-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I -
Bài 1
- Nhận Thức Cơ
Bản Về Phật Giáo
- Thích Tố
Huân
-
A. Dẫn nhập
- Phật giáo
(PG) được khai sinh từ chiếc nôi thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước
Ấn Ðộ bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử, đầy những thăng
trầm, có lúc tưởng chừng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa,
Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển rộng rãi khắp năm châu. Hiện
nay, sự thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến
hóa của nhân loại đòi hỏi thẩm định lại giá trị của nhiều tư
tưởng triết học xưa nay; và đương nhiên, những tư tưởng mang
tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào thải trước
những văn minh tiến bộ của loài người. Thế mà tòa nhà cổ 25 thế
kỷ của PG vẫn tồn tại cùâng với năm tháng thời gian, sừng sững
như cây đại thọ giữa núi rừng trùng điệp. Ðiều này chứng minh
rằng Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ
một giá trị tinh thần phong phú. Tinh thần ấy chính là sự thể
hiện giáo pháp trong mỗi đời sống con người. Ðể có thể khái niệm
được ý nghĩa về tinh thần Phật giáo, chúng ta có thể liên hệ mấy
đặc tính sau đây:
- B. Nội
dung
- * Nhân bản
* Bình đẳng
* Từ bi
* Vô ngã
- I- Nhân
bản
- Ðiểm căn bản
nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Phật giáo, vị giáo chủ không
phải là một thần linh, không phải là một Thượng đế đầy quyền uy
thưởng phạt, mà là một con người thật sự như bao người khác. Tên
Ngài là Sĩ Ðạt Ta (Tất Ðạt Ða), tiếng Phạn là Siddhàrtha. Ngài
thuộc giai cấp Sát Ðế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của Vua Tịnh
Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Ngài sinh ra, lớn lên, đi học; vợ Ngài
là Công chúa Da Du Ðà La, con Ngài là La Hầu La. Thấu rõ những
nỗi thống khổ sinh, già, bệnh, chết..., chứng kiến những lầm
than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội Ấn
thời bấy giờ, Ngài đã từ bỏ gia đình, vợ con, một mình ra đi tìm
phương giải quyết. Sau những tháng năm học đạo cùng với những
đạo sĩ nổi tiếng bấy giờ, kết quả ấy cũng không giúp được cho vị
đạo sĩ trẻ tuổi thông minh Sĩ Ðạt Ta giải quyết những vấn đề bức
xúc trong lòng. Cuối cùng, Ngài đã tự quyết định tự mình tham
cứu. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định dưới cội bồ đề, khi sao
Mai vừa mọc, Ngài đã thấu đạt được chân lý, rõ được chân tướng
của vạn pháp, Ngài đã giác ngộ thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu
Ni.
- Sự kiện trên
đây đã hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo,
con người là trung tâm điểm của Phật giáo, hay nói một cách
khác, không có nhân loại thì Phật giáo không hiện hữu trên cuộc
đời này.
- Trong thế
giới quan Phật giáo, chủng loại được chia thành 6: Thiên, Nhơn,
A tu la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong sáu cõi ấy, con
người được ca ngợi là hội dủ điều kiện tốt nhất để đạt đến cái
quả vị tu chứng trong Phật giáo. Phật giáo giải thích rằng chúng
sanh ở cõi Thiên khó nhận thức được chân tướng khổ đau, vì cuộc
sống của họ quá ư sung sướng. Trái lại, ở các cõi A tu la, Ðịa
ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ, chúng sanh quá si mê ngu dốt trong hoàn
cảnh tối tăm đọa đày nên cũng không dễ gì nắm bắt được giáo
nghĩa Phật Ðà. Duy chỉ có ở cõi Nhân, bản thân con người cùng
hoàn cảnh (là điều kiện thích ứng dễ dàng khơi sáng) nhận thức
được những khổ đau của cuộc đời và có khả năng khơi sáng ngọn
đèn trí tuệ nơi chính tấm thân nhỏ bé này.
- Trong quan
niệm Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính
bản thân mình ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, là vị
Thượng đế duy nhất toàn quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời
mình; ngoài mình ra, không bất cứ ai hoặc thần linh nào khác có
khả năng đưa mình lên thiên đàng hay vất mình xuống địa ngục.
Kinh Pháp Cú, câu 345, Ðức Phật dạy rằng: "Chỉ có ta làm điều
tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội
lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi
ta, không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch".
- Lại nữa, Phật
giáo luôn luôn đề cao nỗ lực và ý chí của con người. Tinh tấn là
một trong những đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ
đề, bến bờ giác ngộ chẳng bao giờ có dấu chân của biếng lười và
bạc nhược. Với những tâm hồn khát khao tự do tuyệt đối, dốc hết
sức bình sinh cùng với sự hiểu biết chánh pháp một cách chân
chính, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp trên
bước đường tu tập. Bằng ngược lại, cho dù ngàn vị Phật dang tay
tế độ cũng không làm sao đưa ta thoát khỏi biển trần lao đầy
thống khổ này.
- Ngoài ra,
Phật giáo còn đề cập đến những trường hợp của những thời kỳ
không có Ðức Phật ra đời, có những con người tự lực, tự vận dụng
triệt để ý chí và khả năng của chính mình trong quá trình tư
duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn, quán tưởng và thấu rõ lý
vô thường của vạn pháp, vẫn có thể bừng sáng được chân lý. Ðức
Phật công nhận những người này là Bích Chi Phật. Tính nhân bản
được thể hiện mạnh mẽ ở điểm này. Ðây là một đặc điểm ưu việt
của đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của bất cứ
tôn giáo nào khác, một đấng giáo chủ lại đề cao khả năng của con
người một cách khách quan như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản
này, nhân cách con người được tôn trọng triệt để trong Phật
giáo: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng... đều có một giá
trị đích thực. Phần này, chúng ta sẽ bàn thêm ở sau.
- Ðiều đáng nói
nhất về khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh chính
là trí tuệ. Ðó là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô
cùng quý báu mà bất kỳ ai nếu biết vận dụng và phát huy đúng đắn
đều có thể tận diệt mọi khổ đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc. Ðiều
này đã được minh chứng cụ thể qua đời sống của Ðức Phật cùng
những vị tiền nhân kế thừa trong lịch sử đạo Phật. Ðồng thời,
Ðức Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng
thành Phật". Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc
sống thô sơ lạc hậu của thời xa xưa cho đến hôm nay, những phát
minh khoa học cùng những thành quả vinh quang của nó đã đưa nhân
loại đến thời kỳ vàng son của tối tân hiện đại. Kết quả ấy có
được là do từ khả năng khối óc của con người. Dù vậy, theo phân
tích của Phật giáo, khả năng đó chỉ mới là giới hạn của một phần
trí tuệ, hay nói một cách khác, con người của khoa học chỉ mới
vận dụng được cái trí sáng thế gian của mình, chưa phải là trí
tuệ của mỗi con người như Ðức Phật đã chỉ rõ trong giáo điển,
thuật ngữ đó tạm gọi là Trí tuệ Bát nhã, và chính trí tuệ ấy là
chiếc chìa khóa vàng duy nhất để mở cánh cửa vô sanh của Niết
bàn tịch tĩnh.
- Tóm lại, đối
với Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất
nhiều tiềm năng phi thường; nếu chúng ta khéo triển khai thì
không gì không thực hiện được trên cõi đời này. Như vậy, ta có
thể nói rằng Phật giáo là Phật giáo của con người, xuất phát từ
Ðức Phật Thích Ca, Ngài là đấng Giác Ngộ nhưng Ngài là một con
người; Ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống rất người, và vì
con người mà khai thị chân lý, hướng dẫn con người đến đời sống
thực sự an vui.
-
II- Bình đẳng
- Chúng ta biết
rằng Phật giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng phức tạp
của một đất nước mà trong đó, đời sống con người phải chịu nhiều
bất công trong chế độ phân chia giai cấp lâu đời của xã hội Ấn
thời bấy giờ. Giai cấp Bà La Môn tập trung số người tu của 62
đạo phái khác nhau, chủ trương công việc lễ nghi, tế tự; giai
cấp này chiếm vị trí tối cao. Kế đến là giai cấp Sát Ðế Lợi, tập
trung dòng dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội.
Giai cấp thứ ba là Tỳ Xá, bao gồm những người bình dân. Ða phần
còn lại thuộc giai cấp Thủ Ðà La, họ làm những nghề hạ tiện,
cũng gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bà La Môn và Sát Ðế Lợi
thuộc giai cấp thống trị, Thủ Ðà La và Tỳ Xá thuộc giai cấp bị
trị. Bốn giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối.
Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ đời đời làm nô lệ, tạo thành một
xã hội bất công.
- Ngay trong
buổi hoàng hôn tăm tối của một thực trạng như vậy, một hiền nhân
thuộc dòng dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên
phong phá tan bóng đêm của xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý
của phân chia giai cấp bằng một châm ngôn vĩ đại: "Không có
giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn ấy của Ðức Phật là nền tảng để hình thành
một hệ thống giáo lý, mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện
trọn vẹn cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
- Theo Phật
giáo, mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân
duyên mà sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh
giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc thông minh... tất cả đều
hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người chứ không phải do
tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định
nào. Trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý
và vô nghĩa. Việc Thái tử Sĩ Ðạt Ta từ bỏ ngôi vị đế vương, quay
lưng với tất cả vinh hoa phú quý, khước từ mọi đặc ân cao tột
dành cho giai cấp vua chúa, một thân độc hành với chiếc áo thô
sơ, đầu trần chân đất, vân du đây đó... đã thể hiện tinh thần
bình đẳng tuyệt vời của Ngài. Và cũng chính Ðức Phật, con người
với đời sống giản dị khiêm tốn ấy, đã thể hiện lòng bình đẳng
trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sinh. Ngài rải tình thương vô
biên xuống tất cả muôn loài một cách công bằng vô phân biệt. Từ
hạng người cùng đinh như gã gánh phân, thợ cạo tóc cho đến những
người giàu sang phú quý, từ những hạng người thấp hèn ti tiện
như gái giang hồ cho đến các bậc vua chúa quyền uy, Ðức Phật
luôn thương yêu, chân tình giúp đỡ, khuyên dạy để họ nhận thức
được chân giá trị của cuộc sống và tự thăng hoa tâm hồn, đạt đến
an lạc hạnh phúc. Lòng bình đẳng ấy không phải dừng lại ở nhân
loại mà lan tỏa đến muôn loài vạn vật. Ngài luôn dạy rằng tất cả
sinh vật đều có cùng tâm lý tham sống sợ chết, vì vậy không vì
lý do gì mà ta nỡ cướp đi mạng sống của kẻ khác, như vậy nghĩa
là không bình đẳng. Tâm trạng buồn nhớ mẹ của một chú cừu non
lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia lìa
với con thơ bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của
một con vật cũng quý như bất kỳ sinh mạng của một ai. Với quan
điểm này, trên bước đường du hóa, có lần Ðức Phật đã tự tay bế
một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng chính Ngài đã lên
tiếng giải thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người vì mê
tín dị đoan, làm lễ tế thần bằng cách hiến dâng những con thú
sống, để cứu lấy con vật vô tội thoát khỏi cái chết hỏa thiêu
đau đớn chỉ vì một sự tin tưởng mù quáng.
- Trong giáo
điển, Phật giáo quan niệm rằng tất cả mọi loài chúng sanh, từ
con người cho đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một
khả năng phi thường như nhau, đó là khả năng thành Phật (Phật
tính). Nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài, việc triển khai
khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh chậm khác nhau. Ðiều này có
thể tóm ý trong một câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng
sanh là Phật sẽ thành". Ðây là nền tảng để hình thành tính
bình đẳng triệt để trong đạo đức luân lý Phật giáo.
-
III- Từ bi
- Từ bi là chất
liệu không thể không có trong Phật giáo. Từ thường cho vui, Bi
thường cứu khổ. Ðó là trọng trách thiêng liêng mà Phật giáo đã
mang trên mình đi suốt 25 thế kỷ qua, bằng mọi cách để thực hiện
ở bất cứ nơi nào. Và chính vì sứ mệnh cao cả này mà đạo Phật đã
tồn tại trên một lịch sử lâu dài của loài người, và phát triển
cũng chỉ bằng chất liệu yêu thương mà hoàn toàn không sử dụng
một bạo lực bạo quyền, không dính dáng đến lưỡi gươm mũi súng.
Chất liệu yêu thương của Phật giáo như dòng suối mát lịm ngọt
ngào đã làm cho vạn vật xanh tươi, cỏ cây đâm chồi nẩy lộc. Cũng
vậy, Từ bi đã hiện hữu giữa cuộc đời, là thần dược xoa dịu những
niềm đau nhân thế, hàn gắn những rạn vỡ tình người, xua tan
những oán hờn thù hận; và hơn thế nữa, giải quyết những căn bản
khổ đau của kiếp phù sinh, đưa ta đến an vui trọn vẹn.
- Theo nghĩa
căn bản, "Từ" nói cho đủ là Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh
chi lạc, Bi năng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ, vắn tắt
"Từ năng dữ lạc, Bi năng bạt khổ", có nghĩa là lòng Từ
thường mang niềm vui cho tất cả chúng sanh, lòng Bi diệt mọi khổ
đau cho tất cả chúng sanh. Ở lãnh vực tình cảm, lòng thương yêu
của Phật giáo có thể sánh với lòng mẹ thương con bao la rộng
rãi. Tuy vậy, khi đi sâu vào ý nghĩa của nó, chúng ta thấy rằng
lòng Từ bi là một tình thương vượt qua mọi ranh giới, mọi quan
hệ và bao trùm lên trên tất cả muôn loài. Trong thế gian, thương
yêu bao giờ cũng đi đôi với hạnh phúc; tuy nhiên, những loại
tình cảm ở đời chỉ hạn cuộc trong một quan hệ, một đẳng cấp, một
chủng loại, một phạm trù nào đó. Khi vượt ra ngoài phạm trù ấy,
lắm khi chúng ta lại đối xử xa lạ, hững hờ, kỳ thị với nhau,
thậm chí còn dẫn đến chống đối, tàn sát lẫn nhau một cách khủng
khiếp.
- Trong khi đó,
Từ bi vượt lên tất cả mọi tình thương hẹp hòi của thế gian,
không bến bờ, không biên cương, không hạn định. Lòng thương yêu
ấy tuyệt nhiên không chứa đựng bất kỳ ý niệm kỳ thị nào, dù cho
đó là một tín đồ Phật giáo hay không phải. Ðối với Phật giáo,
tất cả chúng sanh đều là bạn hữu, và mọi nơi chốn trên thế gian
này đều là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương xứ sở của mình.
Lòng thương vô cùng ấy tựa như ánh mặt trời tỏa sáng khắp không
gian, bao trùm muôn loài vạn vật, chẳng phân biệt đây hay kia,
thân hay sơ, bạn hay thù, giàu hay nghèo, sang hay hèn, người
hay vật.
- Từ ý nghĩa
này, Phật giáo đã có một tinh thần khoan dung, cảm thông và tha
thứ. Chúng ta đang sống giữa một thời đại mà quyền lực và danh
vọng đang khống chế con người, tham vọng nhân loại bùng vỡ một
cách cùng cực, chiến tranh liên tục xảy ra, những cuộc chạy đua
kinh tế, chính trị, quân sự đang phô bày khắp nơi trên thế giới,
lửa hận thù tràn ngập khắp hành tinh. Thảm trạng này đang là cơ
hội đưa nhân loại đến vực thẳm của diệt vong. Chính ngay lúc
này, Từ bi là chất liệu rất cần thiết cho cuộc đời; và chỉ có
vận dụng lòng thương yêu ấy của Phật giáo, chúng ta mới thật sự
có đủ năng lực dập tắt ngọn lửa chiến tranh và hận thù đang ngút
ngàn giữa buổi hoàng hôn của thế kỷ 20 này.
- Ðức Phật dạy:
"Hận thù không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương yêu
mới dập tắt được hận thù, đó là định luật của ngàn xưa".
-
IV- Vô ngã
- Nhận xét về
thế giới sự vật hiện tượng, Phật giáo khẳng định rằng mọi sự vật
trên đời đều không có một tướng trạng cố định, tất cả đều luôn
luôn biến đổi, chuyển động không ngừng; hay nói cách khác, vạn
pháp luôn luôn đang trôi chảy. Trong khi đó, nhận thức thông
thường của chúng ta tưởng chừng như mọi sự vật đang thực sự hiện
hữu và cố định; kỳ thực, tất cả đều đang chuyển động một cách vi
tế mà ta khó nhận rõ được. Nhưng nếu bình tâm và chịu khó quan
sát, ta có thể hiểu được điều này; chỉ cần nhìn vào các sự vật
quen thuộc nhất trong đời sống thường nhật như cái bàn, căn nhà
v.v..., ta sẽ nhận thức được ý nghĩa ấy. Cái bàn khi mới được
đóng thành, nó rất mới; nhưng qua một thời gian, nó đã trở thành
cũ. Và cứ thế, theo thời gian, nó cũ dần và cuối cùng có thể chỉ
còn lại những mảnh vụn. Tất cả các sự vật cũng đều cùng tuân thủ
theo một cách như vậy, ta có thể nói rằng tất cả tướng trạng của
sự vật đều là tạm thời; và vì luôn chuyển đổi, nên sự vật mà ta
nhận biết được chẳng qua cũng chỉ là một chuỗi thay đổi liên tục
của vô số tướng trạng từ mới đến cũ, từ trẻ đến già, từ sanh đến
diệt... Phật giáo tạm phân quá trình vận động ấy thành 4 giai
đoạn "sanh, trụ, dị, diệt" hoặc "thành, trụ, hoại,
không". Như vậy, theo Phật giáo, tất cả các sự vật, hiện
tượng trên thế giới này đều hoàn toàn không có một cái chủ tể
nhất định, luôn luôn chuyển động. Và vì vậy, tất cả đều vô ngã,
nghĩa là không thật có một tướng trạng nhất định, bất di bất
dịch. Ðây gọi là Vô ngã tính.
- Liên hệ đến
bản thân của mỗi người, vì không thấy rõ được sự thật của tướng
trạng này, không nhận biết được sự giả hợp của ngũ uẩn tạo thành
tấm thân này; nên ngay từ lúc lọt lòng mẹ, một cái tên gọi cùng
với nhận thức sai lầm về cái Tôi đã tạo thành một ngộ nhận căn
bản về sự hiện hữu và giá trị của một con người. Từ đó, tính
chấp thật và sự ích kỷ hình thành; đây chính là giềng mối của
bao nỗi thống khổ mà chúng ta đã cưu mang suốt cả kiếp người.
Chính ảo mộng về một cái Tôi và những cái Của Tôi đã đưa đến
thảm trạng chiến tranh, hận thù cấu xé lẫn nhau.
- Phật giáo đã
soi sáng chân tướng của vạn pháp bằng ánh sáng của chân lý vô
ngã. Sự soi sáng ấy không nhằm mục đích thỏa mãn tri thức của
nhân loại, mà nó mang ý nghĩa trình bày một sự thật về tướng
trạng của con người và thế giới, nhằm mục đích xây dựng cho nhân
loại một nhận thức đúng đắn hướng đến một nếp sống cao đẹp, đầy
tình người. Thật vậy, một khi chúng ta nhận thức được bản chất
thực của tấm thân ta đang mang giữ giữa cuộc đời này, thấu rõ
được cái ta gọi là Ta, là Tôi, là Của Tôi, chỉ là những gì rất
mong manh, không bền chắc, luôn biến chuyển. Khi ấy, bức tường
thành của ích kỷ hẹp hòi mới thực sự sụp đổ, ranh giới của chủ
nghĩa cá nhân mới bị xóa nhòa, thành trì của bảo thủ mới thực sự
bị phá vỡ, lòng bao dung vị tha sẽ bừng sáng trong tâm hồn mỗi
con người, nhân loại xích lại gần nhau để mỉm cười, thương yêu
và cùng sống hòa ái với nhau trong tinh thần khoan dung và tha
thứ, sẵn sàng quên đi những lầm lỗi mà chúng ta đã từng gây tạo
cho nhau. Hạnh phúc thực sự hiện hữu ngay trên quả đất này.
- Tóm lại, tinh
thần Vô ngã vị tha là một trong những điểm quan trọng khiến Phật
giáo phát huy và tồn tại khi đi đến bất cứ một quốc gia nào.
Chính điểm này là một trong những căn bản tạo nên mạch sống cho
Phật giáo tồn tại cùng với lịch sử tiến hóa của nhân loại, và
bao giờ Phật giáo cũng luôn hiện hữu chỉ vì hạnh phúc và an sinh
của loài người. Với tình trạng hiện thời của thế giới, tiếng
chuông báo động của các nhà khoa học về các mối nguy cơ của trái
đất thân yêu đang gióng lên liên tục, sinh mệnh của nhân loại
đang bị đe dọa bởi quá nhiều nguyên nhân cũng do chính mình gây
tạo. Ngồi lại với nhau trong tình thương yêu, đoàn kết liên hiệp
trong cùng một chí hướng là điều quan trọng trong việc giải
quyết các vấn đề trên. Tinh thần vô ngã vị tha, lòng từ bi, sự
bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau là nhân tố cần thiết để thực
hiện được điều ấy.
-
C. Kết luận
- Những điều
vừa trình bày trên đây: Nhân bản, Bình đẳng, Từ bi, Vô ngã là
những trọng điểm được đề cập trong Phật giáo, nhưng đó chính là
những yếu tố cần thiết của con người nếu muốn tạo hạnh phúc thật
sự cho chính mình và thiết lập một nền hòa bình thực sự cho nhân
loại. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng, Phật giáo là Phật giáo
của con người, nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của con
người. Mặc dù đối tượng của Phật giáo là tất cả chúng sanh,
nhưng con người là trung tâm điểm, là đối tượng duy nhất để mang
bức thông điệp trao cho cuộc đời, là loại chúng sanh có khả năng
tốt nhất để thực hiện bức thông điệp ấy. Thực hiện bức thông
điệp ấy có nghĩa là phải thực sự vận dụng được những tinh hoa
Phật giáo vào trong đời sống và tâm hồn của chính mình.
- Mặc dù đời
sống luôn biến đổi theo dòng chảy của thời gian, nhưng trong sự
mong manh phù du ấy của cuộc đời, ta vẫn luôn nhìn thấy được một
điều gì thật dễ thương, thật ý nghĩa, thật thú vị giữa trần gian
mộng mị. Và chỉ khi nào thực sự sống trọn vẹn trong tinh thần
cao đẹp ấy của Phật giáo, chúng ta mới trọn hưởng niềm hạnh phúc
vô biên./.
-
* Sách tham khảo
- 1. Ðức
Phật và Phật pháp - Nàrada, Phạm Kim Khánh dịch, Nxb Thuận
Hóa và Thành hội PG TP HCM, 1994
- 2. Phật
học khái luận, Thích Chơn Thiện, Viện NCPHVN, TP HCM, 1997
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Những đặc tính cơ
bản của Phật giáo là gì?
- 2)- Sự khác biệt giữa
tinh thần nhân bản và vô ngã như thế nào?
- 3)- Hãy phân tích tinh
thần từ bi của đạo Phật thông qua cuộc đời hành đạo của Ðức
Phật.
- 4)- Phật giáo quan niệm
về bình đẳng như thế nào?
|
--o0o--
|
|