-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I -
Bài 2
- Ðạo Phật
- Thích Viên Giác
-
A. Dẫn nhập
- Ðạo Phật là
một tôn giáo lớn của nhân loại; ảnh hưởng của đạo Phật đối với
con người và xã hội mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình tiến bộ
của con người, và đã tạo nên nền văn hóa nhân bản theo tinh thần
của xã hội Á Ðông hơn 2.000 năm qua. Ðạo Phật đã và đang chinh
phục phương Tây một cách nhẹ nhàng đầy tính cảm hóa. Rhys
Davids, Giáo sư sử học, phát biểu: "Là Phật tử hay không là Phật
tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới,
tôi đã khám phá ra rằng không một tôn giáo nào có thể vượt qua
được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt của Bát chánh đạo và
Tứ diệu đế của Ðức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc
đời tôi theo con đường đó". Không dừng ở đây, người phương Tây
còn hy vọng đạo Phật sẽ làm nền tảng cho tôn giáo của tương lai;
nhân loại cần phải có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu sống còn
và sự phát triển phù hợp với điều kiện mới của xã hội. Sự tiến
bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những khủng hoảng
xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, về văn hóa, tâm lý, đạo
đức... Albert Einsteins, nhà vật lý học, cho rằng: "Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu, vượt lên mọi thần
linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương
diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên,
trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các
điều kiện ấy".
- Ðạo Phật có
gì đặc biệt mà được sự thiện cảm và ca ngợi của con người thời
đại? Có lẽ điều nổi bật là đạo Phật là một tôn giáo không có
Thượng đế, một nền giáo lý không có giáo điều.
- Ðức Phật,
tiếng Phạn gọi là Buddha, nghĩa là người Giác ngộ, người Tỉnh
thức, người đã tận diệt tham sân si, đã đạt được giải thoát viên
mãn. Ðạo Phật là con đường do Ðức Phật tuyên bố, truyền đạt; con
đường ấy đã được thực nghiệm, thực chứng. Vậy có thể nói rằng
đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống để có được hạnh
phúc chân thực, như Giám mục Milman nhận xét: "Tôi càng ngày
càng cảm thấy Ðức Thích Ca Mâu Ni gần gũi nhất trong tính cách
và ảnh hưởng của Ngài; Ngài là đường lối, là chân lý, là lẽ
sống".
- Tính cách của
Ðức Phật được thể hiện qua các kinh điển còn lưu lại, cho thấy
Ngài chỉ dạy những gì Ngài đã thực nghiệm, cần thiết cho đời
sống thoát khổ. Do vậy, nội dung của đạo Phật không ở nghi lễ,
triết học hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống, cách ứng
xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con
người với thiên nhiên vũ trụ.
-
B. Nội dung
-
I- Mục đích của đạo Phật
- Người Phật tử
quy y theo Phật, thực tập hành trì tụng kinh, niệm Phật, nghiên
cứu kinh điển, tọa thiền, hành đạo... có mục đích rất rõ rệt.
Kinh Trung A Hàm, Ðức Phật dạy 3 mục đích chính:
-
1)- Muốn tự điều phục mình: Tự điều phục tức
là làm chủ được bản thân mình, là chế ngự được tham dục, sân
hận, ác ý. Như vậy, tự điều phục mình có nghĩa là đạt được sự tự
do. Tự do là khát vọng muôn đời của nhân loại, là nhu cầu thiết
yếu sau nhu cầu ăn uống, nhưng bản chất của tự do là gì thì
không giống với nhau. Con người càng tìm kiếm tự do ở bên ngoài
thì càng mất tự do, đến nỗi có người nói: "Con người chỉ có tự
do lựa chọn sự mất tự do". Khái niệm về mất tự do trong đạo Phật
là sự bị trói buộc, bị vướng mắc vào dục vọng, sân hận, hãm hại.
Cho nên, tự điều phục mình, chế ngự bản năng dục vọng của mình,
tự chiến thắng mình là sự vươn tới tự do.
- Ðức Phật dạy
thêm rằng, người Phật tử có khả năng tự điều phục mình thì dù
mưu cầu lợi lộc, công danh, sự nghiệp, xây dựng tình yêu... khi
những cái ấy bị thất bại, bị thay đổi, bị phản bội... người ấy
vẫn an ổn, vững chãi, không bị ưu sầu phiền muộn, khóc than,
phát cuồng, tự tử... Ðó là mục đích thứ nhất của đạo Phật.
- 2)- Muốn
đạt được sự thanh tịnh, an lạc: Sự an lạc tùy thuộc vào tư
duy, cảm xúc của con người. Nếu tâm tư của một người bị chi
phối, bị chế ngự bởi sự lo lắng, buồn rầu, sợ hãi thì họ không
thể có an lạc. An lạc và hạnh phúc đi đôi với nhau; hạnh phúc có
hay không tùy thuộc vào thái độ tâm lý ổn định hay không. Một
người mạnh khỏe và giàu có, nhưng trong lòng sôi sục dục vọng
hay hận thù thì người ấy không thể có sự an lạc và hạnh phúc;
một người đầy danh vọng và sự thành đạt mà trong lòng sự lo lắng
bất an, sợ hãi chế ngự thì không thể có hạnh phúc được.
- Ðức Phật dạy
rằng, một người đạt được sự thanh tịnh, an lạc là người khi có
điều không vui đến, những điều lo âu, sợ hãi đến thì không bị
chúng làm chi phối, vướng bận; rằng một người không bị chi phối,
vướng bận với cái tư duy tham dục, sân hận và ác ý; rằng một
người đạt được các trạng thái tâm định như Sơ thiền cho đến Tứ
thiền, như theo lời kinh Pháp Cú dạy: "Không có hạnh phúc nào
lớn bằng sự yên tĩnh của tâm trí". Ðây là mục tiêu thứ hai của
đạo Phật.
- 3)- Muốn
đạt được giải thoát - Niết bàn: Ðây là mục đích tối hậu của
mọi người Phật tử: chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sanh tử luân
hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự và lâu dài
chính là vô minh; niềm hạnh phúc chân thực và vĩnh cửu là sự
chấm dứt vô minh, đó là đáo bỉ ngạn, là "vô minh diệt minh
sanh".
- Mục đích có
3, có thể chia làm 2 phần: mục đích gần và mục đích xa. Gần là
sự vươn tới đời sống tự do và hạnh phúc, xa là đạt đến an lạc
vĩnh cửu Niết bàn. Giáo lý của Phật giúp con người kềm chế, làm
chủ bản thân. Ðây là bước đầu, là nền tảng của mọi đức hạnh, mọi
tiến bộ, từ đó thực hiện sự thanh tịnh và an lạc của tâm linh,
chuyển hóa toàn bộ đời sống đã từng mang bất an và đau khổ, trở
nên an ổn và hạnh phúc. Nói mục đích gần và xa là để dễ hiểu,
thực ra cả hai là một. Thực hiện được tự do, tự chủ thì đưa đến
an lạc, hạnh phúc. Có được an lạc, hạnh phúc dẫn đến giải thoát
Niết bàn, Niết bàn được thực hiện ngay cõi đời này.
-
II- Những đặc tính tiêu biểu của đạo
Phật
- 1)- Tự do
tư tưởng: Ðạo Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín
điều làm căn bản như hầu hết các tôn giáo. Ðức tin của đạo Phật
luôn đi đôi với cái "thấy", một trong những định nghĩa về giáo
pháp là "đến để mà thấy", chứ không phải "đến đểí mà tin". Vì
vậy, Chánh kiến luôn đứng đầu trong các đức tính. Lời Phật dạy
cho dân Kàlama được các nhà học giả phương Tây coi là bản tuyên
ngôn về tự do tư tưởng của nhân loại: "Này các Kàlama, đừng để
bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin
đồn. Ðừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý
luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay
bởi vì thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường
như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩ đây là bậc Ðạo sư của chúng
ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông biết chắc rằng những
điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng" (Tăng
Chi I).
- Bác bỏ các
tín điều và đức tin mù quáng, khuyến khích tự do phân tích, khảo
sát, đó là một đặc điểm của Phật giáo.
- 2)- Tinh
thần tự lực: Ðấng Thượng đế hoặc tạo hóa hay các thần linh
được con người tin tưởng thờ phụng, vì các đấng ấy có thể ban
phúc hay giáng họa. Ấy là quan điểm của tâm lý sợ hãi, yếu đuối,
mất tự tin đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất
thần).
- Ðạo Phật với
chủ trương luật nhân quả, nghiệp báo đã nói lên tinh thần trách
nhiệm cá nhân và cộng đồng trước sự đau khổ và hạnh phúc của
chính mình. Ðức Phật dạy: "Chính ta là kẻ thừa kế của hành động
của ta, là người mang theo với mình hành động của mình" (TAH
135).
- Ðức Phật
không phải là đấng thần linh ban cho ta sự thay đổi hoàn cảnh
hay tình trạng khốn đốn của mình. Ðức Phật tuyên bố: "Như Lai
chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi
thế cho ai được". Công trình khơi mở kho tàng tri kiến Phật là
công trình của mỗi cá nhân. Con đường tự lực ấy được Ðức Phật
dạy như sau: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc
của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên với một
pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình,
nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác"
(Trường A Hàm I).
- Tinh thần tự
lực mang tính triệt để nhân bản này là một đặc tính của đạo
Phật.
- 3)- Tinh
thần từ, bi, hỷ, xả: Chúng sanh còn khổ thì đạo Phật còn vai
trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi,
đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận
thù được hóa giải. Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là
từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là Tứ vô lượng tâm. Người Phật tử
lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh;
tâm từ bi được coi là tâm Phật, "Phật tâm vô xứ bất từ bi".
- Trong quá
trình truyền giáo, đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ
máu. Thông điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Ðức Phật
tuyên thuyết ngay từ thời kỳ sơ khai thành lập Giáo đoàn: "Này
các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
chư Thiên và loài người".
- Tâm từ là khả
năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi
đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do
từ bi đem tới. Tâm xả là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ
thị. Ðức Phật dạy người Phật tử tu tập Tứ vô lượng tâm: "Vị ấy
tâm an trú biến mãn một phương cho đến mười phương với tâm từ,
bi, hỷ, xả quảng đại vô biên, không hận, không sân... đối với
mọi hình thức của sự sống, không bỏ qua và bỏ sót một ai mà
không biến mãn với tâm giải thoát cùng với từ, bi, hỷ, xả"
(Trường Bộ I). Thương yêu đồng loại và vạn loại chúng sanh
là chất liệu sống của đạo Phật.
- 4)- Tinh
thần thực tiễn: Một trong những định nghĩa về pháp là "thiết
thực hiện tại", nghĩa là giáo lý đạo Phật là thiết thực, không
mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý
thuyết suông. "Hiện tại" có nghĩa là không chờ đợi kết quả ở
tương lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện
tại, đời này. Vì vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm,
không chờ đợi một ân sủng hay một mặc khải nào. Ðức Phật thường
từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề siêu hình. Ngài
chỉ dạy những gì là cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát
khổ. Có lần ở Kosambi, Ðức Phật dạy: "Những gì Như Lai biết ví
như lá trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm lá ở
trong tay, nhưng đây là những phương pháp diệt khổ"í (Tương
Ưng V).
- Ðạo Phật cho
rằng phần lớn những nỗi khổ của con người do họ không sống thực
với hiện tại, họ thường nuối tiếc quá khứ, mơ tưởng tương lai;
do đó, ý nghĩa của cuộc đời bị đánh mất:
- "Do mong việc sắp tới
Do than việc đã qua
Nên kẻ nghi héo mòn
Như lau xanh lìa cành" (Tương Ưng I)
- Hoặc:
- "Ðừng tìm về quá khứ
Ðừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại..." (Kinh Trung Bộ)
- Tính thực
tiễn, thiết thực hiện tại là một đặc tính của đạo Phật.
- 5)- Tinh
thần không chấp thủ: Ðạo Phật là giải thoát và tự do; vướng
mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa đến đau khổ. Ðức Phật dạy:
"Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là
thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn
không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu
vào cuộc đời.
- Nhờ tinh thần
không chấp thủ nên thái độ của đạo Phật rộng rãi, bao dung, tinh
thần tu tập của người Phật tử rất thoáng. Kinh Ví dụ con rắn,
Ðức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để
nắm giữ; chánh pháp cũng phải xả, huống là phi pháp. Tương tự,
kinh Kim Cang cũng nói: "Giáo lý như phiệt dụ giả chánh pháp
thương ưng xả hà huống phi pháp", hoặc nói: "Cái gọi là Phật
pháp tức chẳng phải là Phật pháp nên gọi là Phật pháp".
- Tinh thần
không chấp thủ là nội dung trí tuệ của đạo Phật; tác dụng của
tinh thần ấy, ngoài sự đem đến giải thoát, còn đem đến sự giải
tỏa tất cả mọi áp lực, ức chế của đời sống lên trên tâm lý của
con người. Ðây là một đặc tính của đạo Phật.
-
C. Kết luận
- Sự có mặt của
đạo Phật đã đem lại luồng sinh khí mới cho xã hội Ấn Ðộ thời ấy,
đã mở ra một lối thoát cho con người trước những bế tắc, những
khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết học và đạo học. Lời tán
dương Ðức Phật của người đương thời còn ghi chép lại đã chứng
minh điều đó: "Thưa ngài Cồ Ðàm, thật vi diệu, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị
che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để cho ai có mắt có thể thấy" (Nikàya).
- Trải qua hơn
2.500 năm, đạo Phật đã được thử thách, cọ xát với thời gian và
không gian; giá trị, tác dụng của đạo Phật vẫn như xưa. Ngày
nay, trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ đã xô đẩy con người
vào trong hố thẳm của tham vọng, hận thù. Chiến tranh vẫn diễn
ra khốc liệt trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai vẫn
đe dọa đời sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có
nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi mới, nạn nhân mãn, ô nhiễm môi trường,
hủy diệt sinh thái, áp lực kinh tế-xã hội đè nặng lên trên tâm
trí của con người tạo nên ức chế tâm lý. Băng hoại về đạo đức
làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ. Ðạo Phật với con
đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ
xả, xóa bỏ chấp thủ, hận thù, sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ
đau cho nhân loại.
- Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, có khả năng
thực hiện niềm hạnh phúc chân thực trên cõi đời này. Ðó là lời
dạy của Ðức Phật./.
--o0o--
|
|