-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Cũ Xa
Xưa
(Bát Chánh Ðạo)
- Phạm Kim
Khánh
- Trung tâm
Narada, Seattle, Hoa Kỳ
1993/2536
- --- o0o ---
- Phần 3
- Con
đường cũ xa xưa: Bát Chánh Ðạo
- Trong những
năm gần đây, từ khắp nơi trên thế giới đã vang lên nhiều tiếng
kêu báo động nạn ô nhiễm. Người ta lo sợ ô nhiễm thành phố, ô
nhiễm không khí, ô nhiễm biển cả, ô nhiễm sông ngòi v.v... người
ta gia công khảo sát, thí nghiệm, nghiên cứu và tiêu hao biết
bao tiền của, năng lực, thì giờ để tìm phương cách bài trừ các
loại ô nhiễm thị giác, ô nhiễm thính giác, ô nhiễm tỷ giác
v.v...
- Còn ô nhiễm
tâm trí thì sao? Các bơn nhơ tinh thần mà, kẻ ít người nhiều,
chúng ta đã mang theo đến đây từ vô lượng kiếp thì thế nào?
- Cách đây hơn
25 thế kỷ Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã nhận thấy mối hiểm họa
vô cùng tai hại của ô nhiễm tinh thần và Ngài cảnh giác:
- "Không có
lửa nào như tham ái, không có ngục tù nào như sân hận, không có
màn lưới nào như si mê, và không có dòng sông nào như ái dục."
(Kinh Pháp Cú, câu 251)
- Lửa trên thế
gian dầu nóng như thế nào, ngục tù kềm kẹp của thế gian dầu khắc
nghiệt, tàn ác đến đâu, những màn lưới của thế gian có chặt chẽ
tệ hại ra sao, cũng chỉ thiêu dốt, gây đau khổ hay trói buộc ta
suốt trọn một kiếp sống là cùng. Nhưng ô nhiễm tinh thần sẽ đi
theo chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác, mãi mãi, triền miên,
trong vòng luân hồi, nếu chúng ta không biết chấm dút. Ái dục sẽ
lôi cuốn và đẩy mạnh chúng ta vào biển khổ trầm luân.
- Sáng suốt
nhận định rằng bản chất của đời sống l;à đau khổ và nguyên nhân
của đau khổ là ái dục. Ðức Phật vạch ra một lối sống, tự bản
thân khép mình vào lối sống đạo đức ấy, thành đạt mục tiêu cứu
cánh một cách vẻ vang và mở lòng từ mẫn khai hóa những ai có tai
muốn nghe, có tâm trí muốn suy tư và có ý chí để thực hành. Ðức
Phật dạy:
- "Bây giờ,
này hỡi chư Tỳ Khưu, đây là chân lý về Con Ðường dẫn đến diệt
khổ. Ðó là Bát Chánh Ðạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh
Ðịnh. "
- Ðây là Con
Ðường chia làm tám chi bao gồm tám năng lực tinh thần hùng mạnh
và có tính cách thiện. Tám chi của con đường phải được tập trung
lại để đánh đổ một năng lực bất thiện, ái dục, dai dẳng ngủ ngầm
bên trong ta.
- Chánh kiến
- Chánh kiến là
tri kiến chân chánh, hiểu biết đúng đắn, sự vật như thế nào thì
hiểu biết đúng như vậy. Hiểu sâu vào bên trong thực tướng của sự
vật chớ không phải hiểu phớt trên bề mặt. Ðến mức cùng tột,
Chánh Kiến là thấu triệt thực tướng của ngũ uẩn, tức thấu triệt
bản chất của chính mình. Nói theo một cách, Chánh Kiến là chứng
ngộ Tứ Diệu Ðế. Tuy nhiên, trước khi đạt đến từng hiểu biết cao
siêu ấy, trong ý nghiã thông thường, Chánh Kiến là phân biệt
chánh tà, biết điều nào là thiện và điều nào bất thiện. Muốn
thực hành Giáo Pháp mà không có nền tảng Chánh Kiến vững chắc
lắm khi phải lầm đường lạc nẻo, thay vì hướng về mục tiêu, càng
tách rời ra.
- Chính quan
kiến hướng dẫn hành động. Sự hiểu biết của chúng ta luôn luôn
nằm phiá sau nỗ lực của chúng ta. Nếu hiểu biết sai lầm, tà kiến
sẽ dẫn dắt đến những hành động lầm lạc có tác dụng tạo đau khổ.
Ngược lại, nếu hiểu biết chân chánh, Chánh Kiến sẽ đưa đến hành
động chân chánh và do đó, hướng về con đường thoát khổ. Mặc dầu
sự hướng dẫn sơ khởi này vẫn còn là một khái niệm mù mờ, hình
như không đưa đến hậu quả nào quan trọng, nhưng nhìn lại tận
tường, đó là bứơc đầu có tánh cách quyết định cho cả toàn thể
tiến trình phát triển tinh thần trong tương lai.
- Theo một lối
phân hạng, Chánh Kiến có ba là:
- 1. Sự hiểu
biết chân chánh rằng ta là sở hữu chủ của nghiệp mà ta đã tạo.
- Ðức Phật dạy:
- "Tất cả
chúng sanh là sở hữu chủ của cái nghiệp của mình, là thừa kế cuả
cái nghiệp của mình, sanh ra do nghiệp của mình, là họ hàng thân
thuộc của cái nghiệp của mình, ẩn náu trong và được nâng đỡ bởi,
cái nghiệp của mình. Bất luận nghiệp nào mà ta đã tạo, dầu thiện
hay bất thiện, thì ta sẽ là thừa kế, hưởng trọn hậu quả của nó."
- Trong đời sống ta có thể cần cù
làm lụng, kiệm cần dành để và tạo nên nhà cửa, sự nghiệp, vàng
vòng, trang sức v.v... Ta cũng có thể thừa hưởng những sở hữu
trên do ông bà cha mẹ truyền lại. Ta gọi đó là "của mình", hay
nói "mình" là sở hữu chủ của những vật đó. Tuy nhiên, dầu ta có
bám chắc, nắm chặt và tận lực gìn giữ đến đâu, nó vẫn ở với ta
một cách tạm thời. Bao nhiêu yếu tố như hỏa hoạn, bão lụt, trộm
cướp, kẻ thù nghịch, chiến tranh v.v... và cuối cùng cái chết
phải đến, luôn luôn sẵn sàng để tước đọat quyền làm chủ của ta.
Chỉ có một điều -- nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện mà ta đã
tạo -- sẽ không bao giờ rời ta, dầu ở trong kiếp sống này hay
trong nhiều kiếp vị lai. Không có kẻ thù nghịch hay trộm cướp
nào tranh đoạt, không có chiến tranh hay thiên tai nào tiêu hủy,
chí đến cái chết cũng không làm mất mát hay sứt mẻ cái nghiệp
của ta. Do đó, Ðức Phật dạy rằng: "Tất cả chúng sanh là sở hữu
chủ của cái nghiệp của mình".
- Vì cái nghiệp
mà ta đã tạo theo dính liền với ta, ta sẽ thừa hưởng hậu quả của
nó như phần di sản, ta sẽ tái sanh vào trạng thái nào cũng do
nơi nó, nó là những người họ hàng thân thuộc không bao giờ rời
ta. Ta sẽ ẩn náu an toàn trong thiện nghiệp và nhờ thiện nghiệp
nâng đỡ. Nó như người bạn tốt đón chờ ở một cảnh giới nào trong
tương lai để hỗ trợ ta. Vậy, ta phải chăm sóc, giữ gìn cái
nghiệp cho được luôn luôn tốt đẹp. Ðôi khi có người nói, "Tôi ăn
hiền ở lành, không trộm cướp gì của ai, vậy là đủ rồi, cần gì
phải tu." Nói như vậy nghe thóang qua hình như hữu lý. Nhưng ăn
hiền ở lành là thế nào? Theo người đời, đi câu cá, săn thú hay
trà đình, tửu quán là thú tiêu khiển thanh nhàn, cướp sự sống
của sinh vật để nuôi mạng sống mình hay để hỷ hả tiệc tùng là tự
nhiên, và ta tạo bao nhiêu bất thiện nghiệp khác một cách vui
vẻ, tự nhiên. Ta phải biết thương, biết bảo tồn nghiệp thiện hơn
là thương yêu và bỏa tồn chính sự sống của ta. Ta phải biết sợ,
biết lánh xa bất thiện nghiệp, hơn là ta sợ lánh xa cái chết của
chính ta. Thế thường, ta sợ chết và muốn sống. Ðể bảo tồn sự
sống và ngăn chặn cái chết, lắm khi ta hành động bất chánh và do
đó, tạo nghiệp bất thiện vô cùng tai hại mà trong nhiều kiếp
sống chính ta phải gánh chịu hậu quả. Nên nhớ rằng chết ở đây là
tái sanh, sống lại ở nơi khác, và khi rời bỏ cảnh giới hiện tại
ta cũng lià bỏ tất cả, chỉ mang theo cái nghiệp mà ta đã tạo.
Trong quyển The Buddha and his Teachings (Ðức Phật và Phật
Pháp), cố Ðại Ðức Nãrada viết:
- "Tài sản sự
nghiệp mà ta trìu mến bao nhiêu, thân bằng quyến thuộc mà ta yêu
qúy bao nhiêu, sẽ không đi theo ta. Chắc chắn như vậy. Cho đến
cơ thể này mà ta gọi là "Của Ta" cũng vậy. Từ cát bụi nó đến. Nó
sẽ trở về với cát bụi. Danh vọng ảo huyền, vinh quang trống
rỗng, tất cả đều tiêu tan theo mây theo gió. Vẫn một thân một
mình chúng ta phiêu bạt trong cơn bão táp, giữa đại dương của
vòng luân hồi, trôi giạt đó đây theo cái nghiệp."
- 2) Sự hiểu
biết chân chính về thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, về hậu quả
của nghiệp đã tạo, về sự hiện hữu của những cảnh giới ngoài cảnh
người, về sự hiện hữu của những năng lực siêu phàm.
- Nghiệp là
hành động tác ý được thực hiện bằng ba đường lối: Tư tưởng, lời
nói, việc làm. Tất cả những hành động có tác ý, thực hiện bằng
thân, khẩu, ý, dầu thiện hay bất thiện, đều tạo nghiệp. Những
hành động không cố ý, không chủ tâm, nghiã là không có tác ý
(cetanã), đều không tạo nghiệp mặc dầu đã biểu hiện ra ngoài
bằng lời nói hay việc làm.
- Hành động
thiện tạo nghiệp thiện và đến hậu quả là hạnh phúc, tinh thần
hay vật chất. Hành động bất thiện đưa đến thọ khổ, vật chất hay
tinh thần.
- -- Ba hành
động tạo bất thiện nghiệp bằng thân là: sát sanh, trộm cắp, tà
dâm.
- -- Bốn hành
động bất thiện nghiệp bằng lời nói là: Nói dối, nói đâm thọc,
nói thô lỗ cộc cằn, nói nhảm nhí.
- -- Ba hành
động tạo bất thiện nghiệp bằng ý là: Tư tưởng tham lam, sân hận
và tà kiến.
- Những hành
động đối nghịch với mười điều kể trên ( như tâm từ, lòng thương
chúng sanh, bố thí v.v...) được biểu hiện qua ba đường lối thân,
khẩu, ý, dầu nhằm mục đích tạo dựng tài sản, để sinh sống hay để
vun bồi kiến thức, đều được xem là thiện nghiệp.
- Người có
Chánh Kiến hiểu biết chân chính rằng những hành động như bố thí
vật thực cho thú, cho người cư sĩ hay dâng cúng đến chư Tăng,
nếu làm với tâm từ, sẽ đem lại hậu quả tốt đẹp, trong kiếp sống
này và nhiều kiếp khác. Dầu cúng dường đông đảo chư Tăng với
nhiều lễ vật qúy giá hay tặng một món qùa nhỏ mọn, nếu làm với
tâm từ, vì lòng tốt, thương, muốn giúp người, vì lòng thành thật
muốn đem phúc lợi đến cho người, hành động ấy sẽ tạo quả phúc
cho người làm. Cùng thế ấy, những hành động như thọ trì Bát Quan
Trai Giới trong những ngày giới, hằng giữ năm giới, tham thiền,
quy y Tam Bảo v.v... đều tạo thiện nghiệp.
- Người tà kiến
chủ trương rằng mỗi người chỉ sống vỏn vẹn một kiếp, và tất cả
năng lực --tinh thần cũng như vật chất - đều chấm dứt khi đời
sống này chấm dứt. Chết là hết. Sau khi chết con người bỏ lại
tất cả mọi năng lực phát nguyên trong đời sống và trở lại hoàn
toàn hư vô, hoàn toàn tiêu diệt. Ðối với những người này bất
luận hành động nào, dầu thiện hay bất thiện, cũng không đem lại
hậu quả nào. Không nhân, quả, không nghiệp báo. Vì quan niệm như
vậy, lý tưởng của họ là cứ tận hưởng mọi lạc thú trên đời, hưởng
thọ càng nhiều càng tốt và có thể làm bất cứ gì dầu có hại ai
khác.
- Hiểu rằng mọi
hành động thiện và bất thiện đều đem lại hậu quả; hiểu rằng
phụng dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ hữu phúc là tạo thiện nghiệp
và sẽ được phước báu về sau; hiểu rằng thật sự có những chúng
sanh hóa sanh, đột nhiên được sanh ra, bỗng nhiên xuất hiện mà
không phải trải qua hình thức thai bào nào; hiểu rằng có cảnh
giới này cũng có những cảnh giới khác. Những hiểu biết như vậy
là chân chánh. Người có Chánh Kiến cũng hiểu biết rằng trong thế
gian có những bậc cao minh, có khả năng siêu phàm như các bậc
Thánh Tu Ðà Hườn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
- 3. Sự hiểu
biết chân chánh về Tứ Diệu Ðế.
- Ðến mức cùng
tột, Chánh Kiến là hiểu biết chân chánh về bốn Chân Lý Thâm Diệu
trong thế gian (Tứ Diệu Ðế).
- Chánh kiến ở
mức sơ khởi là hiểu đúng con đường. Như người kia lạc nẻo, bỡ
ngỡ trước nhiều ngả đường vì không biết chọn ngả nào, may thay
chợt nhận ra tấm bảng chỉ đường bên canh một con đường mòn xưa
cũ. Bảng chỉ đường là Giáo Pháp của Ðức Phật, khách lữ hành
thênh thang lạc bước là phần đông chúng ta, những người sơ cơ,
đường mòn là Con Ðường Cũ Xa Xưa mà chư Phật đã trải qua.
- Vào giai đoạn
đầu, Chánh Kiến là những hiểu biết chân chánh đưa hành giả đến
hành động trong sạch, tạo thiện nghiệp để thọ hưởng những trạng
thái nhàn lạc trong vòng luân hồi. Cũng có người đã lãnh hội đầy
đủ luật nhân quả mà vẫn còn tự hạn chế ước vọng của mình trong
những thành tựu của thế gian. Những người này có những hành động
đạo đức thanh cao để tích trữ phước báu và thọ hưởng khoái lạc,
danh vọng, quyền thế v.v... trần gian, trong cảnh người, hoặc
thọ sanh vào những cảnh Trời nhàn lạc. Tuy nhiên, trong sự hiểu
biết bằng lý trí - Chánh Kiến ở tầm mức tại thế - không có gì để
đưa con người vượt lên khỏi định luật nghiệp báo, thoát ra khỏi
vòng tạo nhân và gặt quả. Ðể giải thoát hoàn toàn ra khỏi vòng
sanh tử luân hồi cần phải có sự hiểu biết sâu sắc, nhận chân
thực tướng của vạn pháp, Chánh Kiến siêu thế.
- Chánh Kiến
cao siêu có khả năng đưa đến giải thoát là hiểu biết Tứ Diệu Ðế.
Ðức Phật dạy:
- "Bây giờ,
Chánh Kiến là gì? Ðó là hiểu biết đau khổ, hiểu biết nguyên nhân
sanh khổ, hiểu biết sự chấm dứt đau khổ, và hiểu biết con đường
dẫn đến chấm dứt đau khổ." (Dĩgha Nikãya, Trường A Hàm , bài
kinh số 22)
- Bát Chánh Ðạo
bắt đầu với một khái niệm về Tứ Diệu Ðế, chỉ hiểu biết mù mờ
xuyên qua lý trí và tiến dần đến tuyệt đỉnh là trực giác chứng
nghiệm, thấu triệt những chân lý cao siêu thâm diệu ấy và trở
nên hoàn toàn giác ngộ. Như vậy, có thể nói rằng hiểu biết Tứ
Diệu Ðế là bước đầu mà cũng là mục tiêu tối hậu của con đường
thoát khổ.
- Ba chân lý
đầu tiên của Tứ Diệu Ðế -- Khổ Ðế, Tập Ðế và Diệt Ðế -- là quan
điểm của Phật giáo về kiếp nhân sinh. Dựa trên triết thuyết này
Ðức Phật vạch ra một lối sống thích nghi đưa đến trạng thái tâm
tuyệt đối trong sạch và trí tuệ toàn hảo. Ðó là Bát Chánh Ðạo,
phần thực hành trong Phật Giáo. Ðó cũng là con đường được gọi là
"Trung Ðạo" (Majjhimã Patipadã), tránh xa hai cực đoan. Một bên
là lối sống lợi dưỡng, thấp hèn, của người buông lung, đắm chìm
trong dục lạc. Bên khác là lối sống khắc khổ, vô bổ và vô nghiã
lý, của những người ép xác khổ hạnh cuồng tín. Trung đạo là con
đường trải dài ở khoảng giữa hai cực đoan ấy, là con đường của
lý trí và thận trọng.
- Chánh Kiến về
Tứ Diệu Ðế phát triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên được
gọi là Chánh Kiến phù hợp với chân lý (saccanulomika
sammãditthi: Sammãditthi là Chánh Kiến, Sacca là chân lý,
Amulomika là thuận chiều với, đúng với, phù hợp với ). Giai đoạn
thứ nhì là Chánh Kiến thâm sâu vào chân lý, thấm nhuần chân lý
(saccapativeda sammãditthi: Pativeda là đi sâu vào, thấm sâu vào
bên trong). Chánh KIến phù hợp với chân lý là hiểu biết rõ ràng
ý nghiã của bốn chân lý cao siêu thâm diệu (Tứ Diệu Ðế) của đời
sống. Sự hiểu biết này phát sanh do nhờ học hỏi và nghiên cứu
những chân lý ấy. Sau đó, nhờ suy tư sâu vào mà ánh sáng của
kinh nghiệm rạng chói dần dần đến lúc vữnbg chắc tin tưởng như
vậy.
- Tuy nhiên,
chí đến mức độ này hành giả cũng chưa hoàn toàn thấm nhuần chân
lý. Sự hiểu biết của hành giả đến lúc bấy giờ chưa tuyệt đối là
hoàn bị vì đó chỉ là một quan niệm rõ ràng, thay vì là tri giác.
- Muốn tiến đến
thực sự chứng nghiệm phải trải qua thời gian thực hành pháp môn
thiền định: Trước tiên là an trụ tâm vững chắc và sau đó trau
giồi và phát triển Tuệ Minh Sát ( Vipassanã).
- Tuệ minh sát
phát sanh do nhờ quán chiếu và sáng suốt suy niệm về ngũ uẩn,
những yếu tố của kiếp sinh tồn, để phân biện rõ ràng những đc
điểm của nó. Ðến mức tuyệt đỉnh của cong trình suy niệm này hành
giả tách rời cái nhìn của mình ra khỏi những hiện tương hữu lậu
của ngũ uẩn và nhắm vào trạng thái vô lậu Niết Bàn. Lúc bấy giờ,
nhờ Tuệ Minh Sát sắc bén thâm sâu, Niết Bàn đã có thể được thành
tựu. Ðến đây hành giả chứng ngộ Niết Bàn. Ái Dục đã chấm dứt.
Trí tuệ đã bừng sáng và hành giả rõ ràng thấy rằng ái dục thật
sự là nguyên nhân của mọi hình thức đau khổ và Bát Chánh Ðạo
thật sự là con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Như vậy, Chánh
Kiến thấm nhuần Tứ Diệu Ðế phát sanh vào giai đoạn cuối cùng của
con đường, chớ không phải vào lúc sơ khởi.
- Giai đoạn đầu
tiên của người có Chánh Kiến là nhận ra Con Ðường. Rồi từ đó đặt
chân lên Con Ðường và, nhờ Chánh Kiến soi đường, tiến dần đến
mức cùng tột là chứng ngộ thực tướng của vạn pháp.
- Chánh tư duy
- Chi thứ nhì
của Bát Chánh Ðạo là Chánh Tư Duy (Sammã Sankappa. Sammã là
đúng, chân chánh. Sankappa. là suy tư, có nguyện vọng, có ý
định). Chánh Tư Duy là suy tư chân chánh, trong ý nghiã có những
tư tưởng hướng đến hành động chân chánh, là quyết định hay lập
tâm quyết đến hành động chân chánh.
- Tư tưởng chân
chánh bắt nguồn từ sự hiểu biết chân chánh và dẫn đến hành động
chân chánh. Người hiểu biết chân chánh (Chánh Kiến) ắt suy tư
chân chánh (Chánh Tư Duy). Ðàng khác, người suy tư chân chánh ắt
cũng hiểu biết chân chánh. Một tri kiến thâm diệu về bản chất
thật sự của kiếp sinh tồn được hoàn mãn thành tựu nhờ suy tư sâu
sắc và quán trạch tận tường sẽ đưa đến giá trị tinh thần đạo đức
hướng dẫn tâm đến hành động chân chánh, tương xứng với tri kiến.
- Như vậy, hai
chi đầu của Bát Chánh Ðạo - Chánh Kiến và Chánh Tư Duy - liên
quan với nhau mặt thiết và ảnh hưởng với nhau rất chặt chẽ. Hai
chi này hợp thành giai đoạn "Tuệ" của Con Ðường Giải Thoát.
Chánh Tư Duy nằm khoảng giữa và làm gạch nối liền, một bên là
Chánh Kiến và bên kia là bộ ba Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng.
- Di hiểu biết
chân chánh phát sanh những tư tưởng chân chánh, dẫn dến hành
động chân chánh biểu hiện bằng lời nói chân chánh, tạo nghiệp
chân chánh và nuôi mạng chân chánh. Ðiều này cho ta thấy rằng
Chánh Tư Duy không phải chỉ là suy tư suông mà là suy tư bắt
nguồn từ hiểu biết chân chánh và đưa đến hành động chân chánh.
- Sammã
Sankappa, Chánh Tư Duy, là có những tư tưởng chân chánh, mà cũng
có nghiã là quyết định chân chánh, tức có:
- 1. Những tư tưởng khước từ, buông
bỏ, không luyến ái, thiên về xuất gia.
2. Những tư tưởng không thù hận và
3. Những tư tưởng không hung bạo.
- 1.- Tư
Tưởng khước từ. Luyến ái là một hình thức ái dục, mà ái dục
là nguyên nhân sanh khổ. Do đó, loại suy tư chân chánh đầu tiên
là không luyến ái mà buông bỏ, khước từ. Danh từ Pali mà Ðức
Phật dùng ở đây là nekkhama, Xuất gia, có nghiã là khước từ
những lạc thú trần gian để chọn lấy đời tu sĩ.
- Dĩ nhiên,
nhận thức rằng xa hoa vật chất là ảo huyền và thú vui vật chất
không tạo hạnh phúc thật sự vũng bền rồi tự nguyện lià bỏ tất cả
sự nghiệp trên đời để khoác tấm y vàng, làm người không nhà cửa,
không của tiền, không gia đình, tự ý cam khổ, nghèo nàn, đơn
giản, để cố gắng sống hoàn toàn trong sạch là hình thức khước từ
cao thượng nhất. Tuy nhiên, Ðức Phật không bao giờ khuyên dạy
tất cả mọi người đều nên ly gia cắt ái. Ngài chỉ dạy rằng dầu
xuất gia hay cư sĩ, chúng ta nên thận trọng nhận thức mối nguy
hại của nhục dục ngũ trần mà Ngài ví như cục xương khô, như ngọn
duốc mà ta cầm đi ngược chiều giáo, như một hầm than đỏ, như một
giấc mơ, như vật vay mượn v.v... Ngài dạy:
- "Này chư
Tỳ Khưu, thú vui của nhục dục ngũ trần quả thật là tạm bợ, vô
thường, là trống rỗng, là giả tạo, là không thực..."
- Có những tư
tưởng buông bỏ, từ khước những dục vọng trần tục, không luyến ái
vị kỷ vào tài sản sự nghiệp, xa lánh cuộc đời phồn hoa đô hội và
khoái lạc vật chất, không triù mến, luyến ái cái "Ta" , không
bám chặt, đeo niú đời sống, là loại Chánh Tư Duy đầu tiên.
- Ðức Phật mô
tả giáo lý của Ngài là con đường ngược chiều với thời gian.
- "Chắc như
vậy, con đường dẫn đến lợi lộc của trần gian là một, và con
đường dẫn đến Niết Bàn là con đường khác. Thông hiểu như vậy,
thầy Tỳ Khưu đệ tử Phật không nên thỏa thích trong mùi danh bả
lợi của thế gian mà phải trau giồi hạnh buông bỏ." (Kinh Pháp Cú
, câu 75)
- Con đường của
thế gian là con đường tham ái, dục vọng. Con người thế gian đi
dài, thuận chiều theo con đường ấy, mưu tìm hạnh phúc trong sự
thỏa mãn tham dục của mình. Giáo Huấn Buông Bỏ mà Ðức Thế Tôn
ban truyền kháng cưỡng chống lại sức lôi cuốn như thác lũ của
tham vọng, đi dần đến mức chấm dứt ái dục và tìm hạnh phúc,
không phải trong sự thỏa mãn, mà trong sự dứt bỏ, từ khước ái
dục.
- Dầu là bậc
xuất gia hay hành tại gia cư sĩ, nguyên tắc chỉ đạo chính yếu
vẫn được ghi nhận là phải hoàn toàn tận diệt mọi hình thức ái
dục mới có thể thành tựu giải thoát trọn vẹn. Từng bước một càng
xa lià ái dục là càng đến gần giải thoát. Biết rằng ái dục là
nguồn cội phát sanh đau khổ và biết rằng chấm dứt hay giảm suy
đau khổ đến mức độ nào là tùy thuộc ở sự chấm dứt hay mức độ
giảm suy ái dục, người Phật Tử thuần thành cố gắng phát triển
tâm buông bỏ.
- Nhưng chính
tại điểm này ta gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ từ bên trong. Từ
lâu, tâm chúng sanh đã quen thâu đạt, cố bám, nắm giữ và tích
trữ. Thói quen ấy đã trở thành bản tánh tự nhiên, không dễ gì
dùng ý chí mà thay đổi. Dầu lý trí có ưng thuận buông bỏ nhưng
tâm, vị ảnh hưởng của ái dục , vẫn còn khư khư chấp thủ, không
khứng chịu khước từ. Do đó, vấn đề bây giờ là làm thế nào để gỡ
cái tâm ra khỏi sự chi phối của ái dục. Ðức Bổn Sư không dạy
phải đè nén hay cưỡng bách, xua đuổi ái dục ra khỏi tâm, vì đó
chỉ là giải pháp tạm thời. Công cụ mà Ðức Thế Tôn trao truyền để
diệt trừ ái dục là tri kiến, hiểu biết chân chính bản chất của
sự vật.
- Dứt bỏ, từ
khước, thật sự không phải là vấn đề tự ép buộc mình cố gắng
buông bỏ nhưng gì mà sâu kín trong lòng mình vẫn còn tưng tiu,
ôm ấp, mà là vấn đề tự mình thay đổi quan kiến của mình, nhìn sự
vậy dưới ánh sáng trí tuệ. Khi chúng ta quán trạch tận tường và
thấu triệt đầy đủ bản chất thật sự của ái dục và những đối tượng
của nó thì chính nó sẽ tan biến mà không cần phải chiến đấu.
- Một em bé
đang say mê giữa đám đồ chơi của em. Nếu có ai đến xin hoặc dựt
của em một món ắt là em khóc la và tranh đấu giành lại cho kỳ
được. Nhưng em bé lớn dần. Ðến một ngày nào em sẽ không còn bám
niú vào những đồ chơi ấy nữa mà để mặc tình ai lấy đi hay làm gì
cũng được. Tại sao? -Vì em đã trưởng thành.
- Cũng dường
thế ấy, ngày nào ta nhận thức rằng ái dục là nguồn gốc của khổ
đau, và đau khổ luôn luôn dính liền với ái dục, bởi vì ái dục là
khát khao và bám chặt vào một cái gì không ngừng biến chuyển,
một cái gì không thật sự có thì làm sao tránh khỏi sầu muộn, đau
buồn, thất vọng. Ðến chừng ấy ta sẽ không còn luyến ái và cố
bám, cố giữ những gì mà lúc nào tưởng chừng như đó là nguồn hạnh
phúc duy nhất trên đời
- Ta có thể
tưởng tượng rằng từ bỏ ham muốn để vượt đến buông bỏ là một hình
thức khổ hạnh, là từ sung sướng trở thành gian khổ, từ phong phú
dồi dào trở nên nghèo nàn thiếu thốn, từ hạnh phúc thành sầu
muộn. Nhưng thật sự, đó là đi từ thỏa thích thô kịch đến hạnh
phúc tinh vi tế nhị, êm dịu và thâm trầm, từ những thú vui đầy
phiền lụy và cạm bẫy đến an lạc, thanh bình và thật sự châu
toàn... từ nô lệ đến tự do.
- Chuyển biến
này sẽ không xảy điễn nhanh chóng hay một cách dột ngột. Nhưng
nếu ta chuyên cần tu nệim ắt một ngày nào nó sẽ đến... như một
ngày nào em bé trưởng thành.
- 2. Tư
tưởng không thù hận: hàm ý là tâm từ.
- Tâm từ trong
Phật giáo là tình thương rộng lớn bao la, không có bất luận giới
hạn hay sự phân biệt nào mà cũng thâm diệu đậm đà như tình
thương của một bà từ mẫu đối với người con duy nhất của bà.
- Có những lời
dạy nên thương người láng giềng, người đồng đạo, người đồng
chủng, người đồng hương, người đồng chí, người đồng loại v.v...
Tất cả những tình thương ấy đều trong sạch, tốt đẹp và cần thiết
trong xã hội. Nhưng đó không phải là tâm từ trong Phật Giáo vì
có sự phân biệt và có giới hạn trong tình thương. Ðó là tình
thương giới hạn trong cái "đồng" Ðây là "Ta". Giữa đây và chúng
sanh nào có một điểm gì chung, một cái gì "đồng" với cái "Ta" ấy
thì có tình thương. Ðồng thời có sự phân biệt với những người
khác, những người không có gì "đồng". Thương người láng giềng
"Của Ta", người chung một tôn giáo với "Ta" , cùng một chủng tộc
với "Ta", một xứ sở với "Ta" v.v... Lấy cái "Ta" làm trung tâm
điểm rồi từ đó tình thương phát tủa ra như ánh sáng một ngọn đèn
trong căn phòng, giới hạn bên trong bốn vách. Ðó là bản chất tự
nhiên của con người. Tình thương vẫn là tình thương, với tất cả
những gì tốt đẹp, dịu hiền, dễ mến của nó. Xã hội không thể tồn
tại nếu không có những tình thương ấy.
- Ở đây chỉ
muốn nói rằng tâm từ của Phật Giáo không phải như vậy. Tâm từ
phải bao trùm toàn thể chúng sanh, toàn thể càn khôn vũ trụ, vô
lượng, vô biên, không có sự phân biệt nào. Người có tâm từ phải
vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ, riêng tư, không bị giam hãm
trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của tinh thần
đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo mà nhìn tất cả
thế gian là quê hương của mình, và mỗi người, mỗi chúng sanh, là
bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời sống của
muôn loài vạn vật. Người có tâm từ hòa đồng với tất cả, tự mình
chan hòa trong toàn thể, xem vạn vật và mình là một.
- Một loại tâm
như vậy quả thật là cao thượng! Nhưng cũng rất khó thực hành.
Ðúng như vậy. Vì lẽ ấy chúng ta còn là phàm nhân. Chúng ta còn
phân biệt đây là "Ta", kia là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là
con, là cháu "Của Ta", cái này là tiền của, sự nghiệp, cái kia
là danh vọng, quyền thế "Của Ta" v.v... Chư vị A La Hán đã tận
diệt ngã chấp. Tâm từ của các Ngài như vừng thái dương, bao trùm
vạn vật mà không có sự phân biệt nào. Ðức Phật là kết tinh, là
hiện thân của tâm từ vô lượng vô biên ở mức độ cùng tột. Ðó là
những gương lành trong sạch để ta noi theo, là lý tưởng thanh
cao tuyệt đỉnh để ta hướng tâm về. Những tư tưởng nào hướng về
tâm từ vô lượng ấy là Chánh Tư Duy.
- 3. Tư
tưởng không hung bạo:
- Hung bạo là
gây đau khổ cho người khác mà không xót thương, không động lòng
trước tình trạng đau khổ của người khác. Nghịch nghĩa của hung
bạo là bi mẫn, động lực làm cho ta rung động trước cảnh khổ của
người khác, là cái gì thoa dịu lòng khổ đau của người, là thiện
ý muốn giúp người thoát một cảnh khổ. Tâm không hung bạo là tâm
bi.
- Cũng như tâm tư, tâm bi phải vô
lượng, vô biên, không bị hạn dịnh trong một gia dình, một xóm,
một làng, một quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp hay một loại
chúng sanh nào.
- Ðối tượng của
tâm từ là toàn thể chúng sanh - chúng sanh khổ và chúng sanh
không khổ - mà không có sự phân biệt. Ðối tượng của tâm bi là
những chúng sanh xấu số, đang ở trong cảnh khổ, và tác dụng của
tâm bi là gia công giúp người đang khổ thoát ra khỏi hoàn cảnh
bất hạnh ấy. Người có tâm bi chuyên lo nâng đỡ kẻ thấp hèn,
nghèo đói, cô thân, tuyệt vọng, chăm nom săn sóc người bệnh hoạn
tật nguyền, khuyên nhủ dỗ dành người thất bại, dẫn dắt và cứu độ
người tội lỗi và soi sáng người tối tăm lầm đường lạc nẻo.
- Thấy người
hoạn nạn rồi âu sầu ủ dột, phiền muộn khóc than. Ðó không phải
là tâm bi mà giống như người "thù mang lốt bạn" của tâm bi. Tâm
bi trong Phật giáo không phải là những giọt nước mắt chảy suông
trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðặc tính của tâm bi là ý muốn giúp
người khác thoát khỏi một cảnh khổ chớ không phải là phiền não
âu sầu với họ. Thọ ưu (domanassa, cảm giác buồn khổ) thuộc về
tâm sân (dosa, hay patigha), một trong ba căn bất thiện.
- Tâm bi giống
như tình thâm của bà từ mẫu, thương xót đứa con đang lâm bệnh.
Bao nhiêu tâm trí, lời nói và hành động đều tập trung lại để
chuyên chú tìm phương thế làm cho con đỡ đau khổ.
- Lòng người có
tâm bi thật là mềm dịu, hơn cả những tai hoa mềm mại, không bao
giờ hành hung hay làm điều chi phương hại đến kẻ khác. Chính nhờ
tâm bi mà con người có thể phục vụ một cách hoàn toàn vị tha.
Người có tâm bi không sống cho mình mà sống cho kẻ khác và luôn
luôn tìm cơ hội giúp người, nhưng không bao giờ mong đợi được
đền ơn đáp nghiã. Có những tư tưởng hướng về tâm bi là Chánh Tư
Duy.
- Bản chất của
chúng sanh là tham lam, sân hận và hung bạo - hai hình thức khác
của ái dục - vì khư khư cố chấp đây là "Ta", cái này là "Của
Ta".
- Chúng ta vui
thích những gì vừa ý và ghét bỏ những gì phật lòng cái "Ta". Vui
thích thì đâm ra luyến ái, đeo niú, cố bám chắc, tức tham. Phật
lòng thì bất mãn, xua đuổi, giận dữ, oán ghét, tức sân, lắm khi
đưa đến hung bạo tàn ác.
- Khi Chánh
Kiến và Chánh Tư Duy dần dần phát triển, hiểu biết và suy tư
chân chánh hỗ trợ lẫn nhau đưa đến nhận thức ngày càng rõ rệt
bàn chất rỗng không của cái gọi là "Ta" . Chừng ấy tâm luyến ái,
sân hận và hung bạo dần dần suy giảm, nhường chỗ cho tâm
buông bỏ, tâm từ và tâm bi.
--o0o--
|
|