|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Thuyết Bốn Ðế
- GS MINH CHI
- Chủ
nhiệm bộ môn
- Tôn
giáo học và Phật giáo sử
Việt Nam
-
Trường Phật học cao cấp Thành phố Hồ Chí Minh
- 1996
- ---o0o---
- BỐN ÐẾ
- Ðức Phật sau
khi thành đạo vài tuần dưới gốc cây Bồ Ðề, bèn lên đường đến
vườn Nai, ngoại thành Bénarès (Ba la Nại), thuyết pháp cho năm
người bạn đồng tu cũ, là các ông Kiều trần Như... được Phật lựa
chọn như là những người có khả năng nhứt để tiếp thu giáo lý đạo
Phật. Chủ đề của bài thuyết pháp đầu tiên của Phật là Bốn đế,
tức là bốn chân lý.
-
NỘI DUNG BÀI THUYẾT PHÁP ÐẦU TIÊN :
- Trong kinh "Chuyến
pháp Luân" có ghi lại bài thuyết pháp đầu tiên của Phật về Bốn
đế. Ðại khái như sau :
- "Này các Tỷ
kheo, sanh là khổ, già cũng là khổ, bịnh cũng khổ, chết cũng khổ,
gần kẻ mình không ưa là khổ; xa người mình yêu cũng khổ, cầu
không được là khổ, chấp chặt năm uẩn là khổ. Như vậy khổ là một
chân lý thánh (Khổ Thánh đế).
- Lại nữa, này các Tỷ kheo ! Dẫn
tới luân hồi và tái sanh là lòng ham thích và thèm khát, nơi nào
ham thích đều thèm khát mong cầu, đó là chơn lý thánh về nguyên
nhân của sự khổ (Khổ tập thánh đế).
- Lại nữa, này
các Tỷ kheo ! Xa lìa, đoạn trừ lòng ham thích, thèm khát nói
trên, giải thoát không còn vưóng mắc, đó là chơn lý thánh diệt
khổ (Khổ diệt Thánh đế).
- Lại nữa, này các Tỷ kheo ! Tám
con đường đạo chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là con dường
diệt Khổ (Khổ diệt dạo thánh đế)
-
BA GIAI ÐOẠN NHẬN THỨC VÀ THỰC HÀNH
THUYẾT BỐN ÐẾ :
- Ðối Với
thuyết Bốn đế, giai doạn đầu tiên của người tu học là :
- (1). Thông
suốt về mặt lý luận, nhận thức bốn đế là chơn lý không sai.
- (2). Giai
đoạn hai là căn cứ vào nhận thức lý luận đó, mà có hành động
thực tiễn hằng ngày, về ý nghĩ, cũng như về lời nói và hành động,
không bao giờ sai chệch.
- (3). Trên cơ
sở thực hành được sự nhứt trí giữa lý luận và thực tiễn, con
người đạt tới chỗ hoàn thiện về nhân cách.
- Sách Phât gọi đó là
ba lần chuyển. Lần chuyển thứ nhứt là khai thị cho người nghe
thấy được đạo lý (sau này, luận A Tỳ Ðàm gọi là kiến đạo), lần
chuyển thứ hai gọi là khuyến khích người nghe sống và ứng xử
theo đúng đạo lý đã được nghe (Luận A Tỳ Ðàm gọi là tu đạo) và
giai đoạn ba là người tu đạo đạt tới thánh quả Vô lậu và được
giải thoát. Luận A Tỳ Ðàm gọi là chứng đạo, người tu hành chứng
đạo trở thành bậc Thánh vô lậu tức A La Hán. Vô lậu nghĩa là
không còn khuyết điểm sai sót gì nữa.
-
THUYẾT BỐN ÐẾ VÀ LÝ DUYÊN KHỞI :
- Trong bốn đế
thì hai đế khổ và tập nói về sự khổ và nguyên nhân của sự khổ,
giải thích quá trình lưu chuyển sinh tử của con người từ đời này
sang đời khác. Gọi chung là duyên khởi của sự lưu chuyển hay
luân hồi.
- Còn hai đế
diệt và đạo, nói về cảnh giới lý tưởng đoạn trừ mọi nỗi khổ (tức
Niết bàn) và nguyên nhân dẫn tới cảnh giới lý tưởng đó. Gọi
chung là duyên khởi của sự hoàn diệt.
- Khổ đế
: thuyết minh thế giới hiện thực đầy đau khổ.
- Tập đế
: căn nguyên của thế giới hiện tưọng dầy đau khổ.
- Diệt đế
: Thế giới lý tưởng giác ngộ và giải thoát, tức Niết bàn.
- Ðạo đế
: con đường đạo dẫn tới cảnh giới Niết Bàn.
-
BỐN ÐẾ VÀ NGUYÊN LÝ TRỊ BỊNH :
- Phàm phu là
người bịnh. Bịnh ấy là khổ, Phật là thầy thuốc. Thầy thuốc trước
hết chẩn đoán bịnh và tìm ra nguyên nhân của bịnh. Nguyên nhân
của bịnh là lòng thèm khát, chấp thủ. Phật chỉ cho thấy cảnh
giới lý tưởng không bịnh là Niết bàn, đồng thời cũng chỉ bày
phương thuốc chữa trị, là con đường đạo (Bát chánh đạo), dẫn tới
đoạn trừ mọi khổ não và chứng đạt cảnh giới lý tưởng Niết bàn.
- Về thuyết Bốn
đế, Tập A Hàm quyển 15 viết : "Thời ấy, Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ
kheo ! Có bốn thánh đế. Bốn Thánh đế là gì ? Khổ thánh đế, Khổ
tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ diệt đạo tích thánh đế. Này
các Tỷ kheo, ở Khổ thánh đế, nên biết, nên hiểu. Ở tập Thánh đế
nên biết nên đoạn. Ở khổ diệt thánh đế, nên biết nên chứng. Ở
khổ diệt đạo tích thánh đế, nên biết nên tu !"
- Một câu hỏi :
sao lại viết "Khổ diệt đạo tích thánh đế" ?
- - Tích là dấu
vết. Thánh đế về dấu vết của đạo diệt khổ”.
- Trong kinh Niết bàn,
Thánh đế được gọi là chân đế. Trong phẩm "Phạm hạnh" viết : "Phật
nói với các Tỷ kheo ! Xưa, ta và các người, ngu si không có trí
tuệ, không có thể hiểu biết được như thực về bốn chân đế, do đó
mà trôi dạt mãi trong vòng sanh tử, chìm nơi biển khổ lớn. Bốn
chân đế ấy là gì ? Khổ, tập, diệt, đạo".
- Nghĩa chữ đế
: Ðế là chơn thực, không hư vọng. Sách Nghĩa Lâm Chương viết :
đế có nghĩa là thực. Sự là sự thực. Lý là lý thực. Cả lý và sự
đều không sai. Cho nên gọi là đế...
- Các Thánh dế
là các chơn lý, các nguyên lý chơn thực mà các bậc Thánh đã
chứng ngộ, là các chơn lý giúp chúng ta vượt qua địa vị phàm phu,
tiến lên hàng bậc thánh. Các tên gọi khác là bốn chân đế, hay
bốn đế pháp.
-
I. KHỔ ÐẾ :
- Chân lý về sự
khổ :
- Phương pháp
nhận thức của Phật là thực tiễn, tuyệt đối không có gì là siêu
hình hay thần thoại. Phật nói thẳng đời người khổ như thế nào :
già khổ, ốm khổ, sanh khổ, chết khổ, xa người mình yêu là khổ,
gần người mình không ưa là khổ, cầu không được là khổ... Ðấy là
những nỗi khổ rất thực tế mà ai cũng cảm nhận được, miễn là có
chút lương tri.
- Cách phân tích khổ
theo Phật giáo Nam Tông :
- Cuốn "Thanh
tịnh đạo luận" phân tích chi tiết thành 12 loại khổ :
-
1/ Sanh là khổ
-
2/ Già là khổ.
-
3/ Bịnh là khổ
-
4/ Buồn rầu (sorrow) là khổ
-
5/ Rên la là khổ (lamentation)
-
6/ Ðau đớn là khổ (pain)
-
7/ Ưu tư là khổ (grief)
-
8/ Thất vọng là khổ (despair)
-
9/ Gần gũi người mình ghét là khổ
-
10/ Xa người mình thương là khổ
-
11/ Không có được cái mình mong muốn là khổ
-
12/ Nói tóm lại, tức năm thủ uẩn là khổ.
- Ðiểm khác giữa sự
phân tích của Phật giáo Nam Tông với Phật giáo Bắc Tông là ở các
điểm từ 4 đến 8, và cuối cùng là điểm 12, mà Bắc Tông thường gọi
là ngũ ấm xí thịnh khổ. Chúng ta sẽ bắt đầu từ điểm 4 buồn rầu
là khổ.
- (4) Buồn rầu,
bản dịch Anh ngữ của Thanh tịnh đạo luận gọi là sorrow và
Buddhaghosa (Hán dịch âm là Phật Âm) giải thích là nỗi buồn hun
cháy trong tâm người, thí dụ khi có người thân qua đời, một nỗi
buồn liên tục và kéo dài.
- (5) Rên la là
khổ. Bản dịch Anh ngữ cuốn "Thanh tịnh dạo luận" gọi là
Lamentation, dịch là rên la, gào thét, tức một nỗi buồn bộc lộ
ồn ào. Buồn rầu đã là khổ rồi, buồn rầu thêm kêu gào, rên la lại
càng khổ hơn.
- (6) Ðau đớn
là khổ. Bản Anh ngữ cuốn "Thanh tịnh đạo luận" dịch là pain.
Phật âm giải thích là sụ đau đớn trong thân.
- (7) Ưu tư là
khổ. Bản Anh ngữ cuốn "Thanh tịnh đạo luận" dịch là grief, và
Phật âm giải thích là nỗi buồn trong tâm. Tâm bị o ép nặng nề.
Người ưu tư, tuy đau trong tâm, nhưng nhiều khi bộc lộ nỗi ưu tư
của mình bằng nhiều hành động như đấm ngực, ngồi rũ lưng, thậm
chí tự tử.
- (8) Thất vọng
là khổ. Bản Anh ngữ dùng từ despair. Là một tâm trạng suy sụp
tinh thần do một sự mất mát nghiêm trọng nào đó đem lại, trên
con đường tình yêu danh vọng, làm giàu.
- Phật Âm đưa ra ảnh
dụ sau đây để phân biệt : buồn rầu giống như nấu nước trên một
ngọn lửa cháy âm ỉ. Rên la giống như nước sôi reo trong bình.
Thất vọng giống như nước đã đun lên sôi rồi, và sôi cho đến khi
cạn.
- Mục 12 : Năm
thủ uẩn là khổ : Thủ là chấp thủ, nắm bắt làm của mình không
chịu buông tha. Năm thủ uẩn là chấp thủ năm uẩn cho nên khổ.
Trong "Thanh tịnh đạo luận" dưới mục này, viết : "Nói tóm lại,
năm thủ uẩn là đối tượng chấp thủ là khổ".
- Bắc tông dùng
khái niệm : Ngũ ấm xí thịnh khổ ý tứ là năm ấm, tức năm uẩn lớn
mạnh chi phối, đem lại khổ não. Lại có nghĩa, do con người có
năm ấm mà chịu nhiều nỗi khổ (cũng có sách viết là ngũ ấm thịnh
khổ). Khái niệm ngũ ấm xí thịnh khổ có trong các kinh Trung A
Hàm quyển 7 , Tăng nhứt A Hàm quyển 17, Du Già sư địa luận quyển
66, Ðại Trí Ðộ Luận quyến 23, Hiến dương Thánh giáo luận quyển
15...
- Khổ ở cõi ác :
- Bàn về cái
khổ ở các cõi khổ, cõi ác, sách nói tới địa ngục, nơi khổ cùng
cực, một ngày một đêm có tới vạn lần chết, vạn lần sanh : có tám
địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, ở đấy có cái khổ núi tua tủa
giáo, lá cây là kiếm. Cõi quỷ đói thì bụng thường bị đói vì bụng
to như cái trống, cuống họng thì bé như cái kim, bị đao chém gậy
đánh. Cõi súc sanh thì có cái khổ ăn thịt, cấu xé nhau, con thú
mạnh ăn tươi nuốt sống con thú yếu. Cõi Tu la có cái khổ hay
nóng giận và đánh nhau.
- Khổ ở cõi
nguời và cõi Trời :
- Cõi người có
tám khổ, có cái khổ thiên tai, đói kém, ôn dịch... đao bịnh.
- Ở cõi Trời
Dục giới có cái khổ, khi hưởng hết phúc phải đọa xuống các cõi
sống thấp hơn, khổ hơn. Ở cõi Ðịa cư thiên có cái khổ phải chiến
tranh với A tu La; ở cái cõi Trời Vô sắc, vẫn còn "hành khổ" tuy
có thọ mạng lâu 6 vạn kiếp, nhưng rồi cũng trở lại luân hồi
trong các cõi.
-
II. TẬP ÐẾ
- Nội dung của
Tập đế, chân lý về nguyên nhân của Khổ là phiền não và nghiệp.
Từ sanskrit Samudaya có tiền tố sam nghĩa là tập, tích tập. Do
các phiền não tích tập khởi lên dẫn tới tạo nghiệp chồng chất.
- A. PHIỀN NÃO
- GIẢI THÍCH TỪ
NGỮ :
- S. Klesa
P.Kilesa, Hán dịch nghĩa là Hoặc, Trần lao (bụi trần làm cho con
người khổ sở). Nhiễm : làm dơ bẩn.
- Công năng của
phiền não là làm rối loạn thân tâm của chúng sinh, gây trở ngại
cho việc tu hành chứng đạo, thoát khỏi sanh tử, thể nhập Niết
bàn.
- CÁC TỪ ÐỒNG NGHĨA
VỚI PHIỀN NÃO
- Tùy miên
: Anusaya, ý tứ là phiền não có sẵn, nhưng dưới dạng tiềm ẩn
ở trong tâm người, chờ có nhơn duyên mới biểu hiện. Miên có
nghĩa đen là ngủ, nằm ngủ. Tùy có nghĩa là đeo đuổi, không tách
rời. Các phiền não nằm phục sẵn trong tâm chúng ta và luôn đeo
đuổi chúng ta. Khi phiền não biểu hiện thì sách Phật gọi là
triền, với nghĩa trói buộc chi phối S.parijavasthana
P.pariyutthana.
- Kết
S.samyojana : Chia thành 3 kết, 5 thượng phần kết , 5 hạ phần
kết , 7 kết, 9 kết, 10 kết...
- a/Ba kết : là
thân kiến, tức chấp cái thân này là Ta hay của Ta.
- Nghi (không
có niềm tin ở chân lý, lẻ phải) tướng của nghi là do dự, phân
vân.
- Giới cấm thủ,
thủ là chấp, bám lấy, không chịu buông ra. Có một số giới cấm vô
ích, phi lý có hại cho sức khỏe của thân, và sự lành mạnh của
tâm, nhưng có người vẫn cho là đúng, bám chặt vào không chịu
buông tha, thí dụ tin rằng ép xác làm khổ thân xác, như bò không
đi thẳng người, cả đời đứng 1 chân, còn chân kia treo lên...
Sống như vậy lầm tưởng sẽ được giải thoát và khi chết sẽ được
sanh lên cõi Trời.
- b/ Năm thượng
phần kết :
- 1)Sắc tham
; 2) Vô sắc tham ; 3) Trạo cử ; 4) Mạn ; 5) Vô minh
-
1) Sắc tham : là thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời sắc giới.
-
2) Vô sắc tham : thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời Vô sắc. Ở
đây cần phải chú ý là, theo đạo Phật cuộc sống ở hai cõi Trời
Sắc giới và Vô Sắc giới tuy sung sưóng hơn rất nhiều so với cõi
Người , nhưng vẫn chưa phải là ra khỏi được vòng luân hồi sanh
tử, chưa được giải thoát, chưa phải là cảnh giới Niết bàn.
-
3) Trạo cử : thân tâm lăng xăng, không yên.
-
4) Mạn : kiêu ngạo.
-
5) Vô minh : tức là si.
- Năm kết sử
này, vừa nặng nề vừa nhỏ nhiệm, nên khó đoạn phải chứng quả A La
Hán mới được trừ hết (cho nên gọi là Thượng phần Kết, tức là
loại kết sử cao cấp) cũng gọi là 5 độn sử. Theo Hữu bộ, tham,
sân, si, mạn, nghi là 5 độn sử.
- c) Năm hạ
phần kết
- (Kết sử hạ
cấp, vì thô cho nên dễ đoạn trừ hơn, so với thượng phần kiết sử)
-
1) Dục tham
-
2) Sân giận
-
3) Thân kiến (chấp thân 5 uẩn này là Ta hay của Ta). Vì vậy cũng
gọi là hữu thân kiến, hay ngã kiến.
-
4) Nghi
-
5) Giới cấm thủ.
- Chứng được
quả A Na Hàm (quả Thánh thứ ba) thì đoạn hết 5 hạ phần kết sử
này (cũng gọi là 5 lợi sử).Theo hữu bộ, thân kiến, biên kiến, tà
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là 5 lợi sử.
- d/ Bảy kết
:
-
1) Dục tham
-
2) Sân giận
-
3) Tà kiến
-
4) Nghi
-
5) Mạn
-
6) Hữu tham (tham muốn tồn tại)
-
7) Vô minh.
- e/ Chín
kết :
-
1) Ái ; 2) Sân giận ; 3) Mạn ; 4) Vô minh ; 5) Kiến (tà kiến);
-
6) Giới cấm thủ ; 7) Nghi ; 8) Tật (ghen ghét) ; 9) Xan (keo
kiệt).
- f/ Mười
kết :
- (Trong chín
kết nói trên, chia Ái làm hai: Dục tham và Hữu tham).
- Cái:
S.Nivarana. Cái ngăn che.
- Năm cái : Dục
tham, sân giận, hôn trầm thụy miên (viết tắt là hôn miên), trạo
hối (cũng gọi là trạo cử) và nghi. Nhập sơ thiền thì bỏ được 5
cái nói trên.
- Ách : cái ách
bò, tròng vào cổ con bò, phiền não cũng như ách bò, nhưng tròng
vào cổ người (S. Yoga) ách = Dục hữu, kiến, vô minh.
- Lậu :
S.Asrava, Rasava (sai sót, khuyết điểm) có ba lậu : Dục lậu :
sai sót vì đam mê dục vọng; Hữu lậu, sai sót vì đam mê tồn tại ở
2 cõi trời sắc và vô sắc; Vô minh lậu, sai sót vì ngu si.
- Bộc lưu :
S.Ogha : giòng chảy xiết. Có bốn Bộc lưn là : dục tham, hữu tham,
kiến (tà kiến, vọng kiến), vô minh.
- Hệ : trói
buộc, S.grantha P.gantha, các từ có nghĩa tưong tự là Hệ phược,
kết phược.
- Có bốn hệ :
Dục, hữu, kiến, vô minh.
- Ngoài ra, có
các từ Tam hỏa (3 ngọn lửa), Tam cấu (ba cái nhơ bẩn), Tam độc (ba
độc).
- Cụ thể tức là
tham dục, sân giận và ngu si.
- Tiễn : mũi
tên. Phiền não ví như mũi tên.
- Trù lâm :
rừng rậm. Phiền não nhiều như rừng rậm.
- Kết phược :
phiền não kết liền lại, kết tụ lại để trói buộc chúng sanh.
S.jata.
- Tăng thịnh :
S.Utsada, Ussada; phiền não và dục vọng, càng tìm cách thỏa mãn
chúng, thì chúng càng tăng trưỏng.
- Người tu hành, khi
chứng quả Tu đà hoàn (tức là quả Dự lưu hay Sơ quả) thì đoạn trừ
đuợc ba phiền não là thân kiến, nghi và giới cấm thủ.
- Khi chứng quả
A Na Hàm tức là quả Bất Lai thì đã đoạn hết mọi phiền não thuộc
Dục giới, tức đoạn hết năm hạ phần kiết sử, đến quả A La Hán thì
đoạn luôn năm thượng phần kiết sử, (tức là mọi phiền não của Sắc
giới và Vô sắc giới).
- Các bậc Thánh
gọi là 4 đôi, 8 chúng theo kinh nguyên thủy. Bốn đôi đồng nghĩa
với tám chúng :
-
1. Hướng tới Tu Ðà Hoàn (Sơ quả, 1 đôi, cũng gọi là Dự Lưu)
-
2. Ðã chứng Tu Ðà Hoàn– 2 đôi.
-
3. Hướng tới Tu Ðà Hàm (Nhất lai)
-
4. Ðã chứng Tư Ðà Hàm–3 đôi
-
5. Hướng tới A Na Hàm.
-
6. Ðã chứng A Na Hàm– 4 đôi
-
7. Hướng tới A La Hán.
-
8. Ðã chứng A La Hán.
- Quá trình tu
chứng bốn quả Thánh : Tu đà Hoàn, Tư đà Hàm, A Na Hàm, A la Hán
chia làm ba giai đoạn: Kiến đạo vị - Tu đạo vị - và Cứu kính vị.
Vị là quả vị. Quả vị cứu kính là quả A La Hán.
- Trong giai đoạn Kiến
đạo thì đoạn trừ kiến hoặc, tức là mọi mê lầm, mê hoặc trong
kiến giải, nhận thức, đồng thời đoạn trừ mọi phiền não, gắn với
kiến hoặc. Trong giai đoạn tu đạo, thì đoạn trừ mọi tu hoặc.
Ðoạn hết kiến hoặc và tư hoặc thì sẽ chứng quả A La Hán. Tư hoặc
cũng gọi 1à Tu hoặc là những mê lầm chỉ có hành trì tu trì mới
đoạn trừ được.
- Phân biệt kiến hoặc
và tư hoặc :
- Kiến hoặc là
mê lầm về lý luận, về kiến giải. Những mê lầm này không phải bẩm
sinh, mà do học tập sai lầm, học không đến nơi đến chốn mà có.
Nếu được nghe chánh pháp, gần bạn lành, thì sẽ đoạn trừ được
kiến hoặc. (Vì vậy mà cũng gọi là Lợi sử, Sử là hoặc, phiền não).
Tư hoặc là phiền não bẩm sinh, rất khó doạn trừ, mặc dù biết
chúng là sai lầm đưa đến khổ não. Vì đó là sai lầm đã thành thói
quen phải tu hành lâu dài, kiên trì, mới trừ bỏ được, cho nên
cũng gọi chúng là độn sử, tức kiết sử trì trệ, khó đoạn.
- Thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là năm lợi sử (5 hạ
phần kiết).
- Tham, sân, vô minh (si), mạn,
nghi là năm độn sử (năm thượng phần kiết).
- Sáu loại, mười loại
phiền não căn bổn :
- Trong kiến
hoặc và tư hoặc, cái chủ yếu là các phiền não căn bổn. Các sách
phân biệt có sáu loại và 10 loại phiền não căn bổn. Trong số này,
tham, sân, si là ba loại nổi bật nhứt, đứng hàng đầu, và trong
ba loại này, thì si cũng gọi là vô minh là căn bản nhứt. Ví dụ,
trong 12 nhơn duyên, vô minh được xếp hàng đầu.
- Sáu loại
phiền não căn bổn sắp xếp như sau :
- 1/ Tham ;
2/ Sân ; 3/ Si (vô minh) ; 4/ Mạn ; 5/ Nghi ; 6/ Kiến giải sai
lầm (gọi tắt là kiến).
- Kiến giải sai
lầm thường gọi tắt là kiến và phân tích thành năm mục :
-
- Thân kiến
-
- Biên kiến,
-
- Tà kiến,
-
- Kiến thủ,
-
- Giới cấm thủ
- Tổng hợp lại
thành 10 phiền não căn bổn (do kiến tách thành năm loại kiến).
Trong 10 phiền não căn bổn liệt kê trên đây thì tham, sân, si,
mạn là tư hoặc. Nghi và kiến là kiến hoặc.
- Tư hoặc cũng
có 10 loại : 4 loại ở Dục giới, 3 loại ở sắc giới và 3 loại ở vô
sắc giới.
- Ở Sắc giới và
Vô sắc giới không còn có sân, chỉ có tham, si, mạn, tống cộng là
10 tư hoặc:
-
Tham, sân, si, mạn ở Dục giới
-
Tham, si, mạn ở Sắc giới,
-
Tham, si, mạn ở Vô sắc giới.
- Tám mươi tám
kiến hoặc : là tổng số kiến hoặc ở ba giới. Ðây là cách phân
chia của A Tỳ Ðàm, chi ly và phức tạp cho nên không thể bàn ở
đây.
- Tám mươi mốt
tư hoặc : đem sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp thiền
sắc giới. Ðem Vô sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp
thiền của vô sắc. Và mỗi cấp như vậy lại chia thành ba cấp vị :
thượng, trung, hạ : chín cấp. Mỗi cấp có chín vị. Tổng cộng
thành 81 Tư hoặc.
- Các cách xếp
loại phiền não:
- Về xếp loại
phiền não, môn Duy thức học có sự xếp loại hoàn chỉnh hơn, lập
thành biểu như sau:
- Phiền não căn
bổn (6) :
- 1.Tham; 2.
Sân; 3. Si; 4. Mạn ; 5. Nghi ; 6. Kiến.
- Tùy phiền não (20) : chia làm :
- Tiểu tùy
phiền não (10).
- 1.Phẫn; 2.
Hận; 3. Phú; 4. Não; 5. Tật; 6. Xan; 7. Cuống; 8. Siểm ; 9. Kiêu
; 10. Hại ;
- Trung tùy
phiền não (2) : 11. Vô tàm; 12. Vô quý.
- Ðại tùy phiền
não : (8)
- 13. Hôn
trầm; 14. Trạo cử; 15. Bất tín; 16. Giải đãi (lười); 17. Phóng
dật (buông thả, phóng túng); 18. Thất niệm (hay quên, không nhớ
điều thiện, điều phải); 19. Tán loạn; 20. bất chánh tri.
- Dưới dây sơ
lược giải thích từng món phiền não :
- Căn bổn phiền
não :
- 1. Tham : (S.Lobha,
raga, abhidhya. P.abhijjha) cũng gọi là ái, S.trsna, P.tanha).
- Lòng tham ở
cõi Trời Sắc giới gọi là Sắc tham.
- Lòng tham ở
cõi Trời vô sắc gọi là Vô sắc tham.
- 2. Sân :
S.dvesa, dosa, pratigha. P.patigha, vyapada, tức là tỏ thái độ
cự tuyệt, phản kháng đối với điều mình không hoan hỷ, thích thú.
Các tùy phiền não phẫn, hận, hại, đều thuộc phạm vi của sân.
Phẫn S.Krodha P.Kodha là giận dữ đến mức độ kịch liệt. Hận
Upanaha, là giận ôm ấp trong lòng, như nói oán hận. Hại,
vihimasa do giận mà có hành vi hại người, hại vật.
- 3. Mạn : Mana,
tức là đề cao mình, hạ thấp người khác xuống, xem mình là trung
tâm của tất cả. Sách Phật phân biệt ba mạn : Ngã thắng mạn,
Alimana. Là tự cho mình hơn người. Ngã đẵngmạn, tự cho mình bằng
người, Mana. Ngã liệt mạn, tự cho mình kém người (một cách không
thực), avamna, cũng gọi là ty mạn hay ty hạ mạn.
- Có sách phân biệt 7
mạn :
-
1/ Mạn,
-
2/ Quá mạn,
-
3/ Mạn quá mạn, maha-timaha
-
4/ Ty mạn
-
5/ Tăng thượng mạn, Manatimana, adhimana.
-
6/ Ngã mạn asmimana.
-
7/ Tà mạn, mithymana, micchamana.
- Trong tùy phiền não,
có kiêu, mada thường dùng trong hợp từ kiêu mạn. Tuy nhiên, mạn
khác với kiêu là so với người, cho rằng mình hơn gọi là mạn. Còn
kiêu là một sự tự hào, không có so sánh với người khác.
- 4. Vô minh :
S.Avidya, P.Avijja. Cũng gọi là ngu si, moha, là không hiểu biết
hay là hiểu biết sai sự lý của duyên khởi, của bốn đế.
- 5. Kiến :
S.Drsti P.ditthi, tức là mọi kiến giải sai lầm. Hữu bộ phân biệt
có năm loại kiến :
-
a/Thân kiến : S.satkaya drsti, P.sakkayaditthi. Tức là thấy có
thân của ta, cũng dịch âm là Tất cả gia kiến. Chấp năm uẩn là
Ta, là của Ta.
-
b/ Biên kiến: Antagraha drsti. Pantaggaha ditthi. Cũng gọi là
biên chấp kiến. Nghĩa là có thái độ cực đoan, tuyệt đối chấp vào
một bên, như chấp thế gian là thường còn hay đoạn diệt, vũ trụ
là hữu biên hay vô biên...
- c/ Tà kiến :
S.mithya drsti P.Miccha ditthi, nghĩa rộng là mọi kiến giải tà
ác, sai lầm. Nhưng ở đây chỉ cho 10 tà kiến là không bố thí,
không cúng dường, không tế tự, không thiện ác, và quả báo, không
đời này, không đời sau, không cha, không mẹ, không có hữu tình,
không có hóa sinh, không có người tu hành chứng quả.
-
Không chấp nhận lý nhơn quả là tà kiến tệ hại nhứt, ngoài ra còn
có các tà kiến khác như không chấp nhận có Tam bảo.
-
d/ Kiến thủ : S.arsti - paramasa, P.ditthi paramana, cũng gọi là
kiến thủ kiến. Tức là tự cho ý kiến của mình là đúng hơn tất cả,
ý kiến của các người khác đều là sai lầm, rồi chấp chặt vào ý
kiến đó.
-
e/ Giới cấm thủ kiến : S.Silata - paramana, P.Silabbata paramana.
Chỉ cho 1 số giới luật của ngoại dạo, như giới con chó, giới con
voi (giới ngồi chồm như chó, giới đi như voi...) Ngoại đạo cho
rằng sống khổ hạnh theo những giới đó thì sẽ được giải thoát
hoặc sanh thiên. Hữu bộ phân biệt có hai loại giới cấm thủ là :
-
(1) : Phi đạo kế đạo : không phải là đạo giải thoát mà chấp là
đạo giải thoát.
-
(2) Phi nhân kế nhân : Không phải là nhân sanh thiên mà chấp
nhân là nhân sanh thiên.
- 6/ Nghi :
- S. Vicikitsà
; P.Vickiccha, chỉ cho lòng hoài nghi Tam bảo, nghi nghiệp báo
thiện ác, nghi nhân quả ba đời, nghi thuyết bốn đế...
- Tùy phiền não (giới
thiệu những món chính).
- Xan : là keo
kiệt. Có năm loại keo kiệt là :
- Trú xứ xan :
keo kiệt về nơi ở. Gia lan : keo kiệt thu vén cho gia đình. Lợi
dưỡng xan : keo kiệt về lợi dưõng. Xưng thán xan : chỉ muốn một
mình mình được khen ngợi. Pháp xan : không muốn nói pháp cho
người khác được nghe.
- 11. Vô tàm :
Nội tâm không biết thẹn.
- 12. Vô quý :
Ðối với người không biết thẹn.
- 13. Hôn trầm
: tâm nặng nề, mê muội.
- 14. Trạo cử :
tâm căng thẳng, không định tỉnh, lăng xăng, không yên.
- 15. Giải đãi
: lười nhác, không siêng năng, tinh tấn.
- 16. Phóng dật
: buông thả, phóng túng.
- Quan hệ giữa
trí tuệ và phiền não :
- Phiền não gây
chướng ngại đối với đạo Thánh, đối với trí tuệ. Do dó, dùng trí
tuệ có thể đoạn trừ phiền não, đoạn trừ hết phiền não tức là
giải thoát, là Niết bàn là Bồ Ðề (giác ngộ).
--o0o--
|
|