-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Khái Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Một - Phật Bảo
Tiết V
- Phật - Niết-bàn - Thành Ðạo
- --- o0o ---
- Danh từ Phật
thường để chỉ đức Thế Tôn, chư Phật quá khứ và vị lai.
- Ðức Thế Tôn
được gọi là Phật sau khi Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ-đề,
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
- - Phẩm "Song
song" (Phần Chánh giác, Tương Ưng IV) định nghĩa Phật rằng
- "Cho đến khi
nào, này các Tỷ-kheo, đối với 6 nội xứ (6 căn), Ta đã như thật
liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, và xuất ly là
xuất ly, thì khi ấy, đối với thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, đối với quần chúng gồm Sa-môn, Bà-la-môn, chư
thiên và loài người, Ta xác chứng: Ta đã chứng Vô Thượng Chánh
Ðẳng Giác".
- - Tương Ưng
Bộ Kinh IV, phẩm "An ổn khỏi các khổ ách" định nghĩa:
- " Này các
Tỷ-kheo, có những sắc do mắt (... tai, mũi, lưỡi, ...) nhận biết
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Những
sắc ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như
cây ta-la, khổng thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương
lai. Do vậy, Như Lai được gọi là vị đã được an ổn khỏi các khổ
ách".
- - Tương Ưng
Bộ Kinh I, phẩm "Cây Lau" định nghĩa Thế Tôn như là vị đã đoạn
trừ hoàn toàn chấp thủ, vượt qua được bộc lưu (dòng sinh tử,
dòng tham ái):
- "Không đứng
lại, không bước tới. Ta vượt qua bộc lưu" (Vị Thiên giải thích:
Không bước tới, không đứng lại là vượt chấp trước ở đời. Thế Tôn
chấp nhận).
- - Tưong Ưng
Bộ Kinh III, phẩm "Tham Luyến", phần "Chánh Ðẳng giác" định
nghĩa:
- "Như Lai, này
các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly sắc (thọ,
tưởng, hành, thức), ly tham, đoạn diệt, được gọi là bậc giải
thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng giác".
- Cùng trong
phẩm kinh này, Thế Tôn phân biệt sự khác biệt giữa Thế Tôn và
các đệ tử A-la-hán như vầy:
- "Như Lai, này
các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên
con đường trước kia chưa khởi, là bậc đem lại con đường trước
kia chưa được đem lại, là bậc truyền thuyết con đường trước kia
chưa được tuyên thuyết, bậc trí đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục
về đạo. Còn các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục
thành tựu đạo".
- - Tiểu Bộ
Kinh, kinh "Phật Thuyết Như Vậy" có một số định nghĩa về Phật,
Như Lai một cách đặc biệt:
- "Này các
Tỳ-kheo, từ đêm Như Lai chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác đến
đêm Ngài nhập Vô dư y Niết-bàn, trong thời gian ấy, điều gì Ngài
nói, tuyên bố đều là thật, tất cả là như vậy, không có khác được.
Do vậy được gọi là Như Lai".
- "Này các
Tỷ-kheo, Như Lai nói gì làm vậy, làm gì nói vậy. Vì rằng nói gì
làm vậy, làm gì nói vậy nên được gọi là Như Lai".
- "Trong toàn
thế giới... Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, bậc
toàn trí, toàn kiến, đại tự tại, do vậy được gọi là Như Lai"
(1).
- Kinh điển vẫn
thường gọi Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng giác. Như vậy,
Thế Tôn cũng là một vị A-la-hán, nhưng ở cương vị của một vị
giáo chủ, Ðạo sư. Các bậc A-la-hán, đệ tử của Ngài là những vị
đi theo con đường giải thoát mà Ngài vạch mở. Ở mặt giải thoát,
tận trừ vô minh, ái thủ, lậu hoặc thì giữa Thế Tôn và các A-la-hán
không khác.
- Danh hiệu "ứng
Cúng" trong mười hiệu Như Lai, có nghĩa là một A-la-hán. Ở đây,
ta không nên cho rằng A-la-hán là quả vị thấp hơn quả vị Phật ở
mặt giải thoát.
- Kinh ghi lại
rằng: "Hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-Liên có khả năng lãnh
đạo Giáo chúng. Thế Tôn xác nhận, như chính Thế Tôn". Có quan
điểm cho rằng A-la-hán là "Thanh văn tiểu quả".Ðây chỉ là sự ngộ
nhận về nội dung chứng đắc của A-la-hán. Phật và A-la-hán đều
thuộc cảnh giới vô phân biệt, nếu ở đó còn có mặt của cái nhìn
cao thấp, hơn kém, thì đấy là điều không thể quan niệm được. Ðã
đến lúc chúng ta cần chấm dứt sự đánh giá quá thấp về nội dung
chứng đắc của các Sa-môn quả.
- Truyền thống
của Phật giáo Việt Nam, qua thời kinh Sám hồng danh, rõ là đã
xem sự chứg đắc giải thoát của Phật và A-la-hán không khác:
- "Con nay
không cầu phước báo của Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác, cho
đến phước báo Bồ-tát, mà chỉ phát tâm cầu quả Phật". Liền đó
niệm đến mười hiệu Như Lai "Nam-mô Như Lai, ứng cúng...".
- Bây giờ chúng
ta đi vào định nghĩa Phật, Như Lai của Bắc tạng.
- Các nhà học
giả Phật giáo thường xem Bát-nhã như là tinh yếu của giáo lý Bắc
tạng. Các Tông Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Pháp Hoa cũng chỉ chứa đựng
giáo nghĩa đó; mỗi tông chỉ khác nhau ở quan điểm thể hiện và
truyền bá giáo lý ở mặt rộng, mà không khác ở chiều sâu. Bát-nhã
Tâm Kinh được xem là bài Kinh cô động giáo lý tinh yếu đó, mà
câu "Quán tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời,
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách" gói trọn
được nội dung của Bát-nhã. Nội dung ấy là bằng Thiền Quán thấy
rõ năm uẩn là vô ngã (không) thì vượt qua được mọi khổ ách. Trở
về định nghĩa Như Lai của Thượng tọa bộ như vừa trình bày, thì
nội dung quả vị Như Lai giống như nội dung được trình bày ở Bắc
tạng, nội dung giải thoát đó không khác với nội dung giải thoát
của một A-la-hán.
- Kinh Kim
Cương định nghĩa về Như Lai rằng: "Vô sở tùng lai diệc vô sở khử"
hoặc "Như Lai tức nhất thiết pháp như nghĩa" hoặc "Nhất thiết
pháp giai thị Phật pháp" hoặc "Nhược Bồ-tát thông đạt vô ngã
pháp giả, Như Lai thuyết danh chơn thị Bồ-tát".
- Như Lai ở đây
được hiểu như là thực tướng, thực nghĩa của các Pháp, hay là một
vị thể nhập vào thực tướng ấy. Thực tướng ấy thì vô ngã tướng,
rời hết thảy các tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả), rời hết
các tướng bị chấp thủ, hay rời khỏi mọi chấp thủ.
- Như vậy, Chánh pháp dù được
trình bày ở Bắc tạng hay Nam tạng, luôn luôn rời khỏi ái, thủ,
vô minh. Như Lai là bậc loại hết hoàn toàn chấp thủ. Ðây chính
là điểm giáo lý truyền thống của Phật giáo.
- Từ đây, chúng
ta có thể đi đến kết luận rằng: Nam tạng không phải là cỗ xe
nhỏ (Tiểu thừa), Bắc tạng không phải là giáo lý phi truyền thống
Phật giáo.
- Từ sự tìm
hiểu nội dung chứng ngộ giải thoát của Phật và A-la-hán được
trình bày qua các tông phái Phật giáo trên, đã đến lúc Phật tử
chúng ta cần chấm dứt ngay nhận định cho rằng "Tứ đế" là pháp
nhỏ của Thanh văn, "Thập nhị Nhân Duyên" là pháp nhỏ của Duyên
giác, cần chấm dứt ngay sự phân biệt Ðại, Tiểu thừa. Sự phân
biệt đó đi ngược với giáo lý truyền thống của Thế Tôn. Có chấm
dứt được sự phân biệt đó, Phật giáo mới có thể vận dụng một cách
đầy sáng tạo và hữu hiệu tinh thần khế cơ và khế lý đầy thiện
xảo của các Tông phái Phật giáo vào công cuộc hoằng dương Chánh
pháp trong hiện tại và mai sau.
- Bắc tạng có
chủ trương khác với Nam tạng, cho rằng quá khứ, trước Ðức Thích
Tôn, đã có vô số chư Phật mà không phải chỉ là sáu Thế Tôn; hiện
kiếp không phải chỉ có một mình đức Thích Tôn, mà các đệ tử của
Ngài cũng có thể thành Phật. Ðây là điểm khác biệt mang màu sắc
bộ phái, sẽ được bàn thêm ở chương Pháp Bảo.
- Dù Thế Tôn
được định nghĩa dưới hình thức nào, nội dung vẫn được giữ nguyên
ý nghĩa: Thế Tôn là bậc đã giác ngộ hoàn toàn, thấy rõ thực
tướng của hết thảy các pháp, đã an ổn thoát khỏi mọi khổ ách
sanh tử.
- Chúng ta cũng
có thể hiểu Thế Tôn như là một đấng Toàn giác, hay Thực tại Như
thực, như Bắc và Nam tạng ghi nhận: "Thấy Duyên khởi là thấy
Pháp, thấy Pháp là thấy Phật" (2).
-
Chứng ngộ quả vị Phật là chứng ngộ
Niết-bàn.
- Bây giờ chúng
ta đi vào ý nghĩa của Niết-bàn. Qua các định nghĩa gián tiếp về
Như Lai, thì Niết-bàn mà Thế Tôn chứng ngộ, chứng nhập là kết
quả của sự đoạn diệt Mười hai nhân duyên, hay đoạn diệt khổ.
- Do đó,
Niết-bàn có thể gián tiếp được định nghĩa như là "Khổ diệt", "Ái
diệt", "Thủ diệt", "Vô minh diệt", hay bằng các tên gọi tương
đương khác như "Vô vi", "Vượt qua bộc lưu", "Qua bờ bên kia". "Loại
hết sanh y" v.v.... mà chúng ta có ngót ba mươi từ tương đương
với Niết-bàn, ở Nikàya và A-hàm.
- Trong Kinh
Tập (Suttanipattà), Tiểu Bộ Kinh, chương "Con đường đến bờ bên
kia", thanh niên Upasìva đã hỏi Thế Tôn về phép để qua bờ bên
kia, Thế Tôn dạy:
- "Ngày đêm
Ông nhận thấy,Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
- Ái diệt là
Niết-bàn". -- (Sn. 205).
- Thanh niên
Udaya hỏi: "Do đoạn diệt gì được gọi là Niết-bàn?", Thế Tôn dạy:
- "Do đoạn
diệt khát ái,
- Ðược gọi
là Niết-bàn". -- (Sn. 214).
- Thanh niên
Kappa đặt câu hỏi tương tự, Thế Tôn trả lời:
- "Không sở
hữu, chấp trước,
- Ta nói
Người, Niết-bàn,
- Già chết
được đoạn tận".
- Kinh Tượng
Tích Dụ thuật lại lời Thế Tôn dạy rằng:
- "Sự tham dục,
chấp trước, tham đắm trong Năm thủ uẩn ức Khổ tập; sự nhiếp phục
từ bỏ tham dục tức Khổ diệt" (Khổ diệt tức Niết-bàn) (3).
- Niết-bàn như
thế là rời khỏi mọi chấp thủ. Vì rời chấp thủ, nên rời khỏi mọi
tướng trạng, mọi ý niệm; vì ly niệm nên Niết-bàn không thể được
diễn đạt bằng ngôn ngữ khái niệm. Do đó, mọi câu hỏi và mọi câu
trả lời trực tiếp về Niết-bàn đều không được chấp nhận.
- Trong Kinh
Bà-sa-cù-đa Hỏa Du (4). Vacchagotta đã đặt mười câu hỏi siêu
hình và đã được Thế Tôn dạy rằng các câu hỏi ấy không phù hợp,
bởi vì Thế Tôn (hay Niết-bàn) đã giải thoát khỏi sắc, thọ,
tướng, hành, thức; trong khi các câu hỏi ấy chỉ có thể liên hệ
đến sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
- Nói cách
khác, không thể nói Niết-bàn là gì, mà cũng không thể nói
Niết-bàn không là gì. Chỉ có thể tạm thời đề cập đến Niết-bàn
bằng thái độ phủ định, gián tiếp bằng các định nghĩa được trích
dẫn ở trên, hoặc bằng các từ tương đương, không thực sự cắt
nghĩa gì cả như từ "Tuyệt đối", "Bất tử", "Vô sinh" v.v...
- Từ đây, chúng
ta cần phải rất cẩn trọng và tỉnh giác một khi nói đến Niết-bàn.
Nó không phải là một xứ sở, nó không liên hệ đến thời gian. Bởi
thế, thật là dễ ngộ nhận khi nói "Ðức Phật nhập Niết-bàn" hay
"Nhập Vô dư Niết-bàn". Nguy hiểm là ở chữ Nhập. Nghĩa là chữ
nhập ở đây là không có chủ thể và đối tượng của nhập thì mới gọi
là "nhập".
- Nhưng nếu
diễn đạt như thế này thì người nghe do thiếu tỉnh giác có thể
cho rằng Niết-bàn chỉ là trống không. Ðể tránh khỏi ngộ nhận
đáng tiếc ấy, các nhà biên khảo thường trưng dẫn câu chuyện nổi
tiếng về "Con rùa và con cá". Nếu rùa không thể nói cho cá nghe
về những gì ở trên đất cạn, thì cũng thế, ngôn ngữ khái niệm của
con người không thể nói lên được những gì của Niết-bàn. Ðối với
cá, trái đất không phải là không có; cũng thế, đối với chúng ta,
những phàm phu, Niết-bàn không phải là trống không. Làm sao có
thể nói lên được Niết-bàn khi chính Niết-bàn là sự đoạn diệt
vọng tưởng?
- Ở Kinh "Phật Thuyết Như Vậy"
(Ivivuttaka), Tiểu Bộ Kinh, Thế Tôn dạy:
- "Này các
Tỷụ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành,
không làm ra. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh,
không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thì ở đây không
thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác
thành, khỏi làm ra. Do vì, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh,
không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình
bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành,
khỏi làm ra (5).
- Ði vào các ý
nghĩa Niết-bàn của Bắc tạng, chúng ta sẽ lý thú làm quen với lối
diễn đạt đây biểu tượng và thi vị.
- Bát nhã cho
rằng cứu cánh Niết-bàn là vượt qua hết mọi khổ ách. Khổ ách là
do chấp thủ nhân ngã và pháp ngã. Nếu nhờ trí tuệ thấp rõ Năm
uẩn là vô ngã thì sẽ cắt lìa chấp thủ và đi ra hết mọi khổ ách.
Như thế, vượt qua khổ ách, hay đắc Niết-bàn, chính là sự chứng
ngộ, chứng nhập đương thể vô ngã của các pháp. Ðương thể ấy thì
vô sinh (hay không sanh không diệt). Cho nên đắc Niết-bàn có
nghĩa là đắc cái vô sanh. Mà đã là vô sanh thì vô đắc. Do đó,
đắc Niết-bàn là không thấy có người đắc và pháp đắc. Khi hoàn
toàn vô đắc thì gọi là Niết-bàn hay đắc Niết-bàn.
- Tất cả chấp
thủ là nội dung ngăn ngại việc chứng đắc Niết-bàn. Cho nên, nội
dung của chứng đắc ấy là nội dung của đoạn diệt chấp thủ, đoạn
diệt vọng tưởng. Tại đây, Niết-bàn có thể được trình bày gián
tiếp như là sự hàng phục vọng tưởng.
- Cũng từ Kinh
Kim Cương, Thế Tôn dạy Tôn giả Tu-bồ-đề rằng: "Tại đức Phật
Nhiên Ðăng, Ta thật không có đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
Do vì không có đắc A-nậu-đa-la-miệu-tam-bồ-đề nên đức Phật Nhiên
Ðặng đã thọ ký cho Ta sau này thành Phật, hiệu là Thích ca Mâu
ni."
- Ðấy là lối
diễn đạt nội dung chứng đắc Niết-bàn của Thế Tôn. Niết-bàn là
nội dung của vô đắc ấy. Ðó là nội dung của sự thể nhập vào thực
tại vô ngã của các pháp.
- Nói lên chỗ chứng đắc ấy của Thế
Tôn, Kinh Lăng Già lại phát biểu một cách đầy sang tạo và lý thú
rằng:
- "Vô hữu
Niết-bàn Phật,
- Vô hữu
Phật Niết-bàn".
- (Không có đức
Phật chứng Niết-bàn, và cũng không có Niết-bàn của Phật chứng).
- Nổ lực phủ nhận sự kiện chứng
Niết-bàn và phủ nhận Niết-bàn của Phật chứng là nổ lực diễn đạt
về Niết-bàn như thật, và đồng thời tránh ngộ nhận do suy tư đầy
ngã tưởng của người đọc có thể dấy sinh.
- Tổ Thế Thân,
trong "Duy Thức Tam Thập Tụng", gọi quả Niết-bàn là quả "chuyển
y" và trình bày nội dung của chứng đắc Niết-bàn qua bài kệ hai
mươi chín rằng:
- "Vô đắc
bất tư nghì
- Thị xuất
thế gian trí
- Xả nhị thô
trọng cố
- Tiện chứng
đắc chuyển y".
- Thế là đắc
Niết-bàn là đắc "Vô đắc", khi hành giả lìa xa mọi chấp thủ thể
và đối tượng (nhân ngã và pháp ngã).
- Trở lại Kim
Cương, có hai bước trình bày giáo lý Kim Cương. Bước đầu nói về
Không (không tánh, hay Vô ngã tánh), trình bày phần thô thiển
của Vô ngã như thế là phủ nhận tất cả tướng. Nhưng bước thứ nhì
thì trình bày phần thâm áo của Bát-nhã, xem Niết-bàn như là tất
cả pháp.
- "Như Lai
tức chư pháp như nghĩa,
- Nhứt thiết
chư pháp giải thị Phật Pháp"
- .Ở mặt
tương đối mà nói, thì phân biệt có Phật là chủ thể chứng ngộ,
Niết-bàn là đối tượng chứng ngộ. Nhưng ở mặt tuyệt đối mà nhìn,
thì Phật, Niết-bàn và sự chứng đắc Niết-bàn chỉ là một, không
khác.
- Quan điểm này
rõ ràng không rời xa truyền thống của Giáo lý nguyên thủy Phật
giáo. Hiểu như vậy, chúng ta mới khỏi sai lầm khi trình bày
Phật, Niết-bàn và Thành đạo.
- Tại đây, bừng sáng lên rằng các
tông phái Phật giáo đều trình bày Niết-bàn theo cách trình bày
gián tiếp, dẹp hết chấp thủ, vọng tưởng thì Niết-bàn hiển lộ.
- Con đường đi
đến Niết-bàn ở Nikàya và A-hàm là đoạn trừ ái, thủ, vô minh, hay
đoạn trừ mười kiết sử (thân kiến, nghĩ, giới cấm thủ, dục, sân,
hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cứ và vô minh).
- Ðó chỉ ròng
là công phu chuyển đổi vọng tâm (tâm lý vọng) mà không đặt vấn
đề đến các pháp, hiện tượng giới này. Phải chăng đây là ý nghĩa
mà Thế Tôn dạy trong Nikàya và A-hàm: "Khi Ta thanh tịnh, Ta
thấy thế giới thanh tịnh". (Ðây là quan điểm khác hẳn ngoại đạo)
(6).
- Ði thêm một
bước diễn đạt tích cực nữa về Niết-bàn, lập trường chung của Bắc
tạng cho rằng:
-
-
Sinh tử tức Niết-bàn;
- Và
-
-
Phiền não tức Bồ-đề (Niết-bàn).
- Ở Duy thức, ý
nghĩa "Sinh tử tức Niết-bàn" là ý nghĩa của "Tam vô tánh", khi
chấp thủ hoàn toàn bị đoạn diệt, khi tâm thức được chuyển thành
bốn trí.
- Các Thiền sư
Trung Hoa thì gọi đó bằng một ngôn ngữ riêng: "Khi tu rồi, núi
vẫn là núi". Cho nên, khi nói Niết-bàn không thể diễn đạt bằng
ngôn ngữ khái niệm, thì điều này cần được hiểu là không phải
chính ngôn ngữ bất lực, mà là do sự có mặt của ái, thủ của con
người xuyên qua ngôn ngữ ấy. Một khi chấp thủ diệt thì ngôn ngữ
cũng chính là thật pháp, Niết-bàn. Có lẽ đây là ý nghĩa mà Bắc
tạng cho rằng mọi sự biểu hiện của đấng Giác ngộ đều là biểu
hiện của Phật Pháp, Thật Pháp.
- Kinh Pháp
Hoa, bản dịch hai mươi tám phẩm của Tổ Cưu-ma-la-thập, chỉ bày
"Tri kiến Phật". Tri kiến ấy là tri kiến thấy như thật pháp.
Thấy như thật pháp là thấy Vô ngã pháp. Ðắc tri kiến ấy là đắc
Niết-bàn, nói khác đi, tri kiến ấy là Niết-bàn.
- Pháp Hoa chỉ
trình bày "Phật tri kiến" một cách gián tiếp, rất là biểu tượng.
Do đó, qua suốt hai mươi tám phẩm kinh ta không thấy nói rõ Phật
tri kiến là gì. Nhưng bằng trí tuệ, ta có thể đón nhận Phật tri
kiến qua các hình ảnh biểu tượng, như hình ảnh từ đầu Kinh: "Thế
Tôn nhập vô lượng nghĩa xứ định, rồi xuất vô lượng nghĩa xứ
định, mới tuyên thuyết Pháp Hoa".
- Hình ảnh đó
nói lên rằng, chân lý Pháp Hoa có mặt trong sự an trú tâm trong
Vô ngã pháp của hành giả (Vô lượng nghĩa, có nghĩa là thoát ly ý
nghĩa; thoát ly ý nghĩa là thoát ly niệm; thoát ly niệm là rời
khỏi mọi tướng chấp thủ). Như thế, Niết-bàn chính là thực tại Vô
ngã. Hay, Niết-bàn chính là thực tại này với sự vắng mặt hoàn
toàn của chấp thủ. Ðây là ý nghĩa của "Thập Như Thị" trong kinh
Pháp Hoa.
- Về Hoa
Nghiêm, nhiều nhà học giả Phật giáo, như Junjiro Takakusu hay
Kimura Taiken, cho rằng Hoa Nghiêm là sự phát triển của giáo lý
"Duyên sinh" của Phật giáo nguyên thủy.
- Pháp giới
trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm được nhìn qua "Ðại Lâu Các
Trang Nghiêm Tạng". (Vairochana Vyùha alankara garba) và được
diễn đạt rằng:
- "Ðại lâu các
này là trú xứ của những ai đã hiểu ý nghĩa Khoâng, Vô tướng và
Vô nguyện (Vô dục), của những ai đã hiểu rằng hết thảy các pháp
đều là vô phân biệt, rằng pháp giới vốn là vô sai biệt, rằng
chúng sanh giới vốn là bất khả đắc, rằng hết thảy các pháp vốn
vô sanh" (7)
- Như thế, Pháp
giới của Hoa Nghiêm chính là Pháp giới của Nìkàya và A-hàm được
xóa tan ái, thủ. Ở đây, Niết-bàn như là chính pháp giới được
đoạn tận ải, thủ.
- Trên đây, một
số nét đại lược về Niết-bàn được bàn đến như là cứu cánh giải
thoát. Bắc tạng và Nam tạng còn đề cập đến hai loại Niết-bàn:
Hữu dư y và Vô dư y Niết-bàn. Thượng tọa bộ và A-hàm (Nhứt thiết
hữu bộ) còn bàn rộng đến Niết-bàn hữu học và Niết-bàn vô học.
- Kinh "Phật
Thuyết Như Vậy", Tiểu Bộ Kinh, giải thích hai loại Niết-bàn:
- "Này các Tỷ-kheo, có hai loại
Niết-bàn giới... Thế nào là Niết-bàn giới của dư y? Ở đây,
Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, Phạm hạnh đã thành,
việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục
đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị
ấy có năm căn còn tồn tại, ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ
khả ý, bất khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại cảm giác
lạc, khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Ðây gọi là
Niết-bàn giới có dư y.
- Này các
Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn vô dư y? Ở đây, Tỳ-kheo là bậc
A-la-hán... (như trên) ... Ở đây, đối với vị ấy, mọi cảm thọ đều
không có hoan hỷ, ưa thích sẽ lắng dịu. Này các Tỳ-kheo, đây gọi
là Niết-bàn không có dư y" (Tr. 144).
- Sự khác biệt
của Hữu dư y và Vô dư y Niết-bàn được trình bày như trên chỉ là
sự khác biệt giữa hai vị A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc, nhưng vị
Hữu dư y thì còn các cảm thọ khổ, lạc xảy đến qua thân năm uẩn,
còn ở vị kia thì các cảm thọ đều được lắng dịu.
- Thông thường,
Hữu dư y Niết-bàn được hiểu như là Niết-bàn tại thế của Thế Tôn;
Vô dư y Niết-bàn là Niết-bàn của Thế Tôn sau khi Ngài nhập diệt.
- Tăng Chi Bộ
Kinh IV, phẩm Bảy Pháp, có đề cập đến các loại Niết-bàn của bậc
Thánh Bất Lai.
- Niết-bàn của
một A-la-hán gọi là Vô thủ trước Niết-bàn. Niết-bàn của Thánh
Bất Lai gồm:
- - Trung gian
Niết-bàn (Antaràparinibbayì).
- - Tổn hại
Niết-bàn (Upahaccaparinibbayi).
- - Vô hành
Niết-bàn (Asankhàraparinibbayi
- - Hữu hành
Niết-bàn (Sankhàraparinibbayi),
- và - Thượng lưu Niết-bàn
(Uddhamsoto).
- Theo phần
kinh này, Trung gian Niết-bàn là nhập Niết-bàn sau khi Thánh Bất
Lai xả báo thân. Hạng này gồm có ba:
- a. Hạng đầu:
Nhập Niết-bàn liền sau khi xả báo thân.
- b. Hạng hai:
Nhập Niết-bàn liền sau khi thác sanh về Tịnh Cư Thiên.
- c. Hạng ba:
Nhập Niết-bàn sau khi thác sanh về Tịnh Cư Thiên, sau một thời
gian ngắn ở đó.
- Tổn hại
Niết-bàn là nhập Niết-bàn sau khi thác sanh về Tịnh Cư Thiên một
thời gian lâu hơn.Vô hành Niết-bàn là nhập Niết-bàn ở Tịnh Cư
thiên (sau một thời gian lâu hơn nữa ở đó).
- Hữu hành
Niết-bàn là nhập Niết-bàn ở Tịnh Cư thiên, có khi vào lúc gần
mãn tuổi thọ tại đó.
- Thượng Lưu
Niết-bàn là quả thấp nhất trong các quả Bất Lai vừa kể, nhập
Niết-bàn sau khi thác sanh đến Sắc Cứu Cánh thiên (Có đi qua cõi
sắc giới gọi là "Ngũ Bất Hoàn thiên").
- Dù là
Niết-bàn của Thánh Bất Lai, hay Niết-bàn hữu học, thì sự kiện
chứng nhập Niết-bàn chỉ xảy ra khi vị Thánh đoạn tận vô minh,
lậu hoặc. Như thế, Niết-bàn chỉ có một.
-
Sự kiện chứng ngộ Niết-bàn được gọi
là Thành đạo.
- Bây giờ chúng
ta đi vào ý nghĩa Thành đạo và rút ra những bài học tu tập giải
thoát qua sự kiện Thành đạo của Thế Tôn.
- Thời điểm
Thành đạo là cuối canh năm, lúc sao mai mới mọc, khi Thế Tôn
chứng nhập toàn triệt pháp giới Duyên khởi. Chư Phật quá khứ và
vị lai cũng chứng nhập pháp giới Duyên khởi, được gọi là Thành
đạo hay đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
- Sau khi từ bỏ con đường của sáu
năm khổ hạnh và từ bỏ con đường Thiền định của ngoại đạo, Thế
Tôn nhập định theo hướng mới gọi là Thiền định Phật giáo và đi
đến chứng đắc vô thượng.
- 1/- Ý nghĩa
thứ nhất của Thành đạo nói lên rằng con đường đi đến giải thoát
là Trung đạo: Trung đạo của tu tập và Trung đạo của giác ngộ.
- - Tránh xa
hai cực đoan, khổ hạnh ép xác và thụ hưởng dục lạc, là ý nghĩa
của Trung đạo Tu tập.
- - Pháp giới
Duyên sinh tánh là ý nghĩa của Trung đạo giác ngộ.
- 2/- Ý nghĩa
thứ hai là, bằng nổ lực của tự thân, với sự tu tập đúng pháp,
con người có thể giác ngộ nga tại đời này.
- 3/- Ý nghĩa
thứ ba, nội dung của Thành đạo là đoạn trừ vô minh, ái, thủ
(đoạn diệt Mười hai nhân duyên), hay đoạn trừ Mười kiết sử. Ðó
là một quá trình chuyển đổi tâm lý và nhận thức. Vũ trụ mà các
nhà khoa học gọi là vũ trụ khách quan, thực sự là thực tại dưới
cái nhìn giác ngộ; vũ trụ ấy không phải là tự thân là hư vọng,
khổ đau. Giải thoát ở đây là giải thoát tham ái, chấp thủ, mà
không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, thế giới. Tự thân
thế giới không thể được gọi là thực hay hư, bởi vì thực, hư là
những gì của Mười hai nhân duyên sanh khởi (hữu vi) mà không
phải là Mười hai nhân duyên đoạn diệt (vô vi).
- 4/- Ý nghĩa
thứ tư, có sự kiện Thành đạo có nghĩa là vô minh, ái, thủ...
không thực có, hay không có tự ngã. Tự ngã chỉ là sản phẩm của
vô minh, không thuộc thực tại.
- 5/- Ý nghĩa
thứ năm, đức Phật thành đạo có nghĩa là các pháp được nhìn dưới
cái nhìn vô chấp thủ, được thấy thoát ly các tướng hay Vô ngã
tướng. Nếu Vô ngã ở đây được hiểu theo nghĩa khẳng đinh, nghĩa
là có cái tướng Vô ngã đối lập với ngã, thì đó không phải nghĩa
"Trung đạo" của Thật pháp, bởi vì nó thuộc ý niệm. Nói một cách
thật ổn. Thật pháp không liên hệ gì đến ngã hay vô ngã của
một người chưa đoạn tận tham ái, chấp thuủ. Thật pháp chỉ
biểu lộ đối với những ai đã giải thoát hết lậu hoặc.
- 6/- Ý nghĩa
thứ sáu, Thành đạo là trở về Thật pháp, trở về "Vô sinh", "Tịch
diệt", đi ra mọi nghĩa đối đãi của thường, đoạn, khứ, lai, hữu,
vô, sinh và diệt. Ý nghĩa của "trở về" này không thể được gọi là
"đắc", không thể được gọi là "chứng", không thể được gọi là
"trú". Bằng ngôn ngữ tương đối chỉ tạm thời gọi là "Vô đắc".
Thật nghĩa của sự trở về ấy là không có trở về đâu cả, không có
đâu cả, gọi là "Như Lai", nó không phải là kết quả của bất cứ
một công phu tu tập nào, nó như là núi Hy-mã, công phu tu tập
chỉ là con đường đưa đến; công phu ví như tiếng gõ cửa đánh thức
mình ra khỏi giấc ngủ, tiếng gõ cửa thì không phải là mình. Tu
tập chỉ là công việc của gió làm tan mây ái, thủ đang che mờ
trăng Thật pháp. Gió và mây thì không phải là trăng.
- 7/- Ý nghĩa
thứ bảy, sự kiện Thành đạo của Thế Tôn mở ra cho nhân loại một
con đường thoát khổ, một niềm tin thoát khổ. Sự kiện này xuất
hiện như là chính Thế Tôn thọ ký cho tất cả sẽ trở thành Phật
trong vị lai.
- * * *
- Nếu trung
thành với giáo lý vô chấp thủ của Phật giáo, đừng để mình rơi
vào khái niệm của ngôn từ, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng, Phật,
Niết-bàn và Thành đạo dù được diễn tả dưới nhiều hình thức khác
nhau của Bắc tạng và Nam tạng, đều ngời chiếu ánh sáng giải
thoát của Phật Pháp, của cái mà ta chỉ gọi bằng một danh từ gọn
ghẽ là Phật giáo.
- Con đường đi về đó là con đường
loại trừ ái, thủ, hay gọi là đoạn trừ lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu) đi qua Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát
tri kiến.
- Thế giới của
Phật, Niết-bàn và Thành đạo không thể được xác nhận là
thế giới ta đang thấy, không thể được xác nhận không phải là
thế giới ta đang thấy, hoặc vừa là vừa không là, hay
không là không không là thế giới ta đang thấy. Bởi vì nó
là thế giới của người đã trừ hết lậu hoặc mà không phải của
chúng ta, những người đang mang nặng lậu hoặc. Nó là thế giới
của chứng nhập giải thoát./.
- Ghi chú:
- (1) Hán tạng:
tập Ðại II, 224c, Trung 137, Ðại I 645b.
- (2) Tượng
Tích Dụ Ðại Kinh, Trung Bộ I - M 28, Tương Ưng III, tr. 144.
Tiểu Bộ I, tr 489 - bản in sau năm 1975 và trước Ðại Tạng Kinh
Việt Nam.
- (3)
Mahàhatthipadopamasuttam, Trung Bộ I - Hán tạng: Tượng Tích Dụ
Ðại Kinh, Ðại I, 464b.
- (4)
Vicchagottaggisuttam, Trung Bộ II - Hán tạng: Kinh Kiến, Ðại II,
245b
- (5)
Itivuttaka, Tiểu Bộ Kinh I, bản dịch của HT. Thích Minh Châu,
1982, tr. 443.
- * Các
trích dẫn về kinh Nikàya, Việt ngữ, đều thuộc ban dịch của HT
Minh Châu.
- (6) Kinh
Pàlika - Kinh Ba-lê, Trưởng Bộ Kinh 24, Digha- Nikàya Vol. III
PTS. London. 1992, p. 34.
- (7) Thiền
Luận, Suzuki, cuốn hạ, tr. 173, bản dịch củaTuệ Sỹ.
-
--o0o--
|
|