-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Hai -
Pháp Bảo
Tiết VIII
- Giới Học
- Giới học là
một trong ba học: Giới, Ðịnh, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô
lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các
lậu hoặc, đưa đến giải thoát mà không phải đưa đến các phước báo
sanh thiên.
-
Ý Nghĩa Của Giới
- Thông thường,
Giới được hiểu là ngăn ngừa điều quấy, dứt dừng điề ác ("phòng
phi chỉ ác"), hoặc ngưng điều ác và làm điều thiện ("chỉ ác, tác
thiện").
- Trong Bát
Chánh đạo, Giới là giới uẩn gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp và
chánh mạng. Ở đây chỉ sự ngăn ngừa các hành động lỗi lầm của
thân và khẩu. Khi các hành động lỗi lầm không được làm thì tránh
được nhiều sự tổn hại cho những người khác. Ðây đã nói lên ý
nghĩa "tác thiện" của giới.
- Chữ Giới
trong Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk: Pràtimoksa, Pàli:
Patimokkha) có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát,
Tùy thuận giải thoát. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần;
giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát
ít. Tùy thuận giải thoát là giải thoát tùy thuộc vào quả hữu vi
hay vô vi của người hành.
- Từ điển của
Rhys Davids cắt nghĩa Giới (Silà) có gốc từ ngữ căn Sìl. Ngữ căn
Sìl có hai nghĩa: Upadhàranà (luân lý, đạo đức của Phật giáo,
cách cư xử, tư cách đạo đức) và Samàdhi (Ðịnh).
- Từ Patimokkha
thì có nghĩa là, theo cách phân tích từ ngữ, trói buộc các hành
động, giữ gìn, thúc liễm các hành động của thân và khẩu không để
cho rơi vào đường ác, sai lầm, tổn hại mình và người. Ví như
buộc mồm trâu để ngăn nó ăn lúa mạ.
- Giới trong
nghĩa của ngày trai giới (Pàli: Uposatha, Sk. Upavasatha, Hán
dịch là Bố-sa-tha), có nghĩa là tịnh trú, trưởng dưỡng, trưởng
tịnh và thiện túc.
- Tăng Chi (III
- A) định nghĩa ngày trai giới là ngày thực hành hạnh sống của
vị A-la-hán (chỉ giữ tám giới).
- Trong ba mươi
bảy phẩm trợ đạo, Thế Tôn dạy: Giới là nền tảng của bốn Niệm xứ,
bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần
và Tám Thánh đạo phần. Ví như đất là nền tảng, không có nó thì
các loài động vật không thể di chuyển, cũng thế, không có Giới
thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo không thể được tu tập viên mãn.
- Qua các định nghĩa trên, Giới
giúp cho hành giả đạt được hai mục tiêu: không làm các điều ác (chư
ác mạc tác), làm các việc lành (chúng thiện phụng hành).
Mục tiêu thứ ba của Phật giáo là giữ tâm ý thanh tịnh, loại bỏ
hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý) và cũng là mục tiêu cứu
cánh, cần phải nhờ đến việc thực hành định uẩn và tuệ uẩn.
-
Thời Gian Và Lý Do Thiết Lập Giới
- Theo tài liệu
sử của Edward J. Thomas trong cuốn "Ðời sống của đức Phật" (The
Life of Buddha), Giáo hội Ni được thành lập từ năm thứ năm sau
ngày Thế Tôn thành Ðạo. Do đó, qua năm thứ sáu một số giới luật
đã bắt đầu hình thành, và hình thành tương đối rõ là vào năm thứ
mười sau ngày thành Ðạo. Luật tạng thì ghi mãi đến năm thứ mười
ba sau ngày thành Ðạo giới luật mới hẳn nhiên được hình thành,
do Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) đặc trách. Bấy giờ Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha) ra đời.
- Vì sao Giới
bổn không được thiết lập ngay từ năm đầu của Giáo hội? -- Theo
truyền thống, chư Thế Tôn chỉ thiết lập các giới điều, khi nào
thấy cần thiết, khi nào đầy đủ nhân duyên. Khi có một hiện tượng
vi phạm gây nên một ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt của Tăng
chúng thì Thế Tôn mới kiết giới, thành lập thêm một giới điều để
ngăn ngừa hiện tượng xấu ấy xảy ra về sau. Giới bổn cũng thế,
trong những năm đầu, chư Tỷ-kheo sinh hoạt thanh tịnh trong
khuôn khổ của Chánh pháp nên Thế tôn không đề cập đến Giới bổn,
mà chỉ trình bày Giới dưới những hình thức đơn giản và tổng quát
nhất là hình thức hộ trì các căn, hoặc dưới hình thức chánh ngữ,
chánh nghiệp và chánh mạng của Bát Thánh đạo. Mãi đến năm thứ
mười ba sau ngày thành Ðạo, bấy giờ có nhiều hiện tượng sinh
hoạt đi ra ngoài đời sống phạm hạnh, Thế Tôn mới thành lập giới
bổn Ba-la-đề-mộc-xoa.
- Một hôm, Tôn
giả Upàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, do những mục đích nào các
học pháp được thiết lập cho các đệ tử của Như Lai và Giới bổn
Patimokkha được tuyên đọc?".
- Thế Tôn dạy,
do mười mục đích mà các học pháp được thiết lập và Giới bổn
Pàtimokkha được tuyên đọc:
- - Ðể Tăng chúng được cực thịnh,
- Ðể Tăng chúng được an ổn,
- Ðể chặn đứng các người cứng đầu,
- Ðể các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn,
- Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
- Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai,
- Ðể đem lại tịnh tín cho những người không tin,
- Ðể làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin,
- Ðể diệu pháp được tồn tại,
- Ðể luật được chấp nhận. (Tăng Chi bộ Kinh 3B, tr. 73).
- Qua mười mục
đích trên, Giới bổn chỉ giới hạn ở hai phần "chỉ ác" và "tác
thiện" trong ba phần - chỉ ác, tác thiện và tự tịnh kỳ ý - mà
Phật giáo nhắm đến.
- Như thế, Giới
qua Nikàya, chỉ gồm vào các giới của tại gia và xuất gia. Ðây là
nội dung của Nhiếp luật nghi giới hay gọi là Biệt giải thoát
giới.
-
Nội Dung Các Loại Giới
- Có nhiều hình
thức phân loại Giới. Cách phân loại thứ nhất, giới mang ý nghĩa
rộng rãi của "Ðại thừa". Ở đây giới có ba loại:
- - Loại một
gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới của tại gia và xuất
gia: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc
giới.
- - Loại hai
gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành tất cả việc
thiện làm giới.
- - Loại ba gọi
là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh làm giới.
- Cách phân
loại thứ hai cũng mang ý nghĩa rất rộng rãi của Ðại thừa, gồm
có:
- - Biệt giải
thoát giới, đấy là nội dung của Nhiếp luật nghi giới.
- - Ðịnh cộng
giới, là giải thoát do định sinh, lấy định làm giới. Do tu Thiền
định mà thâm tâm thanh tịnh, giới thể được cụ túc.
- - Ðạo cộng
giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới. Do tu vô lậu
nghiệp mà được trí vô lậu, giới thể được viên mãn.
- Qua sự phân
loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới
là thuộc Ðại thừa giới; biệt giả thoát giới và định cộng giới
thì được gọi là hữu lậu giới; đạo cộng giới được gọi là vô lậu
giới.
- Luận Câu Xá
thì gọi biệt giải thoát luật nghi (hay biệt giải thoát giới) là
Dục giới triền giới; gọi định sanh luật nghi (hay định cộng
giới) là Sắc giới triền giới; và gọi đạo sanh luật nghi (hay đạo
cộng giới) là Vô lậu giới.
- Trong giới
hạn của phần giới được trình bày ở đây, chúng ta không đi vào
các chi tiết của giới, cũng không đi vào các giới luật xuất gia,
mà chỉ trình bày những nét cơ bản của Giới học.
-
Tính Chất Và Nền Tảng Của Giới
- Cứ theo từng
giới cấm một, cũng như toàn thể Giới bổn, đặc biệt là mười giới
căn bản chung cho cả tại gia và xuất gia liên hệ đến thân, khẩu
và ý, chúng ta có thể tìm ra tính chất của giới và nền tảng trên
đó Giới được thiết lập.
- Ở đây, đơn cử
giới bất sát (không được sát sanh). Căn bản của giới này là
không giết người, thứ đến là không giết hại các loài chúng sanh
khác. Về phần người giữ giới, khi giữ gìn giới này thì ngăn trừ
được sân tâm, nuôi dưỡng được từ tâm, khiến cho tâm được an
tịnh, an lạc ngay trong hiện tại; từ đây, người giữ giới không
tạo các nghiệp ác để phải chịu thọ quả khổ đau trong tương lai.
Về phần các người khác và chúng sanh khác, khi giới bất sát được
giữ gìn thì đời sống của họ được thêm phần bảo đảm an toàn, an
ổn, khỏi phải gánh chịu các hậu quả do lòng sân hận, ác hại của
người khác gây ra trong hiện tại.
- Ðối với giới
"bất dâm", "bất đạo", người giữ giới ngăn được lòng tham và
không tạo thêm ác nghiệp gây ra khổ đau trong hiện tại và tương
lai; tha nhân và các loài chúng sanh khác thì tránh được các tổn
hại và sống an ổn.
- Kết quả việc
giữ giới như thế tựu trung tính chất của nó là đem lại an vui
cho mình và cho người, điều hòa được sinh hoạt của tập thể, tạo
nên lòng tin cho kẻ khác. Ðem lại lợi ích an lạc và giải thoát
cho tự thân người giữ giới, đấy là trí tuệ; đem lại lợi ích an
lạc cho tha nhân và các loài khác, đấy là từ bi. Trí tuệ và từ
bi là nền tảng trên đó Giới được thiết lập.
- Hướng đi của
giới là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giới giúp
đỡ người tu tập thấy nhẹ nhàng thân và tâm, an lạc trong từng
bước đi. Giới đúng nghĩa của nó, không có ý nghĩa nào trói buộc
hay tù túng cả. Ngoài một số hành động, nếu làm, hẳn nhiên phá
đổ hạnh thanh tịnh nên tuyệt đối bị cấm chỉ, các sinh hoạt còn
lại của người tu tập giải thoát đều được tùy duyên mà châm
chước, khai mở. Ngay cả trong các trường hợp bị cấm chỉ, nếu vì
"nghịch duyên" mà bị rơi vào (như là các "các tai nạn" liên hệ
giới xảy đến), ngoài sự tác ý của hành giả, thì sẽ không phạm,
nếu người bị nạn không khởi lên tham tâm hay sân tâm tùy thuận
theo sự kiện đang xảy ra (ví dụ bị cưỡng hiếp, nếu không khởi
lên lạc tâm thì không phạm).
- Về các giới
trọng thì tính chất khai mở của chúng còn có phần hạn chế, nhưng
với các giới nhẹ thì tánh chất của chúng rất là cởi mở, linh
động, phóng khoáng.
- Luật tạng ghi
rằng một lần các Phật tử và ngoại đạo chê trách các vị Tỷ-kheo
đứng mà tiểu tiện, cho rằng cung cách đó là thô tháo, thiếu lịch
nhã. Khi sự việc này được trình lên Thế Tôn, Thế Tôn bèn dạy:
"Vậy thì từ nay các Tỷ-kheo, ngồi mà tiểu tiện". Nhưng ở một
quốc độ khác, khi chư Tỷ-kheo ngồi tiểu tiện thì lại bị chê rằng
các đệ tử của Thế Tôn toàn là nữ giới. Khi sự việc này trình lên
Thế Tôn, Thế Tôn lại dạy: "Nếu vậy, thì đứng mà tiểu vậy". Thế
có nghĩa là tùy theo quốc độ, tùy theo văn hóa mà thích ứng. Ðấy
là một trường hợp điển hình nói lên tính chất linh động và cởi
mở của Giới.
- Như vậy giới
trong giáo lý Phật giáo, không mang tính cố chấp, cứng nhắc như
là giới điều (dogma), mà mang nghĩa tự nguyện, thiết thực đem
lại lợi ích cho mình và người, nhằm nuôi dưỡng và phát triển tín
tâm của mình và người.
- Giới của Phật
giáo một mặt ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại và tương lai,
một mặt biểu hiện một nếp sống văn minh, lịch nhã, phù hợp với
nền văn hóa và văn minh của loài Người.
-
Vị Trí Của Giới Trong Hệ Thống Giáo
Lý Phật Giáo
- Trường Bộ
Kinh và Trường A-hàm đề cập đến Giới nhiều hơn là các bộ Kinh
còn lại. Ðiển hình là Kinh Phạm Võng (của Nikàya) và Kinh Phạm
Ðộng (của Trường A-hàm) xác định rõ vị trí của Giới trong hệ
thống giáo lý Phật giáo. Trong hai kinh này, Thế Tôn xác nhận
chỉ có các kẻ phàm phu mới ca ngợi, tán thán Như Lai về Giới
đức. Lời ca ngợi, tán thán Như Lai như thật chân chánh là ca
ngợi, tán thán về Tuệ đức: Như Lai đã chứng tri, giác ngộ và
tuyên thuyết các pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh,
mỹ diệu, vượt khỏi tầm luận lý suông, rất tế nhị, chỉ có các bậc
trí tuệ mới nhận hiểu.
- Qua lời xác
nhận ấy của Thế Tôn, ta thấy Giới chỉ mới là bước đi căn bản của
Phật giáo. Thực sự nói rõ hơn, Giới chỉ là bước đầu của năm bước
đi: Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến (tri kiến
biết rằng đã giải thoát).
- Giới là bước
đi đầu, nhưng là bước đi nền tảng. Nếu hành giả rơi vào giới cấm
thủ (giữ giới sai lạc của ngoại đạo), hỏng từ bước đi đầu này,
thì không thể nào thực hiện được bốn bước đi kế tiếp.
- Ðấy là ý
nghĩa của từ ngữ Giới trong Nikàya và A-hàm.
- Qua đến Bắc
tạng (Ðại thừa) thì từ Giới mang ý nghĩa rộng rãi bao la hơn
nhiều: Giới bao gồm cả Ðịnh và Tuệ. Biệt giải thoát giới (hay
Nhiếp luật nghi giới) và Ðịnh cộng giới là thuộc Hữu lậu giới,
Ðạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát hay Vô lậu giới.
- Ðại Tạng
Bát-nhã thì xếp Giới vào trong một sáu chi phần tu tập của
Bồ-tát gọi là "Lục Ba-la-mật". Giới Ba-la-mật thì đã đồng nghĩa
với đoạn trừ hết chấp thủ tướng, hay đồng nghĩa với đoạn trừ hết
lậu hoặc, đây là Tuệ giải thoát.
- Tuy có cái
nhìn khác nhau trong sự phân loại và trình bày về Giới học của
Nam tạng và Bắc tạng, nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ vào nội dung
thì thấy rõ không có sự mâu thuẫn thực sự nào cả. Nam tạng thì
trình bày giới hạn Giới ở mức độ như đã được trình bày, qua giới
hạn đó thì Nam tạng bàn đến phần Ðịnh và Tuệ. Sự phân ranh giới
hạn này có tính cách hình thức và quy ước hơn là nội dung tâm
thức của người hành trì giới. Ở Bắc tạng, thì Ðịnh và Tuệ có thể
cùng được tu chung với Giới; ở người hành trì Giới, đạt đến giới
Ba-la-mật hẳn là đòi hỏi người hành trì Giới phải có đầy đủ Ðịnh
và Tuệ. Thiếu Ðịnh và Tuệ thì hành giả không thể nào đạt được
kết quả hành giới mà ly hết thảy các tướng chấp thủ.
- Thực sự, cả
Nam tạng và Bắc tạng đều xác nhận không thể tách rời riêng rẽ
Giới, Ðịnh, Tuệ. Nhìn vào tám chi phần trong Bát Thánh đạo thì
thấy hiển nhiên điều đó. Giới (hay chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng) không thể gọi là Chánh giới, nếu không có mặt của
Tuệ (chánh kiến và chánh tư duy). Thực hiện Giới cũng chính là
thực hiện Tuệ, thực hiện Tuệ cũng chính là thực hiện viên mãn
Giới.
-
Hiểu Ý Nghĩa Ðúng Ðắn Của Giới Và
Phạm Giới
- Vấn đề phạm
giới đưa đến kết quả nặng, nhẹ khác nhau giữa những người tu tập
có tâm lý giải thoát khác nhau, dù họ phạm cùng một lỗi. Hậu quả
họ đón nhận cũng khác nhau trong hiện tại và tương lai.
- Phẩm Hạt Muối
(Tăng Chi Bộ Kinh I) ghi sự cắt nghĩa rõ ràng của Thế Tôn về
trường hợp này. Một người dân đen đánh trộm một con dê của một
nhà giàu, có thế lực có thể bị đánh đập đổ máu ngay tại chỗ và
bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm một con dê
của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không bị
tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông
lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối ấy vào một
ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội,
với người tâm tư bủn xỉn, không tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ thì kết
quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với người có tu tập Giới,
Ðịnh, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem như kết quả không có
(triệt tiêu).
- Kinh Ðại
Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh III) trình bày, một người có
chánh kiến và chánh tín trước lúc chết có thể sanh Thiên giới dù
trong đời sống đã tạo nên mười ác nghiệp; trái lại một người có
tà kiến và đầy nghi tâm trước khi chết có thể đi vào địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, dù sanh tiền thường tạo mười thiện nghiệp. Sự
có mặt của chánh kiến của phàm phu đã có ảnh hưởng lớn như thế
trong việc thác sinh, huống nữa là sự có mặt của Tuệ giác.
- Thường về mặt
giới tướng, sự phạm tội được buộc tội nếu hội đủ ba điều kiện:
- - Sửa soạn để phạm.
- Hành động cụ thể về sự vi phạm.
- Cố ý.
- Trong ba điều
kiện để buộc tội ấy, hai điều kiện là thuộc phần tác ý của tâm.
Thành thử vấn đề của giới đặt ra một cách rõ ràng là để giúp cho
con người giữ gìn tâm thức được trong sạch, thanh tịnh, lương
thiện. Phạm giới có nghĩa là xác định tâm thức bị hoen ố. Như
thế, vấn đề giữ giới thực ra là vấn đề giữ cho ý thức thanh
tịnh, căn bản là theo dõi ý và chế ngự ý. Với ai mà tu giữ ý
thức được thanh tịnh, giác tĩnh thì hẳn nhiên người ấy có giới
thể được tròn đầy.
- Giới dù cho
có thiết lập nên nhiều giới điều, căn bản vẫn là có gốc ở ý
thức. Giữ niệm được thanh tịnh thì giới thanh tịnh. Có thể phát
biểu rằng chỉ có một giới căn bản là ý giới: rời xa các ác pháp,
bất thiện pháp, rời xa tham ái, sân hận và chấp thủ.
- Giới có công
năng rõ ràng, qua phần trình bày ở trên, là đem lại an lạc và
hạnh phúc lâu dài cho mình và cho người trong hiện tại và tương
lai. Giữ giới là giữ gìn nguồn an lạc hạnh phúc ấy; phạm giới là
gây tổn hại đến nguồn an lạc, hạnh phúc ấy.
- Giới, như thế
không phải dành riêng cho hàng xuất gia hay chỉ dành riêng cho
hàng Phật tử tại gia, cũng không phải chỉ dành riêng cho những
người lớn tuổi mà là chung cho tất cả mọi người trong mọi lứa
tuổi, cho những ai muốn sống đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình
và người trong hiện tại và trong cả tương lai.
- Nếu hạnh phúc
là đối tượng mà nhân loại mãi đi tìm, thì hẳn đúng giới là những
gì mà nhân loại cần nắm giữ trên đường đi đến hạnh phúc ấy. Ðã
đến lúc con người cần loại bỏ hết thảy ngộ nhận về giới của giáo
lý Phật giáo để tiến lại gần hơn với giơùi và nắm giữ giới thân
ái như nắm giữ chính hạnh phúc của mình./.
--o0o--
|
|