-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Cũ Xa
Xưa
(Bát Chánh Ðạo)
- Phạm Kim Khánh
- Trung tâm Narada, Seattle, Hoa
Kỳ
1993/2536
- --- o0o ---
- Phần 1
- Dẫn
nhập
- Tất cả chúng
sanh đều mưu tìm hạnh phúc và cố tránh đau khổ. Từ thuở con
người là con người, thế hệ này sang thế hệ khác, con người để
hết tâm trí, năng lực và thì giờ để tránh đau khổ và xây dựng
hạnh phúc. Từ ngàn xưa con người cố gắng khắc phục cảnh vật bên
ngoài để tạo tiện nghi cho mình và trong nhiều lãnh vực đã vẻ
vang thành công. Cuộc sống của chúng ta ngày nay có phần thoải
mái dễ chịu hơn xưa. Khoa học tân tiến đã phát minh nhiều dụng
cụ để phục vụ con người và nhờ đó chúng ta không phải lao động
nặng nhọc, không phải vất vả chịu đựng những lúc nóng bức và
những cơn lạnh buốt xương vì thời tiết đổi thay, không phải gian
lao khổ nhọc, mất nhiều thì giờ để di chuyển từ nơi này sang nơi
khác v.v... Những phát minh về y tế đã thành công chữa trị nhiều
chứng bịnh mà trước kia được xem là nan y, đã làm giảm thiểu
những cơn đau nhức của cơ thể, đã kéo dài tuổi thọ v.v... Những
cuộc cải cách xã hội, kinh tế, chính trị đã đem lại trật tự,
điều hòa và cải thiện cuộc sống của chúng ta. Tất cả những lợi
ích ấy được thực hiện nhờ công trình khảo sát thiên nhiên một
cách tỷ mỷ, có quy củ và có hệ thống. Con người cố gắng điều
chỉnh những điều kiện thiên nhiên để làm cho cuộc sống của mình
đươc thoải mái.
- Tuy nhiên,
với bao nhiêu cố gắng và thành công ấy con người ngày nay có
hạnh phúc thật sự không? Chúng ta có thật sự không còn đau khổ
nữa không? Bao nhiêu cố gắng ấy có giúp chúng ta chặn đứng, làm
cho thân này đừng bệnh hoạn, đừng đi đến già nua và mãi mãi sống
đời không? Ta có còn phải sống chung với người, với vật hay
trong hoàn cảnh mà mình không ưa thích, còn phải xa lià người
hay vật thân yêu nữa không? Chúng ta có luôn luôn thành đạt
những điều mong mỏi không?
- Trong khi xác
nhận bao nhiêu lợi ích mà chúng ta đang thừa hưởng từ những công
trình chế ngự thiên nhiên đã được thực hiện, chúng ta cũng nhận
định rằng con người vẫn còn phải chịu đau khổ và chưa viên mãn
thành đạt hạnh phúc châu toàn mong mỏi từ lâu. Tại sao? - Vì
phương cách mà chúng ta áp dụng để chữa trị bệnh đau khổ không
nhằm thẳng vào tận gốc rễ của chứng bệnh. Chúng ta chỉ chữa trị
trên bề mặt mà không đi sâu vào nguồn gốc, chỉ nhìn cái ngọn mà
không quan tâm đến căn cội.
- Hạnh phúc và
đau khổ phát sanh từ đâu và được duy trì tại đâu? Vấn đề phát
sanh nơi nào thì ta phải giải quyết ngay tại đó. Hânh phúc và
đau khổ phát sanh và được duy trì trong tâm. Ta phải giải quyết
vấn đề hạnh phúc và đau khổ ngay chính trong tâm này.
- Thay vì tìm
cách sửa đổi hoàn cảnh bên ngoài để thích hợp với mình Phật giáo
dạy nên tự sửa đổi chính mình để sống thích ứng với bên ngoài,
điều hòa với thiên nhiên, phải điều chỉnh cái nhìn của mình đối
với sự vật để có một quan niệm sống điều hợp với hoàn cảnh, nhằm
sửa soạn thân tâm hoàn toàn trong sạch và cuối cùng thoát ra
khỏi mọi hình thức đau khổ.
- Chúng ta hãy
lắng nghe lời Ngài Acharn Chah khuyên nhủ một cụ già sắp lâm
chung:
- "...Nghĩ rằng
cụ muốn tiếp tục sống thêm lâu dài sẽ làm cho Cụ đau khổ. Nhưng
nghĩ rằng Cụ muốn chết ngay trong tức khắc, hay sớm chết đi cho
rồi, thì cũng không đúng. Nó cũng làm cho Cụ đau khổ, có phải
vậy không thưa Cụ? Các vật hữu lậu không thuộc quyền sở hữu của
ta. Nó phải diễn tiến theo những định lậut thiên nhiên của nó.
Về phương cách mà thân này phải như thế nào Cụ không thể làm gì
được. Cụ có thể làm cho nó đẹp hơn đôi chút, hay làm cho cái
hình dáng bề ngoài của nó có phần hấp dẫn và sạch sẽ hơn trong
một lúc, như các thiếu nữ điểm trang dồi phấn thoa son, để móng
tay dài... Nhưng khi tuổi già đến thì tất cả mọi người đều chung
một hội một thuyền... một số phận. Thân này là vậy. Cụ không thể
làm gì khác. Nhưng cái mà Cụ có thể cải thiện, làm cho đẹp đẽ
hơn là tâm của mình.
- " Bất cứ ai
cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ hay bằng gạch, nhưng
Ðức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là của ta mà
chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó
là một cái nhà trong thế gian. Ngôi nhà thật sự của chúng ta là
trạng thái an tĩnh bên trong. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh
có thể thật đẹp, nhưng nó không mấy an tĩnh. Nó là nguyên nhân
tạo đến lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy náy
buồn phiền kia. Ta nói rằng nó không phải là ngôi nhà thật sự
của ta. Nó ở ngoài ta, và sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại.
Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó,
bởi vì không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Cơ
thể của chúng ta cũng vậy, ta chấp thủ là tự ngã, là "Ta" và
"Của Ta" nhưng thực tế không phải là vậy. Nó là một cái nhà khác
của thế gian. Thân Cụ đã biến đổi theo diễn tiến tự nhiên của nó
từ lúc được sanh ra đến ngày nay, già và bệnh, và Cụ không thể
cấm cản nó đổi thay vì bản chất của nó là vậy. Muốn cho nó khác
đi cũng điên rồ như muốn con vịt giống con gà. Khi nhận thức
rằng điều này không thể được, con vịt phải là con vịt, con gà
phải là con gà và thân này phải già nua và chết... Cụ sẽ phục
hồi sức mạnh và năng lực. Dầu cụ có thiết tha mong muốn cho thân
này tiếp tục tồn tại lâu dài như thế nào nó sẽ không làm được
như vậy. Ðức Phật dạy:
- "Aniccà vata sankhàrà -
Uppàdavayadhammino
Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."
- "Các pháp hữu vi (sankhàrà, các
vật được cấu tạo) là vô thường, phải sanh rồi hoại, đã có sanh
tức có hoại diệt - ngưng nó được là hạnh phúc."
- Danh từ
"Sankhàrà" - được phiên dịch ở đây là pháp hữu vi - hàm ý thân
và tâm này. Các Pháp hữu vi thật không bền vững, bất ổn định.
Ðược cấu thành nó liền tan biến, sanh rồi diệt mặc dầu mọi người
đều muốn nó thường còn. Ðó là điên rồ. Hãy nhìn hơi thở. Di
chuyển vào trong, rồi đi ra ngoài. Ðó là thiên nhiên, nó phải là
vậy. Hơi thở vào và hơi thở ra tiếp nối xen kẽ nhau: Thở vào rồi
thở ra, thở ra rồi thở vào. Phải có sự thay đổi. Các pháp hữu vi
được hiện hữu là do có biến đổi. Cụ không ngăn ngừa điều này,
chỉ nên suy tư như sau: "Có thể nào thở ra mà không thở vào đươc
chăng? Nếu thở ra mà không thở vào có nghe dễ chịu không? Hay có
thể nào chỉ thở vào mà không thở ra chăng? Chúng ta muốn rằng sự
vật phải thừơng còn nhưng nó không thể tồn tại lâu dài, không
thể được. Một khi hơi thở đi vào, nó phải trở ra. Khi đi ra, nó
phải vào trở lại, đó là tự nhiên. Có phải vậy không Cụ? Ðã được
sanh ra tức chúng ta phải già nua, bệnh hoạn, rồi chết. Ðiều này
hoàn toàn tự nhiên và thông thường. Ðó là bởi vì các pháp hữu vi
đã làm phận sự của nó. Cũng vì những hơi thở vào và những hơi
thở ra đã xen kẽ nối tiếp nhau đều đặn mà loài người tồn tại đến
ngày nay ..."
- Ðó là đường
lối của sự vật. Bản chất thiên nhiên của sự vật là vậy.
- Phật Giáo là
đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói
buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
- Tránh đau
khổ
- Con ngườii cố
gắng thoát khổ. Nhưng đời sống có thật sự đau khổ không?
- Nhiều người
vui vẻ mãn nguyện với những hạnh phúc ảo huyền và tạm bợ của đời
sống và tự nghĩ rằng thế gian này quả thật tốt đẹp, quả thật là
cảnh giới mà họ mong mỏi. Họ tưởng rằng hạnh phúc lúc nào cũng
còn phảng phất đâu đây, ở một góc nào, hay có lẽ ở bên cạnh mà
ta chưa hay biết. Họ không nhìn xa hơn, không nhìn vượt qua khỏi
chân trời hạn hẹp của mình. Ðối với hạng người này không có ai
là Phật, không ai thánh thiện, không có vị giáo chủ hay vị lãnh
đạo tinh thần nào trên thế gian.
- Nhưng đa số
những người khác thì hiểu biết rõ ràng phần đen tối phũ phàng ẩn
núp dưới lớp mặt nạ thân thiện của kiếp nhân sinh, xuyên qua
kinh nghiệm của chính bản thân họ và của những người sống quanh.
Dưới mắt họ cuộc sống xem hình như một đại dương mênh mông sâu
thẳm đầy hiểm họa và đau khổ. Trên mặt nước chúng sanh bơi lội,
lặn hụp, hay cỡi thuyền lướt sóng đi quanh quẩn, vài người mãn
nguyện, hãnh diện với số phận mình.
- Ðúng rằng có
những lúc trời êm biển lặng, buông mình thả trôi trên mặt nước
im lìm không chao động thì quả thật là thích thú. Nhưng những ai
mở mắt nhìn đời và mở rộng tâm trí, suy tư để khỏi bị bề mặt giả
dối của thế gian phỉnh gạt, có thể nhận định rằng bão tố có thể
nổi lên bất cứ lúc nào, những luồng nước lũ có thể tuôn đến và
xoáy tròn nguy hiểm như thế nào, và bao nhiêu hiểm họa khác,
tiềm tàng sâu ẩn trong lòng biển cả, đang chờ đợi, có thể trổi
dậy bất cứ lúc nào. Ðang bị lôi cuốn, lăn trôi theo những thăng
trầm của thế gian biến đổi vô cùng tận mắt không thể tìm ra hạnh
phúc vững bền. Mãi mãi triền miên lặp đi lặp lại những kiếp sống
khổ đau thật là đáng sợ.
- Thử nhìn thực
tại ở quanh ta. Có đời sống của người nào từ bé đến già mà phẳng
lặng như nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ sệt hay sầu muộn
làm chao động? Có gia đình nào chưa từng khóc cái chết của một
người thân? Có quả tim nào chưa từng nhói đau vì nghịch cảnh?
Bao nhiêu người đang trằn trọc rên xiết hay nằm vùi trên giường
bệnh và bao nhiêu người khác đang hồi hộp, lo âu và phiền muộn
vì người thân lâm trọng bệnh? Hằng triệu người khác đang cố bám
lấy từng hơi thở mà hầu như không còn trở lại. Hằng triệu cha
mẹ, con cái, bạn bè, đang than khóc sự ra đi của thân bằng quyến
thuộc -- ngay trong giờ phút này và trên thế gian rộng lớn dãy
đầy đau khổ này.
- Tất cả chúng
ta đều có vấn đề: Những vấn đề sinh nhai, vấn đề gia đình, sức
khỏe, vấn đề xã hội, vấn đề kinh tế, vấn đề chính trị, vấn đề
tâm lý v.v... chí đến vấn đề tôn giáo. Có vấn đề tức là có gì
không suông sẻ, có gì cần phải giải quyết, tức là trạng thái bất
ổn, trạng thái xung đột, xung đột giữa ý muốn của ta và những
diễn biến của đời sống, tức có gì không được thỏa mãn hoàn toàn,
có tình trạng bất toại nguyện, những hình thức khác nhau của đau
khổ. Nếu những gì mà ta gọi là vấn đề ấy không phải là bất toại
nguyện hay đau khổ tại sao ta cần phải cố gắng giải quyết?
- Tìm hạnh
phúc
- Ta lại tự
hỏi: "Trong đời sống có đau khổ mà cũng có hạnh phúc. Tại sao
chỉ đề cập đến đau khổ mà lờ hẳn, không nhắc đến hạnh phúc?"
- Khổ là trạng
thái không thỏa mãn, bất toại nguyện, làm cho ta khó chịu đựng
và như thế không ai muốn. Nhưng bất hạnh thay không ai tránh
khỏi.
- Còn hạnh phúc
thì ai cũng mong tìm, ai cũng khát khao muốn thành đạt. Nhưng
chúng ta không nhận thức rằng hạnh thức chỉ là hình thức khác
của đau khổ. Hạnh phúc và đau khổ chỉ giống như đầu và đuôi của
con rắn. Khi ta đụng vào đầu rắn tức thì nó cắn. Ðó là đau khổ,
hậu quả trực tiếp phát sanh trong tức khắc. Nhưng khi nắm đuôi
rắn thì ta cảm nghe an toàn. Mặc dầu vậy rắn sẽ quay đầu lại
cắn, cùng một thế như khi ta đụng vào đầu nó. Ðó là hạnh phúc.
Dầu đụng vào đầu hay vào đuôi ta vẫn bị rắn cắn. Phải nhận định
rằng đầu và đuôi rắn chỉ là hai phần khác nhau của con rắn. Cùng
thế ấy, hạnh phúc và đau khổ chỉ là hai phần của một vấn đề, vấn
đề đau khổ.
- Trong đời
sống cái được gọi hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là khi ta đạt điều
mong mỏi. Ta mong có tài sàn. Ðược tài sản là hạnh phúc. Muốn
danh vọng. Ðược danh thơm tiếng tốt là hạnh phúc. Muốn quyền
thế, được quyền thế uy lực là hạnh phúc. Truy nhiên, trong thế
gian vô thường không ngừng biến đổi này tất cả mọi sự đều nằm
trong trạng thái luôn luôn trở thành một cái gì khác thì cái
hạnh phúc mà ta khao khát bao nhiêu chỉ ở với ta trong giây phút
ma ta vừa nắm được nó. Tại sao? Vì hạnh phúc là thành đạt điều
mong muốn, nhưng điều mà ta mong muốn chỉ tồn tại nhất thời, đối
tượng mà ta khao khát mong mỏi quả thật phù du tạm bợ. Vớt nước
lên trong lòng hai bàn tay và mong sẽ giữ mãi mãi trong tay thì
làm sao khỏi thất vọng? Ðạo hữu Gunaratne viết: "Bây giờ ta có
thể tự hỏi, tại sao ái dục luôn luôn mang đau khổ (Dukkha) theo
vết chân của mình? Bởi vì ái dục là khao khát ham muốn một cái
gì tự nó không ngừng biến đổi, là chạy theo và cố bám vào cái gì
tự nó không thực có. Khi con người cố gắng đuổi bắt một mục tiêu
huyền ảo, lờ lững như thực như hư, một cái gì không thể bắt
được, một mục tiêu luôn luôn thụt lùi hay tan biến khi ta gần nó
thì con người còn có thể mong mỏi điều gì hơn là thất vọng, điều
gì hơn là trạng thái bất ổn, không điều hòa, tức dukkha, đau
khổ."
- Thử lấy một
thí dụ. Ta mong mỏi được có tiền. Tiền đến, Ta cảm nghe sung
sướng hạnh phúc. Thế nhưng, khi nắm được tiền trong tay ta lại
lo nghĩ phải làm thế nào để gìn giữ. Ta lo sợ kẻ trộm, kẻ cướp,
kẻ lường gạt. Ta suy tư, phải làm thế nào để nó sanh lợi, phải
dùng thế nào, bao nhiêu vấn đề mới lại phát sanh, ắt phải lo
lắng nghĩ ngợi, tức đau khổ.
- Hơn nữa, khi
có được tiền của ta lại mong muốn điều khác, lại tự tạo cho ta
những khát vọng mới: muốn mua sắm, muốn danh lợi, muốn quyền
thế, muốn thay đổi khung cảnh sống, muốn sửa đổi cảnh vật cho
thích hợp với lòng khao khát của mình. Ðức Phật dạy rằng những
ai đắm say trong tham vọng sẽ rơi trở vào dòng lôi cuốn của lòng
khát khao ham muốn, như nhện sa vào lưới của chính nó.
- Ðời là khổ.
Tuy nhiên dạy như thế Ðức Phật không khi nào cố tình khuyên tất
cả mọi người nên từ khước những lạc thú trần gian, vào rừng tìm
nơi thanh vắng để lo tu hành. Ðức Phật đạt toàn thể giáo lý của
Ngài trên nền tàng đau khổ (dukkha) nhưng khônbg bao giờ phủ
nhận những lạc thú trong đời. Bộ Tăng Nhứt A Hàm có liệt kê dong
dài những hạnh phúc mà chúng sanh có thể thọ hưởng. Chúng ta
không tìm cách xa lánh những hạnh phúc vật chất, nhưng hiểu biết
rằng nó chỉ là tạm bợ nhất thời. Thọ hưởng những lạc thú vật
chất nhưng không làm nô lệ cho thể xác. Phật giáo dạy ta nên tận
lực cố gắng, kiên trì nỗ lực, luôn luôn giữ tâm trong sạch và
thận trọng thu thúc dục vọng.
- Có thân tức
có già, có bệnh, có chết, có khổ v.v... Ta không thể sửa đổi
thiên nhiên, hay chỉ có thể làm được một cách vá víu tạm bợ.
Phải hiểu rõ bản chất thiên nhiên của đời sống là vậy. Phải thấm
nhuần chân lý này. Không thể sửa đổi thiên nhiên, mà chỉ có thể
kiểm soát và sửa đổi cái tâm của chính mình, làm cho nó thích
hợp với thiên nhiên.
- Pháp hành thiền trong Phật giáo
là rèn luyện tâm. Trước tiên, lắng tâm an trụ vào một điểm, làm
cho nó trở nên vắng lặng, sáng tỏ và có nhiều năng lực, rồi dùng
tâm lực dũng mãnh ấy quán chiếu thâm sâu vào sự vật, thấu triệt
thực tứơng của sự vật, thấy sự vật đúng như sự vật là như vậy,
không phải như mình nghĩ rằng nó là như vậy, tức nhìn sự vật
dưới ánh sáng của ba đặc tướng: Vô thường, Khổ và Vô ngã.
- Khi nhận định
đúng rằng trên thế gian huyền ảo, tạm bợ và vô thường này, chí
đến cái mà ta gọi là hạnh phúc cũng không thể tồn tại vì những
điều kiện tạo duyên cho nó phát sanh luôn luôn biến đổi và do đó
không thể có hạnh phúc thật sự vững bền Phật Giáo đi tìm nguồn
gốc của đau khổ.
- Nguyên nhân
sanh khổ
- Không có
người suy tư nào phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ, hay bất toại
nguyện, trên thế gian. Nhưng về nguyên nhân sanh khổ các hệ
thống tín ngưỡng đã giải thích bằng nhiều phương cách khác nhau.
- Trong tư
tưởng Phật giáo không có một siêu lực huyền bí cầm quyền tưởng
thưởng công đức và hình phạt những tội ác của con người. Không
có thửơng hay phạt đến với ta từ bên ngoài, bên trên, mà có nhân
quả, tức hành động và phản ứng của hành động. Và theo chiều
hướng hiểu biết này, mỗi người, mỗi chúng sanh là vị kiến trúc
sư xây đắp số phận của mình. Chính ta tạo thiên đàng cho ta và
cũng chính ta tạo địa ngục cho ta. Ðau khổ mà con người phải
chịu hôm nay là hậu quả dĩ nhiên của những nghiệp bất thiện mà
con người đã tạo lúc nào trong qúa khứ. Trong khi phần lớn những
tư tưởng gia tìm đến một thần lực huyền bí hay một nguyên lý bên
ngoài, bên trên con người để giải thích nguồn gốc đau khổ của
nhân loại thì Ðức Phật nhìn vào bên trong con người để tìm
nguyên nhân chứng bệnh đau khổ của con người. Và Ngài đi đến kết
luận: Những đau khổ "của tôi" là do hành động "của tôi". Và hành
động "của tôi" là do ái dục "của tôi" thúc đẩy.
- Chính ái dục
làm động cơ thúc đẩy đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng
thân, khẩu hay ý. Cũng chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng
của vô minh, thúc đẩy con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào
đời sống, và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người triền
miên lăn trôi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Có sống tức có
khổ.
- Ái dục bắt
nguồn từ đâu?
- Con người có
sáu cửa để ngoại cảnh thâm nhập vào gọi là lục nhập hay lục môn.
Sáu cửa này tác động qua lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý và có sáu đối tượng là sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp, mỗi
cửa mỗi đối tượng.
- Trong bộ
Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) có đoạn:
- "Ái dục bắt
nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục
lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ
đó và phát sanh ở đó."
- Khi mắt (nhãn
căn) tiếp xúc với một hình thể, (nhãn trần) tức có sự thấy (nhãn
thức). Khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với một âm thanh (nhĩ trần)
tức có sự nghe (nhĩ thức) v.v... Thấy những hình sắc đẹp, nghe
những âm thanh êm dịu hay những lời khen tặng, ngửi những mùi
thơm, nếm những món ngon vật lạ, thọ hưởng những cảm xúc dễ chịu
hay có những ý nghĩ tốt đẹp thì ta ưa thích, luyến ái, bám níu
v.v... những hình ảnh khác nhau của ái dục. Trái lại, những hình
sắc ghê tởm, những âm thanh nghịch nhĩ, những mùi hôi thúi
v.v... làm cho ta khó chịu, ghét bỏ, xua đuổi.
- Dầu ưa thích
hay ghét bỏ, ta vẫn giữ trong lòng. Ưa thích thì ôm vào giữ chặt
lại, còn ghét bỏ thì xua đuổi, đẩy ra. Ôm vào hay đẩy ra, nó vẫn
ở trong tâm mình và từ trong tâm, biểu hiện ra bằng hành động và
lời nói. Chính thân, khẩu, ý tạo nghiệp và đưa đẩy ta lạc lối
trong khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn gọi là đời
sống của muôn loài vật.
- Ta gọi là lục
thức, sáu sự hay biết xuyên qua lục căn, nhưng trong thực tế nó
chỉ là cái tâm, một cái tâm xuất hiện ở sáu nơi. Theo Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma), không có sự khác biệt giữa các danh từ citta
(tâm), nãma (danh), mana (ý) và vinnãna (thức). Khi phân tách
cái được gọi là chúng sanh làm hai phần thì phần tinh thần, tức
phần tâm linh, được gọi là danh (nãma). Khi phân cái được gọi
chúng sanh làm năm uẩn (pancakkhandha) thì phần ấy được gọi là
thức, (vinnãna, thức uẩn). Còn danh từ citta thì luôn luôn được
dùng khi đề cập đến những loại tâm khác nhau. Trong những trường
hợp lẻ loi, theo nghĩa thông thường của tâm, cả hai danh từ
citta và mana thường được dùng.
- Như vậy ái dục phát sanh từ
trong tâm. Nhìn và quan sát tâm tức là ghi nhận (có trí nhớ) và
hiểu biết rõ ràng bản chất của đối tượng khi nó phát sanh ở một
trong sáu căn.
- Khi lục căn
tiếp xúc với lục trần chỉ có sự thấy hình thể, sự nghe âm thanh
v..v... mà thôi. Chính ý căn nhận ra, hiểu biết đối tượng và do
ảnh hưởng của luồng nghiệp ngủ ngầm (ansaya), vốn mang theo với
nó những khuynh hướng tâm tánh của ta từ vô lượng kiếp ta có
những hành động và lời nói như thế nào
- Thí dụ như
người Phật tử thuần thành, khi thấy một pho tượng Phật thì hồn
nhiên chắp tay hay khấu đầu đảnh lễ. Mắt người ấy tiếp xúc với
pho tượng. Có sự thấy. Ý nhận ra đó là pho tượng Phật. Tâm tánh
ngủ ngầm trong luồng nghiệp (anusaya) thúc dục anh ta đảnh lễ.
Trong một trường hợp khác, khi anh nọ thấy một người mà trứơc
kia anh vẫn có ác cảm. Lóng ác cảm vẫn còn ngủ ngầm trong luồng
nghiệp. Giờ đăy hình sắc kia khiêu gợi khuynh hướng tâm tánh ngủ
ngầm, thúc đẩy anh có những hành động và lời nói kém thân thiện.
- Vì vô minh,
không thấy đúng sự thật, chúng ta đồng hóa lục căn với "Ta", xem
mắt, tai, mũi v.v... là "Ta", chúng ta tự đồng hóa với ngũ uẩn,
xem sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ta rồi chấp thủ, khư khư bám
chặt lấy cái "Ta " ấy và những cái gì gọi là "Của Ta". Ta không
nhận thức rằng cái gọi là "Ta" ấy chỉ là sự kết hợp của năm uẩn,
và mỗi uẩn lại là sự kết hợp của nhiều thành phần luôn luôn biến
đổi. Không có gì đơn thuần nguyên vẹn và thường còn y hệt trong
hai khoảnh khắc kế tiếp mà có thể gọi là "Ta". Nhưng ta vẫn chấp
nhận thân này là "Ta", là "Của Ta", mắt này là của ta và nói
"Tôi thấy" , "Tôi nghe", "Tôi đánh mùi" v.v... Ta cũng chấp nhận
cảm giác "Thọ uẩn " này là "Ta" hay "Của Ta" và nói "Tôi vui",
Tôi buồn" , cái buồn hay cái vui ấy là "Của Tôi" v.v... Do đó,
mắt muốn thấy hình sắc đẹp. Tai muốn nghe âm thanh êm dịu, Mũi
muốn ngửi mùi thơm tho, lưỡi muốn nếm món ngon vật lạ, thân muốn
cảm xúc về nhục dục và tâm muốn có những cảm nghĩ dễ chịu, những
tư tưởng làm thỏa mãn giác quan.
- Thử lấy một
thí dụ: Loại ái dục đầu tiên phát sanh do nhãn quan. Rất khó mà
kiểm soát và thu thúc nhãn căn, bởi vì bao nhiêu hình sắc đẹp đẽ
của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho ta xao xuyến. Ðức Phật
dạy rằng trên đời không có chi làm cho tâm một người đàn ông
chao động dễ dàng bằng hình dáng của người đàn bà. và không có
chi làm cho tâm người phụ nữ rung động dễ dàng bằng hình dáng
của người đàn ông. Lịch sử nhân loại đã từng chứng tỏ rằng bao
nhiêu cơ đồ đã bị sụp đổ và bao nhiêu công nghiệp đã suy tàn chỉ
vì sắc đẹp. Cũng vì lẽ ấy mà Ðức Phật hằng khuyên dạy hàng tín
đồ nên luôn luôn cẩn mật thận trọng trong việc kiểm soát nhãn
quan, như người lính gác cửa thành, từng phút, từng giây canh
chừng quân địch. Một khoảnh khắc lơ đễnh có thể gây hậu quả vô
cùng tai hại.
- Mắt bị rung
động vì hình sắc, tai bị cảm xúc vì âm thanh, mũi bị kích thích
vì hương, lưỡi vì vị. Thân của ta cũng là một nhịp cầu để cho
ngoại trần thâm nhập và làm say mê sa đọa. Tâm hay ý, cũng bị
ảnh hưởng xấu xa của những tư tưởng tham ái.
- Vào thời Ðức
Phật có những người phạm tội ác như cướp của giết người hay phá
khuấy dân cư, bị dẫn đến vua xứ Kosala. Vua truyền lệnh dùng dây
thừng, dây gai, xích trói các tội nhân ấy. Lúc bấy giờ có ba
mươi vị sư từ thôn quê đến hầu Phật, vào đảnh lễ Ngài xong xin
kiếu về tịnh thất.
- Qua này hôm
sau các vị sư ấy vào thành Savatthi (Xá Vệ) trì bình, đi ngang
qua khám đường và thấy các tù nhân. Lúc trở về chùa, vào buổi
chiều các vị đến hầu Phật, và bạch hỏi Ngài, "Bạch Hóa Ðức Thế
Tôn, hôm nay trong khi đi trì bình chúng con đi ngang qua khám
đường, thấy các tù nhân bị trói bằng dây thừng, dây gai và xích
lại. Trông hình như họ đang chịu đau khổ vô cùng. Họ không thể
phá vỡ gông cùm để thoát thân. Bạch Hóa Ðức Thế tôn, có chăng
những trói buộc chặt chẽ hơn?"
- Ðức Phật giải
thích: "Này chư Tỳ Khưu, các dây trói buộc ấy thật không chặt
chẽ đâu, nếu so sánh với những trói buộc của đam mê xấu xa đê
tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của lòng luyến ái, bám niú
vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ chồng. Ðó là trói buộc cả
trăm lần, hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các
loại dây mà các con thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có
chặt chẽ đến đâu, bậc thiện tri thức vẫn phá vỡ được."
- Và Ngài dạy:
"Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng buộc không bền chặt. Bậc
thiện tri thức dạy như thế. Dây luyến ái bám niú vào kim cương,
đồ trang trí vợ, con, là trói buộc bền chặt hơn nhiều.
- "Trói buộc ấy
thật bền chặt, bậc thiện tri thức dạy như vậy. Nó kéo trì xuống,
mềm mỏng dịu dàng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính dây ấy, nguời
thiện tri thức cũng cắt lìa và từ bỏ thế gian, không luyến ái và
từ khước mọi dục lạc." (Kinh Pháp Cú, câu 345 và 346)
- Trong quyển
Paticca Samupàda, Pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, Ðại Ðức Piyadassi
viết:
- "Con người luôn luôn bị thích
thú và dục lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thú và dục lạc
con người không ngừng chạy theo và cố bám lấy những đối tượng
tương ứng của lục căn (tức là lục trần). Nhưng ít khi con người
nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, vị, xúc.
pháp nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
hay ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu, hay
được thỏa mãn tham vọng con người càng tự ràng buộc mình vào
bánh xe luân hồi, càng bị dày vò xô xát và khổ sở quằn quại,
vướng mắc trong những cây căm của vòng bánh xe."
--o0o--
|
|