|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Một -
Phật Bảo
Tiết IV
- Tuệ Giác của Thế Tôn
- --- o0o ---
- Như vừa đề
cập ở tiết III, sự tán thán Thế Tôn một cách chân chính là tán
thán Tuệ Ðức của Ngài. Ðể sự tán thán ấy có ý nghĩa, người Phật
tử cần hiểu rõ về Tuệ giác của Thế Tôn, hay trí tuệ của Thế Tôn
là gì? Ở đâu? Chính sự có mặt của Tuệ giác là sự phân biệt rõ
ràng giữa những gì gọi là Phật giáo với ngoại đạo. Ngoài Tuệ
giác ấy, Phật giáo không còn là Phật giáo, Tam Minh hay Lục
Thông là sự phân biệt đầu tiên giữa Phật giáo và ngoại đạo mà
người viết đề cập đến.
- Tam Minh (Tevijjà)
là: "Túc mệnh minh" (Thấy
rõ vô lượng kiếp của tự thân với tất cả nghiệp nhân và nghiệp
quả); "Thiên nhãn minh"
(Thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của chúng sanh, thấy rõ sự sinh
tử của chúng sanh với tất cả nghiệp nhân và nghiệp quả) và "Lậu
tận minh" (đoạn hết lậu hoặc, chứng vô lậu Tâm giải
thoát và Tuệ giải thoát) (Kinh Tam Minh, Trung Bộ II, Trung A-hàm
số 157).
- Kinh
Bà-sa-cù-đa Tam Minh (Tevijjà-Vacchagottasuttam, Trung Bộ Kinh;
Hán tạng: Kinh Tam Minh số 26) chép: "... Nếu nói rằng Sa-môn
Gotama là bậc Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Kiến, Ngài tự cho là có
trí kiến hoàn toàn, khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ, và khi
Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại và liên tục. Như thế là nói
một điều không thực về Ta. Nếu nói rằng Sa-môn Gotama là bậc có
ba Minh (với ý nghĩa rằng khi nào Thế Tôn muốn thì Túc mệnh minh
và Thiên nhãn minh mới khởi lên). Như thế mới không nói điều
không thật về Ta".
- Chính với
Thiên nhãn minh (hay cả ba Minh), Thế Tôn thấy và tuyên bố rằng:
"Không có một người tại gia nào không đoạn trừ kiết sử, sau khi
thân hoại, có thể diệt tận, khổ đau. Không phải một trăm, hai
trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm; nhưng nhiều hơn như thế là
những ngưòi tại gia không đoạn trừ kiết sử có thể sanh Thiên".
- Nhưng đối với
hành tà mạn ngoại đạo thì Thế Tôn dạy: "Không có một vị tà mạn
ngoại đạo nào, sau khi thân hoại, có thể diệt tận, khổ đau, và
dầu cho Ta nhớ đến chín mươi mốt kiếp, Ta không thấy một vị tà
mạn ngoại đạo nào được sanh Thiên, trừ một vị, vị này thuyết về
nghiệp và thuyết về tác dụng của nghiệp".
- --"Sự việc là
như vậy, này Vaccha, thời ngoại đạo giới này là trống không, cho
đến vấn đề sanh Thiên".
- Kinh
Bà-sa-cù-đa Tam Minh; Kinh Bà-sa-cù-đa Hỏa Dụ (Trung Bộ Kinh
III); Kinh Xuất Gia (Ðại II, 246b, Ðại II 446a, Hán tạng) xác
nhận rằng, nếu muốn thì các đệ tử của Thế Tôn có thể chứng Tam
minh (hay Lục thông) ngay trong hiện tại.
- Ðiểm đặc sắc
thứ hai nổi bật của Thế Tôn giữa các ngoại đạo là nói lên vị trí
độc tôn cuả Ngài với mười Như Lai lực:
- - Như Lai như
thật, biết xứ phi xứ.
- - Như Lai như
thật, biết các quả báo tuỳ thuộc sở do, sở nhân của các hành
nghiệp quá khứ, vị lai và hiện tại.
- - Như Lai như
thật, biết con đường đưa đến các sanh thú.
- - Như Lai như
thật, biết mọi thế giơi với mọi sai biệt của chúng.
- Như Lai như thật biết sự hiểu biết sai biệt của các loài hữu
tình.
- - Như Lai như
thật biết các tâm tánh sai biệt của tất cả chúng sanh.
- Như Lai như thật biết các tạp nhiễm, thanh tịnh, xuất khởi của
các Thiền chứng vềThiền, về giải thoát và về định.
- - Như Lai
chứng Túc mệnh minh.
- - Như Lai
chứng Thiên nhãn minh.
- - Như Lai
chứng Lậu tận minh.
- Chính do mười
Như Lai lực này mà Thế Tôn cất tiếng rống sư tử giữa các hội
chúng và chuyển xe Pháp (Tăng Chi Bộ kinh V, Phẩm Mười Pháp).
- Truyền thống
Bắc và Nam tạng đều tán dương Thế Tôn về mười "Như Lai lực" và
mười "hiệu Như Lai". Ở mười hiệu Như Lai, Thế Tôn hiện rõ là bậc
Vô thượng về đức, tuệ và giáo hóa. (Như Lai, ứng Cúng, Chánh
Biến Trí, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).
- Từ đây, chúng
ta đã có thể thấy được: Tuệ giác vô thượng của Thế Tôn, một tuệ
giác không thể tìm thấy trong bất cứ một hệ thống tôn giáo, tư
tưởng ngoại đạo nào, trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
- Ở quả chứng
Tam minh, đây là quả chứng của Tuệ giải thoát thuộc Thiền quán (Vipassana).
Nói rõ hơn, Ấn Giáo có tư duy về tiểu ngã và đại ngã, nhưng
không có nhìn bằng con mắt "duyên sinh", nghĩa là không có Thiền
quán. Ðặc điểm của Thiền quán Phật giáo là phân tích các pháp
qua mười hai nhân duyên (qua Duyên khởi). Tại đây, có hai điểm
giáo lý giải thoát đặc biệt của Phật giáo không tìm thấy ở ngoại
đạo.
-
1. Giáo lý Duyên khởi:
- Giáo lý này
do Thế Tôn tự thân khám phá. Từ đó, Thế Tôn đắc Vô Thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
- Qua Duyên
khởi, Thế Tôn dạy toàn bộâ khổ uẩn là do Mười hai nhân duyên
sinh khởi (Tập khởi) và toàn bộ khổ uẩn diệt là do Mười hai nhân
duyên diệt. Nói khác đi; gốc của sanh tử, khổ đau chính là vô
minh, hay ái hoặc thủ... Sự khám phá này không có trong bất cứ
một hệ thống giáo lý ngoại đạo nào.
-
2. Từ "Duyên sinh":
- Thế Tôn tuyên
bố: "Hết thảy các Pháp là vô ngã", "Hết thảy các hành là vô
thường và khổ đau" (Dhp, 277, 278, 279). Ðây gọi là "Ba Pháp ấn".
- Nhìn thấy các
pháp (hữu vi và vô vi) đều vô ngã (anatta) là cái nhìn độc đáo
nhất trong lịch sử của tôn giáo và triết học, gây sửng sốt cả
thế giới.
- Chính gốc của mọi khổ đau, mọi
tranh chấp, mọi tù ngục là sự chấp trước ngã, là ý niệm sai lầm
về ngã. Cái nhìn vô ngã của trí tuệ vô ngã của Thế Tôn quả nhiên
là cái nhìn giải phóng khổ đau, tù ngục... Chính ở đây, chúng ta
nhận ra Tuệ giác của Thế Tôn.
- Chỉ khi nào loại trừ hết vô minh,
ái, thủ thì cái nguyên nhân đưa đến sinh tử (các lậu hoặc) mới
bị chặt đứt, và bấy giờ mới đắc "Lậu tận minh", một quả vị hoàn
toàn không thể có ở ngoại đạo.
- Từ điểm khác
biệt nền tảng này, phát sinh rất nhiều điểm khác biệt nổi bật
khác, nói lên sắc thái độc đáo gọi là Phật giáo. Ðấy là con
đường trí tuệ của nhận thức vô ngã, của thực tại vô ngã, mà
không phải là của Hữu thần, Nhất thần, Ða thần, hay Phiếm thần,
cũng không phải là sản phẩm của giáo lý "mặc khải" từ một đấng
tối cao nào. Ðây là con đường hoàn toàn của trách nhiệm tự thân,
của tự độ, tự giác, mà không phải của sự ban ân cầu nguyện,
thưởng phạt, bùa chú hay hành xác nào. Ðây là con đường vắng mặt
chủ trương "Duy Tâm", "Duy linh", "Duy vật", "Duy thần" v.v...,
và là con đường của Duyên sinh vô ngã. Nếu phải miễn cưỡng gọi
nó là Duy thức, Duy linh, Duy vật v.v... thì phải hiểu rằng Thức,
Linh, Vật v.v... ấy là vô ngã, khác hẳn với chủ trương của ngoại
đạo. Ðây là con đường cho rằng gốc của sanh tử, khổ đau và ái,
thủ, vô minh, mà không phải là gì khác của thế giới bên ngoài. Ở
đây không chủ trương rằng cuộc đời này là hoàn toàn mộng ảo, phi
thực, cần phải từ bỏ để đi tìm cõi chân thực ở bên kia thế giới,
mà chỉ chủ trương loại bỏ ái, thủ, vô minh. Tất cả đều là phi
thực, nếu vướng mắc ai, thủ, vô minh... Tất cả đều là chân thực,
nếu xa rời hẳn ái, thủ, vô minh.
- Nói tóm, con
đường Tuệ giác vô ngã của Thế Tôn là con đường "Trung đạo" của
hai mặt: nhận thức và hành động.
- Từ nghĩa "Trung
đạo" ấy, Thế Tôn vạch mở lối đi "Bát Thánh Ðạo", con đường đi
vào giải thoát, rốt ráo dứt sạch sinh tử, khổ đau.
- Ðây là điểm
giáo lý độc đáo khác của Phật giáo mà không thể tìm thấy trong
bất cứ hệ thống giáo lý nào khác. Con đường này xây dựng trên
căn bản của Giới (gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng),
Ðịnh (gồm Chánh Tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định) và Tuệ (Gồm
Chánh Kiến và Chánh Tư duy) do từ chính Tuệ giác của Thế Tôn.
- Tự mình chứng
nhập chân lý mà trước đó chưa từng có người chứng (trừ chư Phật
quá khứ) là một sự kiện biểu hiện Tuệ giác vô thượng, nhưng tự
mình mở đường cho hàng đệ tử chứng nhập chân lý cũng là một sự
kiện của Tuệ giác vô thượng.
- Từ đây, chúng
ta sẽ hiểu rõ rằng từ Tuệ Giác vô thượng, Thế Tôn thiết lập giáo
lý giải thoát của Ngài, nên từ giáo lý ấy, ta có thể tìm thấy
Tuệ giác vô thượng kia. Ðó là những gì có mặt trong Giới, Ðịnh,
Tuệ, Giải thoát, và Giải thoát tri kiến.
- Giới, được xây dựng trên cơ sở
của chánh trí và từ bi, nhằm mục đích đem lại an lạc, hạnh phúc
cho mọi loài trong hiện tại và tương lai. Căn bản của Giới là
Giới bổn Patimokha (Skt. Pratimoksa), Hán dịch là
Ba-la-đề-mộc-xoa (hay Biệt giải thoát, hoặc Xứ giải thoát). Ðấy
là sự giải thoát do nhiếp phục các hành động của thân, lời và ý,
là kết quả của Tuệ giác của Thế Tôn.
- Về Ðịnh, hay
Thiền định, có thể nói Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (Ðạo đế) như là
giáo lý của Ðịnh, là con đường đưa đến loại trừ hết khổ đau. Con
đường nầy được thiết lập trên căn bản của Giới (Tương Ưng Bộ
Kinh, IV), như các loài động vật di chuyển trên nền tảng đất.
- Các giáo lý
về Tuệ như Duyên khởi, Vô ngã, Năm uẩn, Nhân quả, v.v... thì
nhắm đến ly tham, đoạn trừ các lậu hoặc.
- Toàn bộ giáo
lý đạo Phật thực sự đều đưa đến ly tham, ly sân, ly si, giải
thoát và tri kiến giải thoát. Tất cả đó phải là sản phẩm của Tuệ
giác vô thượng, của một sự chứng nhập Pháp giới táng vô thượng.
Trí tuệ ấy Thế Tôn đạt được ở thời điểm gọi là Thành Ðạo, thành
Phật hay đắc Niết-bàn.
- Chúng ta hãy
tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa của Thành Ðạo, thành Phật, Niết-bàn
trong các tiết mục tiếp theo./.
--o0o--
|
|