-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Hai -
Pháp Bảo
Tiết XV
-
Chánh và Tà Pháp,
Thiện và Bất Thiện,
Thuyết Pháp và Nghe Pháp,
Sống theo Pháp và Hành theo Pháp
- Qua phần
trình bày các giáo lý về Giới, về Ðịnh và về Tuệ, chúng ta đã
nắm được ý nghĩa thế nào là Chánh pháp. Thế nào là tà pháp. Thế
nào là thiện. Thế nào là bất thiện. Tại đây chúng ta đi vào
những định nghĩa trực tiếp của Thế Tôn về các tiểu mục như trên.
- - "Này các
Tỷ-kheo, thế nào là phi Thánh pháp? - Tà kiến, tà tư duy, tà
ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải
thoát, tà tri kiến giải thoát gọi là phi Thánh pháp". (Tăng Chi
III-B, tr. 228).
- Ngược lại
mười phi Thánh pháp kể trên gọi là Thánh pháp.
- - "Sát sanh,
lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi,
nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, sân, tà kiến. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là phi pháp và phi mục đích". (Sđd., tr. 236)
- Ngược lại với
các điều ấy gọi là pháp và mục đích.
- Về thiện pháp
và bất thiện pháp thì như chúng ta đã rõ, cái gì làm sinh khởi
tham, sân, tà kiến cho mình và cho người thì gọi là bất thiện.
Cái gì làm sinh khởi vô tham, vô sân, và chánh kiến gọi là
thiện. Hay nói cách khác, các pháp nào liên hệ với tham, sân và
tà kiến thì gọi là bất thiện pháp. Pháp nào liên hệ với vô tham,
vô sân, và chánh kiến thì gọi là thiện pháp.
- Tại đây,
chúng ta sẽ rõ hơn về ý nghĩa thiện và bất thiện qua một số định
nghĩa khác nhau của Thế Tôn:
- - "... Những
pháp nào thuộc phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy không phóng
dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ; không phóng
dật được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy". (Tương Ưng V,
1982, tr. 95).
- - "... Phàm
pháp nào thuộc về phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy như lý
tác ý làm căn bản, lấy như lý tác ý làm chỗ quy tụ; như lý tác ý
được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy". (Sđd., tr. 95).
- Ngược lại,
các bất thiện pháp thì liên hệ căn bản đến phóng dật và phi như
lý tác ý.
- Nếu hành giả tinh cần và để
chánh kiến tác ý trên Khổ, Vô thường và Vô ngã thì các bất thiện
pháp sẽ dần dần bị đoạn diệt.
- Về ý nghĩa
của thuyết pháp, nghe pháp và hành pháp thì Tôn giả Xá-lợi-phất
dạy:
- - "... Những
ai thuyết Pháp để đoạn tận tham, những ai thuyết Pháp để đoạn
tận sân, những ai thuyết Pháp để đoạn tận si, những vị ấy là
những vị thuyết Pháp ở đời". (Tương Ưng IV, 1982, tr. 257).
- - "Những ai
thực hành đoạn tận tham, thực hành đoạn tận sân, thực hành đoạn
tận si, những vị ấy là những vị khéo thực hành ở đời". (Sđd.,
tr. 257).
- Như thế,
trọng điểm của việc học hỏi Phật pháp, hiểu Phật pháp, hành Phật
pháp và nói Pháp chính là việc đoạn trừ tham, sân, si.
- Trọng điểm
của việc giải thoát là tu tập để đoạn tận tham, sân, si nên một
lần Thế Tôn đã xác định như thế nào là sống theo Pháp rằng:
- - "Ở đây, vị
Tỷ-kheo học thông suốt Pháp tức là Khế kinh (Sutta), ng dụng
(Gayyam), Ký thuyết (Veyyàkaranam), Phúng tụng (Gàtham), Vô vấn
tự thuyết (Udànam), Như thị thuyết (Ittivuttaka), Bổn sanh
(Jàtaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutàdhammam), Trí giải hay Phương
quảng (Vedalla). Vị ấy dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng Pháp,
bỏ phế sống độc cưan tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm
an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Tỷ-kheo thông đạt nhiều
kinh điển, nhưng không sống theo Pháp". (Tăng Chi II-B, 1982,
tr. 118).
- - "Lại nữa,
này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thuyết cho các người khác một cách rộng rãi
pháp như đã được nghe, như đã được học thông suốt... Vị ấy dùng
trọn cả ngày để trình bày Pháp cho các người khác, bỏ phế sống
độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo thuyết trình nhiều, nhưng không
sống theo Pháp". (Sđd., tr. 118).
- - Lại nữa,
này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đọc tụng một cách rộng rãi Pháp như đã được
nghe, như đã học thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để tụng
đọc, bỏ phế sống độc cư, an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào
nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng
nhiều, nhưng không sống theo Pháp". (Sđd., tr. 119).
- - "Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo... dùng trọn cả ngày suy tầm nhiều về
Pháp, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào
nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm
nhiều, nhưng không phải sống theo Pháp". (Sđd., tr. 119).
- Tiếp theo
đoạn kinh trên, Thế Tôn dạy đại để rằng, nếu làm các công việc
trên một phần của ngày và để một phần của ngày vào công việc
sống độc cư, chuyên tâm tịnh chỉ, thì như vậy có nghĩa là sống
theo Pháp. Ðoạn Thế Tôn kết thúc bằng lời giáo giới này:
- - "Này các
Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này
các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật. Chớ để về sau phải
hối tiếc. Ðây là lời giáo giới của Ta dành cho các Ông". (Sđd.,
tr. 119).
- Cuối cùng,
vấn đề giải thoát, vấn đề sống với Chánh pháp vẫn là việc hành
Thiền định để đoạn tận các lậu hoặc.
- Về những
người nghe Pháp, Thế Tôn đã phân loại có ba hạng:
- - Một hạng
người, ngay tại chỗ ngồi nghe, đã không để tâm tác ý đến bài
kinh thuyết giảng.
- - Một hạng
người khác, sau khi rời khỏi chỗ nghe thì tâm không còn tác ý
đến bài giảng.
- - Hạng thứ ba
thì có chú tâm tác ý và nắm giữ được ý nghĩa của bài giảng trong
lúc giảng và cả sau lúc giảng. Chỉ có hạng nghe Pháp thứ ba này
là người nghe Pháp tốt nhất với trí tuệ rộng lớn. (Theo Tăng Chi
I, 1980, tr. 145-146).
- Ích lợi lớn
nhất của việc nghe Pháp chính là để hiểu Pháp. Ích lợi lớn nhất
của việc hiểu Pháp là hỷ tâm và tín tâm sinh để vận dụng vào
việc tu tập Pháp. Ích lợi lớn nhất của việc tu tập chính là sự
giải thoát tham, sân, si. Khi tham, sân, si đã bị tận diệt thì
nhu cầu nghe Pháp và hành Thiền vẫn còn có để được hiện tại lạc
trú.
- Nói tóm lại, những gì thuộc giải
thoát, an lạc, hướng về giải thoát, an lạc thì gọi là chánh,là
thiện. Tất cả công việc nói Pháp, nghe Pháp, hành Pháp đều nhằm
vào mục tiêu giải thoát sau cùng ấy./.
--o0o--
|
|