-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Ba - Tăng
Bảo
Tiết IV
- Ngũ Minh
- Ngũ minh là
Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh và Nội minh.
- Giáo lý về
Ngũ minh này khá quen thuộc với tu sĩ và Phật tử tại gia Việt
Nam. Chúng ta không thấy Ngũ minh được đề cập trực tiếp ở các
Nikàya và A-hàm. Tuy nhiên, Tam tạng của Phật giáo ở Hán tạng
lại ghi rõ và đề cập đến nhiều, bởi lẽ Ngũ minh được phát huy từ
khu vực Phật giáo ở Bắc Ấn. Bồ-tát Trì Ðịa Kinh, cuốn 3 và Tây
Vực Ký, cuốn 2, của Ðường Huyền Trang có giảng rõ. Xuyên qua các
Nikàya và A-hàm chúng ta cũng có thể rọi thấy Ngũ minh được biểu
hiện qua các đại đệ tử của Thế Tôn.
- Thanh minh,
là khả năng thông thạo về ngôn ngữ, văn từ. Công xảo minh là khả
năng thông thạo về nghề nghiệp, toán học, khoa học, văn chương,
triết lý thuộc ngoại điển. Y phương minh là khả năng hiểu biết
về y lý, thuốc men, trị bệnh. Nhân minh là khả năng thông thạo
về chánh, tà, đúng, sai... là khả năng luận lý, lý giải. Nội
minh là kiến thức thông rõ (gồm cả kinh nghiệm tu tập) ba tạng
Kinh điển của Phật giáo.
- Một vị tu sĩ
có đủ năm khả năng trên là một vị tu sĩ rất hoạt dụng, sẽ đem
lại nhiều lợi ích cho đời, và sẽ truyền đạo sâu rộng vào quần
chúng.
- Hẳn là có rất
ít tu sĩ thiện xảo đủ Ngũ minh. Vì vậy, toàn thể chư Tăng có thể
bổ túc cho nhau. Thông thường phần lớn các tu sĩ được đào tạo từ
nhỏ trong nhà chùa thì yếu về Công xảo minh và Y phương minh; về
mặt này nếu muốn biểu hiện sức sống tích cực độ đời của Phật
giáo, quý vị tu sĩ cần được huấn luyện.
- Qua giáo lý
Ngũ minh, chúng ta đã có thể hình dung ra được một tu sĩ đi vào
cuộc đời cần trang bị cho mình những gì; chúng ta cũng có thể
thấy được sự đóng góp tích cực của Phật giáo đến hạnh phúc thiết
thực của người đời. Ðồng thời, chúng ta cũng thấy nổi bật nét
tâm lý xã hội là Phật giáo áp dụng gắn liền với việc thuyết
giảng đạo Phật qua Y phương minh và Công xảo minh. Dĩ nhiên, ở
đây vị tu sĩ hẳn là cần vận dụng "Tứ nhiếp pháp" trên đường
hoằng hóa. Chính Tứ nhiếp pháp là nghệ thuật cảm hóa người đời,
sau đó qua thân giáo và khẩu giáo, vị tu sĩ giới thiệu giáo lý
giải thoát.
- Giáo dục để
đào tạo Ngũ minh cho quý vị tu sĩ là một hệ thống giáo dục tốt
đẹp của Phật giáo trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ nền văn
hóa nào.
- Vào thời Thế
Tôn tại thế, một số các đại đệ tử của Thế Tôn xuất thân vốn là
học giả của Ba-la-môn, hoặc bác học ở đời, nên khi được Thế Tôn
tế độ thì sẽ dễ dàng có đầy đủ Ngũ minh. Nhờ đó mà các Tôn giả
này đã đóng góp rất nhiều và hữu hiệu trong việc hoằng đạo, điển
hình là hai Tôn giả Xá-lơi-phất và Mục-kiền-liên. Ở Việt Nam,
các Thiền sư xuất thân từ các nhà Nho lỗi lạc cũng đã đóng góp
rất nhiều trong việc chấn hưng Phật giáo như Pháp sư Huyền Quang
và nhiều Thiền sư khác đời Lý, Trần...
- Tại đây,
chúng ta hãy nghe Thế Tôn dạy như thế nào là một vị trưởng lão
được chư Tăng ái mộ, ưa thích, tôn trọng, noi gương.
- "Ðạt được
nghĩa vô ngại pháp, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, đối với
các sự việc, các vị đồng Phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn hoặc
nhỏ, vị ấy thiện xảo, không có biếng nhác, thành tựu trí phương
tiện, ở đây vừa đủ để làm, để khiến người làm. (Tăng Chi II-B,
1981, tr.148).
- Ðạt được
nghĩa vô ngại và pháp vô ngại giải là Nội minh; "Từ" vô ngại
giải là Thanh minh; biện tài vô ngại giải là Nhân minh; thành
tựu trí phương tiện ở trên có thể hàm chứa ý nghĩa Công xảo minh
và có lẽ cả Y phương minh.
- Thế là, mẫu
người tu sĩ có đầy đủ Ngũ minh là mẫu người lý tưởng nhất trong
việc truyền bá Phật giáo, thuyết pháp độ sinh và cả về phần tự
tu tập.
- Phật giáo
ngày nay và mai sau không phải băn khoăn đi tìm mẫu người giáo
dục để đào tạo Tăng tài nữa, mà chỉ suy nghĩ đến con đường thể
hiện, thực hiện đến một mức độ tốt nhất mà thời đại có thể.
- Hẳn là sinh
hoạt tu và học của tu sĩ Phật giáo không phải là một sinh hoạt
khép kín, mà được mở rộng. Các trung tâm Phật giáo phải là các
trung tâm văn hóa của đời và đạo, không bao giờ có mặt của bất
cứ một ý nghĩa tiêu cực, yếm thế hay mê tín, thần bí nào trong
sinh hoạt của đoàn thể chư Tăng cả. Tập thể chư Tăng là một tập
thể có sinh hoạt rất nhân bản, lợi tha và đậm sắc màu văn hóa,
giáo dục, xã hội và dân tộc. Yếu tố dân tộc và văn hóa dân tộc,
theo tinh thần hành động của Tứ nhiếp pháp, hẳn là có mặt trong
sinh hoạt của đoàn thể này.
- Một nhà giáo
dục nhân bản của học đường ngày nay đòi hỏi có đủ khả năng hướng
dẫn tâm lý, hướng nghiệp bên cạnh khả năng trao truyền kiến thức
chuyên môn (dạy học). Trong phần hướng dẫn tâm lý, các khải đạo
viên hay hướng dẫn viên (counsellors) vẫn thường lúng túng trước
vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng của học viên hay thân chủ. Ở đây, tu
sĩ Phật giáo với đầy đủ Ngũ minh, quả thực là một hướng dẫn viên
(hay khải đạo viên) lý tưởng, hay tương đối lý tưởng. Với người
tu sĩ, thì học viên (hay thân chủ) lại đặt nhiều tin cậy hơn là
đối với các người hướng dẫn khác, và dễ dàng phơi bày những
chuyện uẩn khúc tâm lý của mình, hầu giúp người hướng dẫn thấy
rõ vấn đề để hướng dẫn hữu hiệu.
- Thực hiện
được vai trò của tu sĩ là nói lên một cách cụ thể rằng đạo Phật
không lìa đời, không tách khỏi cuộc đời: đạo và đời là một; đạo
vốn là đời được giải thoát khỏi các phiền não. Cứu khổ, giải
thoát khổ cùng lúc cho mình và cho đời há không phải là bản
nguyện của Thế Tôn ra đời đó sao?
-
- --[ Hết ]--
--o0o--
|
|