạt” (muốn nhanh chóng
thì sẽ không thành công được) chúng ta phải nhớ lấy. Người thợ
thông thường ở thế gian còn phải tốn công học tập nhiều năm mới
thành nghề huống gì việc lớn thành Phật độ sinh. Muốn thành công
nhanh chóng sao được. Có người nghĩ rằng một đời có thể thành
Phật, đó thật là một quan niệm sai lầm lừa người dối mình. Nói
thật việc nhỏ ở thế tục còn không thể cầu may, cầu may trên
đường tu hành thành Phật là sai lầm lớn mà trí giả không bao giờ
làm.
-
4- “Đừng
lười biếng trể nãi mà không có dũng khí” con đường Phật là dài
lâu như thế, không tinh tiến dũng mãnh không được, tuyệt đối
không thể lười biếng trể nãi một tý nào. Nhưng dũng mãnh không
thể chỉ dũng mãnh nhất thời, cũng không thể dũng mãnh kiểu bạo
hổ bằng hà, mà phải dũng mãnh một cách kiên trì, không gián đoạn
thì mới là dũng mãnh thực sự, phải tiến lên phía trươc bằng
những bước đi vững chắc thì mới là tinh tiến thực sự. Chỉ có
tiến tới trên con đường Phật một cách tinh tiến thì mới tránh
khỏi được tình trạng nẩy sinh tâm lý lười biếng muốn nghỉ ngơi
khi thuận lợi thoải mái. Có nhiều người học Phật, không thể đạt
được Bồ Đề tối cao vô thượng nguyên nhân căn bản là do lười
biếng trễ nải. Vì vậy đại sư Tỉnh Am mới đặc biệt đòi hỏi Bồ Tát
không được lười biếng mà không dũng mãnh.
-
5-“Đừng
uể oải mà không hăng hái”. Trong thế gian hiện thực ta có thể
thấy rõ rang là phàm làm việc gì mà hăng hái phấn chấn thì dễ có
thu hoạch lớn, còn uể oải chây lười thì rất khó thành công. Việc
đời còn thế huống gì việc đạo Phật vô thượng. Vì thế hành giả Bồ
Tát phải hăng hái phấn chấn, không thể uể oải rụt rè, càng không
thể chây lười được sao hay vậy. Nên biết rằng sức mạnh tinh thần
là lớn hơn cả, một khi tinh thần đã suy sụp thì không còn cách
nào cứu vãn được nữa.
-
6- “Đừng
chần chừ mà chờ đợi ngày mai” Hôm nay phát tâm Bồ Đề thì ngay
ngày hôm nay bước lên đường Bồ tát, đừng mang tâm lý chần chừ
chờ đợi mà hao phí thời gian quý báu. Càng không thể trông chờ
tương lai, phải làm với tinh thần “việc hôm nay làm xong trong
ngày hôm nay” quyết không đợi đến ngày mai, phải biết rằng ngày
mai rồi lại có ngày mai khác. Nếu như chần chừ thành nết, việc
gì cũng đợi ngày mai thì chưa nói Đạo Phật vo thượng, mà cả việc
đời cũng khó hy vọng thành công, cho nên không thể chần chừ qua
ngày.
-
7- “Đừng
vì mình ngu đần mà không dám phát tâm” căn tính chúng sinh có sự
khác nhau giữa thông minh lanh lợi và ngu đần chậm chạp. Đó là
một sự thật không thể phủ nhận được. Nhưng chúng ta nên biết,
người căn tính thông minh lanh lợi cố nhiên có thể hướng theo
đường Phật, mà người ngu đần chậm chạp cũng có thể hướng theo Bồ
Đề. Hơn nữa càng ngu đần chậm chạp thì càng phải tu học Bồ Đề.
Vì người người đều có thể tu được, không phân biệt kẻ trí người
đần. Cho nên hành giả Phật pháp đừng vì tư chất ngu đần của mình
mà cứ không dám phát tâm tiến thủ trên đường Phật vô thượng.
-
8- “Đừng
nghĩ mình căn cơ mông nỏng mà tự tic ho rằng mình không có
phận”. Có thể có người cho rằng Phật đạo vô thượng là để cho
người có căn tính sâu dày tu, ta là người căn cơ mông mỏng,
không có tư cách tu học đạo Phật , thế là tự ti tự bỏ cho rằng
mình không có phận. Không biết rằng nghĩ thế là sai lầm. Trong
kinh, Phật nhiều lần căn dặn chúng ta “mọi chúng sinh đều có
tính Phật”. Ta là một chúng sinh vì sao tự phá tự bỏ coi là mình
không có duyên phận gì với Bồ Đề vo thượng? Mọi chúng sinh đều
có khả năng thành Phật, tại sao ta không có khả năng ấy? Phải tự
tin như vậy.
-
Ví như trồng cây,
trồng lâu thì rễ cạn ngày càng sâu; lại như mài dao, mài lâu thì
dao cùn hóa sắc. Há lẽ vì rễ nông mà không trồng để cây héo khô,
vì dao cùn mà không mài, để dao thành vô dụng?.
-
Để khuyến
khích hành giả Phật pháp phát tâm Bồ Đề, hành đạo Bồ Tát, đại sư
Tỉnh Am nêu hai ví dụ nhằm kiên định lòng tin của chúng ta.
-
1-.. “Ví
với việc trồng cây” : khi mới trồng xuống, rễ cây đương nhiên là
rất nông, hầu như không chịu được gió lay sương phủ, nhưng nếu
trồng lâu trong một thời gian nhất định thì “rễ nông sẽ ngày
càng sâu hơn” vững hơn. “chẳng lẽ vì rễ nông mà dừng trồng để nó
tự héo khô? Nên nhớ rằng rễ ccây Bồ Đề cũng vậy, khi vừa mới
phát tâm Bồ đề thì rễ cây Bồ Đề còn rất nông, không thể chịu
được sự dày vò chà xát nhưng lâu dần, tưới nước pháp cho rễ cây
Bồ Đề, thì rễ cây sẽ trở nên vững chắc, mọi ngoại lực không làm
gì lay chuyển được. Do Đó, hành giả Phật pháp không thể vì rẽ
nông mà để cho cây Bồ Đề khô héo đi.
-
2-..Lại
như mài dao “khi mới mài, mũi dao đương nhiên rất cùn, hầu như
không thể dùng làm gì được, nhưng nếu mài lâu, mài trong một
thời gian nhất định thì ắt hẳn “dao cùn mà hóa sắc” chẳng lẽ vì
dao cùn mà không mài, để cho dao trở thành vật vô dụng”. Nên
biết con “dao trí tuệ” cũng thế, khi mới mài, “con dao trí tuệ”
còn rất cùn, không có tác dụng đoạn hoặc, nhưng mài lâu rồi thì
từ hữu lậu tuệ dần dần biến thành vô lậu tuệ, không những có thể
dùng “con dao trí tuệ” dứt hết phiền não, lại còn làm cho thiên
ma ngoại đạo không làm gì được ta, do đó hành giả Phật pháp, nếu
như vì “con dao trí tuệ” cùn mà dứt bỏ không dùng thì thật là
hoài phí đáng tiếc quá!
-
Như trên
đã nói, mỗi một đệ tử Phật chúng ta đều nên bắt đầu từ ngày hôm
nay ra sức vun trồng rễ cây Bồ Đề, không nên để cho nó mãi không
sinh trưởng được; bắt đầu từ ngày hôm nay, ra sức mài rũa “con
dao báu trí tuệ”, không nên để cho nó mãi mãi là vật vô
dụng.
-
3- So
sánh khổ vui
-
Lại nếu
cho tu hành là khổ, tức là không biết lười nhác còn khổ hơn. Tu
hành thì vất vả tạm thời, yên vui muôn kiếp; lười nhác chỉ tạm
yên một kiếp chịu khổ nhiều đời.
-
Tu hành
theo Phật pháp, dù là để tự lợi hay lợi tha, đạc biệt là đại
hạnh lợi tha, đều phải tu một cách gian khổ tinh tiến thì mới
thành tựu được, tuyệt đối không phải lười nhác trộm yên có thể
tu hành không thành công được. Chính vì vậy, có người sợ khổ,
không dám tu hành. Tu hành quả thật là gian khổ, không thể coi
là vui sướng được. Thực ra, “lại nếu cho tu hành là khổ tức là
không hiểu rằng lười nhác càng khổ hơn nhiều? vì sao? Vì cái khổ
mà người tu hành cảm thấy là do cần lao, nhưng nỗi khổ “cần lao”
chỉ là “tạm thời” hơn nữa cái khổ cần lao tu hành đó có thể đổi
lại bằng “yên vui vĩnh kiếp” thế thì lấy gì làm khổ? “lười nhác
tuy tạm yên một kiếp” nhưng đổi lại là “đau khổ nhiều đời”; Sao
nói vậy? Vì người ta nếu không tu học Phật pháp, chỉ biết gây ra
tội nghiệp sinh tử ở thế gian, thì khó mà không rơi vào tam ác
đạo, một khi đã rơi vào tam ác đạo thì ắt phải chịu đủ mọi loại
đau khổ, đời đời kiếp kiếp. Như vậy, so sánh khổ với vui, thì
người tat u hành Phật sẽ chọn nỗi khổ cần lao tu hành tạm thời
hay là sẽ chọn yên vui tạm thời để chịu khổ lâu dài? Người có
chút trí tuệ sẽ biết chọn!
-
4- Đinh ninh dặn lại
-
Huống gì lấy (pháp
môn) Tịnh độ làm thuyền chở, thì lo gì thoái chuyển? Lại được vô
sinh làm nhẫn lực thì sợ gì gian nan? Nên biết rằng kẻ có tội ở
địa ngục, còn phát tâm Bồ Đề kiếp trước, há lẽ Pật tử loại
người, không lập nguyện lớn ở đời nay?
-
Đại sư Tỉnh Am nói
thêm: chúng ta cưỡi thuyền đại nguyện đi vào biển Tịnh độ “huống
gì lấy (pháp môn) Tịnh độ làm thuyề, thì lo gì thoái chuyển”? Vì
một khi chúng ta đã vãng sinh Tịnh độ, thì lập tức được “A tì
bạt chí “ tuyệt đối không thể thoái chuyển được. Chỉ có trong
thế giới sa bà mới có thể thoái chuyển. Đồng thời, khi chúng ta
chưa có nhẫn lực vô sinh, không có sự giúp đỡ của sức mạnh trí
tuệ, khi gặp những hoàn cảnh khác nhau thì sẽ cảm thấy khó khăn
mà nảy sinh ý định rút lui. Nhưng khi đã sinh vào Tịnh Độ, thì
không những không thoái chuyển, mà lại sẽ “có nhẫn lực vô sinh”
như vậy thì “sợ gì gian nan” nữa. nên biết chữ “nhẫn” trong “vô
sinh pháp nhẫn” cũng có nghĩa là trí tuệ. Vô luận khó khăn gì,
dưới sự nhìn xuyên suốt của trí tuệ, đều có thể giải quyết dễ
dàng, cho nên không quản ngại gì khó khăn trùng trùng trên con
đường đạo. Trong thế gian rất nhiều việc không dễ giải quyết và
được coi là khó khăn, thực ra không phải là thực sự không có
cách giải quyết, mà vấn đề ở chỗ chúng ta có trí tuệ cần thiết
hay không. Người có trí tuệ, bất cứ vấn đề gì đều có thể giải
quyết. Có thể thấy trí tuệ quan trọng như thế nào. Những hành
giả có vô sinh pháp nhẫn sẽ có trí tuệ cao độ, đương nhiên sẽ
không thấy khó khăngì bày ra trước mặt.
-
Phát tâm quảng đại,
lập nguyện quảng đại thì không những chỉ nhân loại hữu tình có
khả năng ấy, mà nên biết rằng tội nhân trong địa ngục còn phát
đại tâm Bồ Đề ở kiếp trước”. Nay ta là người, lại là đệ tử Phật
“chẳng lẽ loại người Phật tử chúng ta lại không lập đại nguyện
Bồ Đề ở đời nay”? Nếu như vậy thật, thì chẳng hóa ra chúng ta
không bằng tội nhân ở địa ngục hay sao? Người không bằng tội
nhân ở địa ngục thật là oan uổng kiếp người, mà càng hổ thẹn là
Phật tử. Về vấn đề tội nhân ở địa ngục, xưa còn phát nguyện Bồ
đề được nói đến trong nhiều kinh điển đại thừa. Tức là những
người đã phát tâm Bồ Đề ở kiếp trước, vì vẫn còn là phàm phu,
cũng tức là thuộc Bồ Tát phàm phu nhưng đã vô ý gây ra tội
nghiệp phải rơi vào ác đạo. Đã phạm tội địa ngục, tất nhiên phải
chịu quả báo địa ngục, tuy chịu quả báo địa ngục nhưng tâm Bồ Đề
chưa mất, cho nên nói: tội nhân địa ngục còn phát tâm Bồ Đề ở
kiếp trước không phải là tội nhân địa ngục bắt đầu phát tâm Bồ
Đề.
-
Hôn mê từ vô thủy
việc qua rồi không thể can ngăn, còn nay giác ngộ rồi,việc tương
lai còn khả năngbổ cứu. Xưa kia mê mà chưa tỉnh, còn có thể
thương, nay biết mà không làm,lại càng đáng tiếc!
-
Chúng sinh từ vô thủy
đến nay, lặn lội mãi trong luân hồi sinh tử, điên đảo hôn mê
không tỉnh, không biết gì là phát tâm Bồ Đề, lập nguện quảng
đại. Đây là sai lầm quá khứ. Quá khứ đã qua rồi, không còn cách
gì uốn nắn sử chữa được nữa: “Việc đã qua không thể can ngăn” có
hối hận thì cũng không sao kịp nữa. Nhưng tương lai thì còn có
thể chạy theo bổ cứu. Trong kiếp này, được nghe Phật pháp, xuất
gia thụ giới, có thể coi là giác ngộ ra, không hôn mê điên đảo
như xưa nữa, thì nên tìm cách bổ cứu , nếu không gấp chạy đuổi
theo thì e mình lại phụ mình nên nay khi đã giác ngộ rồi, nên
theo sự khai thị của Phật mà phát tâm quảng đại, lập nguyện Bồ
đề, vì sự giải thoát thân tâm mình, vì cứu vớt chúng sinh đau
khổ mà tiến lên con đường lớn Bồ Đề.
-
Nhưng xưa kia, vì
chưa được nghe Phật pháp nên hôn mê chưa tỉnh, dưới con mắt từ
bi của Phật Bồ Tát, “còn có thể thương” tình. Nay đã biết Phật
pháp, nếu “biết mà không làm” thì “lại càng đáng tiếc”.
-
Phật phápcoi trọng
hiểu và làm tương ứng với nhau, vì chỉ có hiểu làm tương ứng thì
mới thu ực ích Phật pháp. Đặc biệt Phật pháp đại thừa coi trọng
phát tâm Bồ Đề, thuyết pháp độ sinh. Chỉ qua thuyết pháp độ sinh
mới có thể tích tập được tư lương phúc trí, mới có thể viên
thành Bồ Đềvô thượng. Đây là điều mỗi một hành giả Phật pháp đều
biết. Nếu chỉ thỏa mãn dừng lại ở chỗ biết mà không thợc hành
thì niềm vui thành đạo Bồ Đề vô thượng sẽ không bao giờ đế với
ta. Cho nên đã biết tính thù thắng của Phật pháp Đại thừa thì ta
nhất định phải thực hành theo pháp mới được.
-
Nếu sợ địa ngục khổ
thì lòng tinh tiến tự sinh; nếu biết vô thường nhanh thì biếng
lười không đến. Lại phải biết lấy Phật pháp làm roi, bạn tốt làm
người dắt dẫn, đến với Phật pháp mà không rời, suốt đời nhờ cậy,
thì không còn lo thoái chuyển nữa!.
-
Người thường trong
thế tục sỡ dĩ không chịu tinh tiến tu thiện pháp cũng chỉ vì
không biết thế gian là khổ trái lại cho là sướng vui, đệ tử Phật
nói chung, sỡ dĩ không chăm chie tu học Phật pháp, chỉ vì không
sợ nỗi khổ ở địa ngục. Nếu như thật sự “sợ địa ngục khổ”, nếu
cái cảnh tượng núi dao cây kiếm, cắt đầu chặt chân, cắt lưỡi móc
mắt, nghìn chết muôn sống v.v… thường xuyên hiện ra trước mắt
thì tự nhiên ta sẽ cảnh giác mà tinh tiến không biếng lười nữa,
cho nên nói: “lòng tinh tiến tự sinh”. Vì phát hiện được những
cảnh khổ địa ngục, ta sẽ tự biểt rằng nếu không chăm chỉ tu
thiện thì sẽ có ngày phải vào địa ngục chịu khổ, nếu không muốn
kết duyên chặt chẽ với địa ngục thì chỉ có một cách duy nhất là
theo Phật pháp thuầ chính mà tinh tiến tu các thiện pháp.
-
Bình thường người ta
sỡ dĩ không phấn chấn tinh thần chỉ vì không thấy được rằng vô
thường là nhanh chóng lắm, cứ cho rằng hôm nay mình đang sống,
ngày mai đang sống, ngày kia nữa vẫn sống, sống mãi không chết.
Biết đâu rằng cái sinh mệnh tổ hợp này (sự tổ hợp của bốn nỗi
khổ lớn: sinh, lão, bệnh, tử - ND) là hư vô không có thật, là
bấp bênh bại hoại, một hơi thở dứt là hai mắt trợn trừng mà
thành người thiên cổ. Đến lúc đó nếu có hối hận bình sinh lười
biếng thì đã muộn rồi, chỉ còn theo nghiệp lực mà lưu chuyển
không ngừng nghỉ mà thôi. Nếu thật sự quan niệm được rằng vô
thường là nhânh chóng như nước lũ cuốn nhanh thì sự “lười biếng
không đến”, nó sẽ bị tính cảnh giác khắc phục. Những câu niệm
buổi tối mỗi ngày “ngày hôm nay qua, mệnh cũng diệt theo … hãy
niệm vô thường, xin đừng buông thả” thật sự có tác dụng thúc dục
nhắc nhở. Phật nói “ Mệnh người chỉ trong một hơi thở ra hít
vào”. Nói vậy không phải để dọa nạt ta mà là sự thật, chỉ cần
hơi sau không nối được hơi trước, thế là mệnh người kết thúc.
-
Là đệ tử Phật bình
thường ngoài việc phải biết sợ nỗi khổ địa ngục, hiểu được sự
nhanh chóng của vô thường, lại “phải coi Phật pháp là cái roi,
thúc dục chúng ta giờ khắc nào cũng phải tắm gội trong Phật pháp
để ccầu tiến bộ nên biết rằng trong giá trị của nhân sinh, Phật
pháp giữ vị trí cao nhất, nếu như có thể thường xuyên đọc, nghe
Phật pháp làm cho thâm tâm ta được thấm nhuần trong Phật pháp mà
được cái thiện – kinh nói: “Phật pháp như một tấm gương sáng,
nếu thường xuyên được soi trong Phật pháp thì ta không những có
thể soi thấy được mọi điều đúng sai của ta trong đối nhân xử
thế, mà còn có thể soi thấy được cái tâm tính của ta mà tam độc
tham, sân, si xâm thực từ vô thủy đến nay đã làm cho nó mất đi
cái diện mục vốn có – làm cho nó thoát khỏi vết xe khô cạn mà
được giải thoát tự tại. Vì thường ngày làm bạn với Phật pháp,
cũng coi như Phật pháp là thầy, lấy Phật pháp khích lệ mình. Vì
thế, nói nghiêm túc Phật tử chúng ta phải “đến với Phật pháp mà
không rời” phải “suốt đời cậy nhờ” Phật pháp. Nếu có thể lấy
Phật pháp để thúc dục mình như vậy thì tất nhiên “không còn mối
lo thoái chuyển” nữa.
-
Ngoài ra, chúng ta
còn cần có “bạn tốt dẫn dắt”, làm cho chúng ta được săn sóc
chiếu cố trên lộ trình tu học Phật pháp mà không đến nỗi tụt lại
phía sau. Bạn tốt (thiện hữu) nói ở đây có người cho là thiện
tri thức, trong đó có hai loại là thiện tri thức giáo thụ và
thiện tri thức đồng hành. Trong việc tu học Phật pháp, hai loại
thiện tri thức này không thể thiếu được. Thiện tri thức giáo thụ
có thể gợi ý cho chúng ta tiến lên con đường Phật đạo như thế
nào, nếu phát hiện chúng ta mất phương hướng thì có thể chỉ dẫn
chúng ta trở lại đường chính. Thiện tri thức đồng hành có thể
khích lệ lẫn nhau. Rèn luyện lẫn nhau để chúng ta khỏi thoái
chí, hễ phát hiện thấy chúng ta hơi thoái chí thì lập tức nhắc
nhở chúng ta tiếp tục tinh tiến không ngừng. Vì thế hành giả
Phật pháp, trong quá trình tu hành rất cần có sự dẫn dắt của bạn
tốt, hơn nữa phải “đến với bạn tốt mà không rời” phải “suốt đời
nhờ cậy bạn tốt” mãi mãi dựa vào nhau, gần gũi nhau. Nếu thực sự
được bạn tốt dẫn dắt thì tất nhiên không còn mối lo thoai chuyển
nữa.
-
Đừng nói tâm niệm là
nhỏ, đừng bảo hư nguyện không ích gì, tâm mà thật thì việc sẽ
thật, nguyện mà rộng thì hành hẳn sâu. Hư không chưa lớn, chúa
tâm mới thật là lớn, kim cương chưa bền, nguyện lực mới thật là
bền nhất.
-
Tâm Bồ Đề nảy sinh,
sẽ là cái hạt giống tương lai thành thật. Tương lai có thành
thật được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào tâm Bồ Đề có nảy
sinh hay không, cho nên hành giả phát tâm đừng nghĩ rằng cái tâm
là nhỏ mà không coi trọng “Muôn trượng lầu cao từ đát dậy”, nên
biết rằng Bồ Đề vô thượng là phát sinh từ cái tâm. Khi bắt đầu
phát nguyện, không có nội dung thực chất, nhìn chung, hầu như
chỉ là hư nguyện, không có thực ích gì. Không biết rằng mọi lợi
ích của Phật pháp đều từ phát nguyện lực làm sao có thể trên cầu
Phật đạo, dưới độ chúng sinh, cho nên hành giả phát nguyện nhất
thiết đừng bảo rằng đây chỉ là hư nguyện, không có thực ích. Học
Phật, dựng lên chí nguyện cao thượng, thực ra chỉ là điểm khởi
đầu, cho nên phần trên đã nói: “Việc gấp nhất trong tu hành
trước hết là lập nguyện”.
-
Phát tâm Bồ Đề là
theo chân tâm mà tu hành. Phát tâm mà thật, thì sau này việc làm
cũng sẽ thật. Chỉ có biểu hiện trong việc làm là thật thì mới có
thể chứng tỏ phát tâm là thật. Có thể thấy, phát tâm nhất định
phải chân thực, tuyệt đối không thể tà ngụy. Kinh nói: Nhân địa
không thật thì quả sẽ quanh co” đây là điều mỗi người phát tâm
phải chú ý. Lập nguyện phải lập nguyện quảng đại, như tứ hoằng
thệ nguyện mà mọi người biết là thuộc nguyện quảng đại. Nếu phát
nguyện quảng đại thì hành dựa theo nguyện quảng đại ấy hẳn sẽ
sâu. Chỉ có tu tập thâm hành thì mới có thể thỏa nãn được tâm
nguyện quảng đại. Phật pháp thường nói: “hành sơn nguyện hải”
(núi hành bể nguyện), nguyện lớn cũng như biển lớn, rộng lớn vô
bờ. Không có hành như núi, làm sao có thể thỏa nguyện như biển:
Thế nào là hành sâu (thâm hành)? Chỉ có lục độ vạn hạnh Bồ Tát
mới đủ tư cách gọi là thâm hạnh. Vì lẽ đó, mỗi một Bồ Tát phát
nguyện quảng đại, không ai không tu lục độ vạn hạnh, lý do cũng
là ở đây.
-
Nói chung, thế gian
hư không là rộng lớn vô biên, không ai đo được đâu là bờ bến.
Tuy vậy, như kinh Phật nói: hư không tuy lớn nhưng chưa thật
lớn, mà nó không lớn bằng tâm: “Hư không chưa lớn, chúa tâm mới
thật là lớn”.Chúa tâm nói ở đây là chỉ tâm Bồ Đề. Tâm này là
chúa trong các tâm. Chúa tâm sở dĩ lớn vượt hư không là vì cái
tâm đó “dọc suốt ba cõi, ngang khắp mười phương”, “tâm bọc thái
hư lượng cùng sa giới” có thể thấy chúa tâm lớn đến mức độ không
tưởng tượng được.
-
Nói chung, ở thế
gian, kim cương là rắn nhất, bền nhất, nó có thể phá mọi thứ mà
không gì hủy được nó, nhưng kinh Phật bảo với chúng ta, kim
cương tuy rắn nhưng chưa phải là rắn nhất, nguyện lực của ta còn
rắn hơn kim cương, nguyện lựclà bền chắc nhất. Trí độ luận nói:
kim cương ở thế gian có thể đánh vỡ sừng bò, nhưng người ta nếu
lập nguyện bền chắc, thì bất cứ một lực lượng nào cũng không thể
lay động được, ngay cả thiên ma ngoại đạo cũng không thể mảy may
lay động được.
-
Nếu đại chúng không
vứt bỏ lời tôi, thì từ đây quyến thuộc Bồ Đề quấn quít, thề
nguyện Liên xã từ nay thắt chặt.
-
Đại sư Tỉnh Am viết
bài văn này là để khuyên chúng dự pháp hội Niết bàn đương thời,
nhưng trên thực tế cũng là khuyên tất cả chúng ta hôm nay.
-
Bất luận là đại chúng
dự pháp hội xưa hay đại chúng ngày nay – nếu thật sự không vứt
bỏ những lời nói mộc mạc chân thành này của tôi, mọi người cùng
nhất trí, theo những nhân duyên khác nhau mà phát đại tâm Bồ Đề,
thì giữa chúng ta sẽ trở thành quyến thuộc Bồ Đề, sát cánh kề
vai cùng tiến bước trên con đường Phật đạo: “quyến thuộc Bồ đề
từ đây quấn quít”. Liên xã tức là đạo trường niệm Phật dựa trên
chí nguyện chung niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, Phật tử các nơi kết
thành liên xã. Phật tử trong liên xã cùng niệm Phật, trở thành
liên hữu. Vì chí đồng đạo hợp, liên xã hình như kết một mối thề
nguyền “liên xã từ nay thề nguyền thắt chặt”.
-
Sở nguyện cùng vãng
sinh Tịnh độ, cùng đi gặp Di Đà, cùng hóa độ chúng sinh, cùng
thành chính giác, thì biết đâu ba mươi hai tướng và bách phúc
trang nghiêm sau này không bắt đầu từ việc phát tâm lập nguyện
hôm nay.
-
Đại sư Tỉnh Am nói,
tôi và chư vị hôm nay đây cùng tu sám pháp ở đạo trường này, chỉ
có một sở nguyện duy nhất là cùng được vãng sinh Tịnh Độ, cực
lạc Tây phương, cùng được bái kiến Như Lai Di Đà, nghe Phật pháp
mà ngộ được vô sinh pháp nhẫn. Sau đó cùng theo nguyện lực trở
lại thế giới sa bà để cùng độ hóa chúng sinh, đến khi nào hóa
duyên khắp hết, “nhân quả viên mãn, cuối cùng chứng thành chính
giác chính đẳng vô thượng. Đây là nguyện vọng cao nhất của tôi
và cũng trông chờ ở đại chúng tham dự pháp hội và các Phật tử tu
học Phật pháp sau này. Nên biết rằng, bốn cái “cùng” nói ở đây
đã bao hàm cả hai mặt lớn tự lợi và lợi tha, đến khi đạt được tự
giác, giác tha, giác hành viên mãn, tự nhiên sẽ thành Phật. Tất
cả những Phật Đà đã thành đẳng chính giác, không ai không có đủ
ba mươi hai tướng, trăm phúc trang nghiêm. Cho nên nói: “Biết
đâu ba mươi hai tướng và trăm phúc trang nghiêm sau này không
bắt đầu từ việc phát tâm lập nguyện hôm nay”? Hôm nay phát tâm
lập nguyện là nhân, ba mươi hai tướng và trăm phúc trang nghiêm
sau này là quả, nhân quả thanh tịnh như vậy là nhân quả cứu cánh
nhất. Chúng ta phải tu cái nhân như vậy, cầu cái quả như vậy thì
mới khỏi phụ cái chí xuất gia tu Phật.
-
Ba mươi hai tướng của
Phật, nếu nói hết thì rất phiền phức, xin nói vắn tắt mấy loại
như nhục kế tướng trên đầu, bạch hào tướng giữa hai lông mày,
tướng chữ vạn ở trước ngực, tướng bánh xe nghìn hoa dưới bàn
chân v. v… là mấy tướng chủ yếu trong ba mươi hai tướng. Ba mươi
hai tướng đó phải bồi dưỡng vun trồng bách phúc, làm cho bách
phúc trang nghiêm. Bách phúc không phải là những việc thiện bình
thường mà ta làm hàng ngày, những việc như cứu trợ kẻ bần cùng,
in kinh, phóng sinh v. v… cố nhiên đều là việc thiện, nhưng
không thể cứ liệt kê từng việc, mỗi việc là một phúc. Theo Đại
trí độ luận: nếu mọi chúng sinh ở ba nghìn đại thiên thế giới
tất cả đã mù hai mắt không thể trông thấy gì nữa, hành giả Bồ
Tát chạy chữa cho từng người, làm cho mọi chúng sinh đều sáng
mắt trở lại, trông thấy được tất cả, thì đó là một phúc. Như
vậy, tu được một phúc không phải là đơn giản huống gì phải vun
trồng trăm phúc? Đây không phải là việc có thể làm được trong
thời gian ngắn. Phải trải qua nhiều kiếp tu hành mới có thể vun
trồng bách phúc:
-
Nguyện cùng đại chúng
cùng cố gắng: May lắm thay! May lắm thay!
-
Viết đến đây, đại sư
Tỉnh Am tổng kết: Tôi nguyện cùng chư vị ở đây khuyến khích cổ
vũ lẫn nhau, tự lợi lợi tha, cùng tiến trên đường Bồ Đề. Vì mình
mà cố gắng thì việc tự lợi “may lắm thay!” Vì lợi tha mà tinh
tiến, thì chúng sinh “may lắm thay!”. Nhấn lại hai lần “May lắm
thay” là như vậy.
-
-
*
-
-
Bài văn
“khuyến phát tâm Bồ Đề” đến đây đã giảng hết, cuối cùng tôi muốn
nói thêm vài điều: Chư vị có mặt tại đây nếu trước kia chưa nghe
bài này, không biết phát tâm là gì, không biết phát tâm thế nào,
chưa từng phát tâm Bồ Đề thì cũng không trách được: nay đã nghe,
đã hiểu nhân duyên phát tâm Bồ Đề, hiểu được ý nghĩa, phương
pháp của nó, thì tôi nguyện chư vị, như đại sư Tỉnh Am từng kỳ
vọng, từ hôm nay đây lập tức phát tâm, lập tức lập nguyện. Tứ
chúng Phật giáo ngày nay nếu có thể cùng phát tâm Bồ Đề, dùng
lập nguyện Bồ Đề, kết thành quyến thuộc Bồ Đề tiến lên trên
đường Phật thì dám tin rằng không chỉ Phật giáo có hy vọng chấn
hưng mà tất cả chúng sinh trong thế giới sa bà cũng sẽ được lợi
ích. Vì tứ chúng Phật giáo – có thể thực sự khẩn thiết phát tâm
thì thế giới sa bà này sẽ thành ra thế giới Phật hóa mà trở lên
hòa lạc, tự do, thế thì còn sợ gì bom khinh khí, bom nguyên tử.
Thế giới này ngày nay hổn loạn đến thế, đâu đâu cũng đằng đằng
sát khí chỉ vì Phật pháp chưa truyền bá khắp mọi ngóc ngách của
thế giới, chưa thấm được vào trong mọi tấm lòng. Chúng ta phát
tâm Bồ Đề nếu như người người đều hoằng dương Phật pháp, làm cho
Phật pháp lưu hành khắp thế gian, chuyển hóa thế giới uế ác này
thành ra “Tịnh độ ở chốn nhân gian” như đại sư Thái Hư đã nói.
-
Cuối cùng
nguyện cùng chư vị cùng phát tâm Bồ Đề cùng hành đạo Bồ Tát,
cùng chứng quả Bồ Đề.
--o0o--
|
|