-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I -
Bài 3
- Lịch Sử Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ Ðản Sanh đến Thành Đạo)
- Gia Tuệ
-
A. Dẫn nhập
- Một tôn giáo,
không luận là cao siêu hay thâm thúy đến đâu, cũng vẫn là sản
phẩm của xã hội. Là sản phẩm của xã hội, tất nhiên tôn giáo ảnh
hưởng đến xã hội và đồng thời chịu ảnh hưởng ngược lại. Ðó là
điều không thể tránh khỏi.
- Ðời sống quốc
gia dân tộc với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu, thiên
nhiên, đã tạo dựng cho Ấn Ðộ có một lịch sử khác với các quốc
gia trên thế giới. Ðó là sự cố đặc biệt của xứ Ấn Ðộ xưa và nay,
nơi có những rừng núi thâm u, tục gọi là Lục địa xanh (Pays
blues), đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến
bộ và giải thoát sớm được xuất hiện. Thật vậy, bất cứ
tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa nào, khi sinh khởi, đều là phản
ảnh (không nhiều thì ít) của hoàn cảnh, khí hậu, địa dư, xã hội,
chủng tộc mà tạo dựng nên cả. Nếu xét nó ngoài hoàn cảnh thực
tại, lẽ dĩ nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa đạo Phật cũng
do nhân duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy tiến hóa...
- Phật giáo có
một lịch sử trên hai ngàn năm, Ðông-Tây truyền bá, gieo rắc ảnh
hưởng khắp cả các châu lục. Trong quá trình truyền bá ấy, qua
mỗi thời đại, Phật giáo lại tùy theo tình trạng xã hội của mỗi
phương sở mà có ít nhiều biến thiên về bản sắc. Vì thế, muốn nói
đến điểm xuất phát của đạo Phật, không thể không đi sâu vào bối
cảnh lịch sử của đất nước Ấn Ðộ đương thời. Ðây là một đề tài
rất rộng lớn, mà khi đi vào, ta phải trải qua những bước tìm
hiểu như về nền chính trị, xã hội Ấn Ðộ trước khi Ðức Phật ra
đời; tư tưởng tôn giáo và triết học trước thời kỳ Ðức Thế Tôn
xuất thế v.v... Từ đây, ta càng thấy rõ hơn tầm quan trọng và ý
nghĩa thiêng liêng cao quý trong sự Ðản sanh của Ðức Mâu Ni.
- Nhưng chương
trình học hàm thụ hẳn có ý nghĩa sắp xếp để đề tài to lớn này
được trình bày trong một dịp thuận lợi hơn về cả không gian lẫn
thời gian. Vì lý do đó, xin được thông qua phần bối cảnh lịch sử
chi tiết; chỉ nêu lên ở đây vài đoạn đóng vai trò chuyển tiếp và
đi thẳng vào lược sử của Ðức Thích Ca Mâu Ni, một bậc thầy vĩ
đại muôn thuở của nhân loại.
- Trước thời
Ðức Thế Tôn ra đời, về tư tưởng tôn giáo, triết học cũng như về
mặt chính trị, kinh tế và xã hội thật vô cùng phức tạp. Với pháp
điển Manoa (Mànu) hỗn hợp cả chính trị lẫn tôn giáo đã ấn định
nhiều sinh hoạt đầy bất công trong xã hội và góp phần đưa hai
giai cấp thống trị Brahmana (tăng lữ Bà La Môn) cùng Ksatriya
(Sát Ðế Lỵ - vua quan) lên ngồi vững chắc trên hai giai cấp
thuộc hàng tiện dân, bị xã hội khinh miệt, không được luật pháp
bảo hộ, không được dự chung phần tín ngưỡng và tán tụng kinh
điển Veda (Phệ Ðà), đó là hai giai cấp Vaisya (Phệ Xá) và tệ hơn
nữa là Sùdra (Thủ Ðà La).
- Tư tưởng Ấn
Ðộ thời bấy giờ gần giống như tư tưởng đời Chiến Quốc ở Trung
Hoa xưa. Xét về mặt xã hội thì trước Ðức Phật giáng sinh gần 100
năm, trước Tây lịch độ 7 thế kỷ, đạo Bà La Môn thịnh hành đến
cực điểm. Nhưng cũng do sự độc quyền của tăng lữ mà đạo đức tôn
giáo thời đó chỉ có nghi thức phô trương bề ngoài. Do chế độ
giai cấp nên cuộc sống xã hội không công bằng, nhân dân không
được tự do, mà tư tưởng yếm thế nảy sinh, nạn mê tín hoành hành
trong xã hội. Số đông tu theo pháp môn khổ hạnh với quan niệm
cho rằng gần sự khổ mới quen với cái khổ, và sẽ xem thường và
không còn thấy khổ. Có người lại tin tu khổ hạnh sẽ được sanh
lên cõi trời hưởng các điều vui. Ở một phương diện khác, xã hội
đã phát sinh tư tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả những giá trị
tôn giáo, nhân quả và đạo đức. Nương theo quan niệm ấy, họ cổ
xúy tư tưởng phản kháng. Ngoài những giáo phái thuận theo hệ
thống Veda, các chủ nghĩa khác như: Khoái lạc, Ngụy biện, Khổ
hạnh, Hoài nghi... tiếp tục nổi lên.
- Giáo lý Veda
(Phệ Ðà) diễn biến trong ba giai đoạn, thường được gọi là ba
thời đại: Phệ Ðà Thiên Thư (Veda 2500-1000 BC), Phạm Thư
(Brahmana 1000-800 BC), Áo Nghĩa Thư (Upanishad 800-600 BC), đó
là tạm lược chia tình trạng biến đổi về tư tưởng tôn giáo của
dân tộc Ấn Ðộ từ đa thần giáo sang nhất thần, và từ nhất thần
sang lãnh vực triết học theo ba giai đoạn trên. Song song với
diễn biến của 3 tư trào này, đã có những phái chịu ảnh hưởng của
hệ thống Veda, căn cứ vào đó mở mang thêm cho giáo lý của mình
có hệ thống hơn. Cũng có nhiều học giả thoát ly ra ngoài tư
tưởng Veda, chủ trương tự do khảo cứu rồi thành lập phái triết
học tự nhiên. Các phong trào tư tưởng đó, hoặc dung hòa hoặc
xung đột lẫn nhau, làm cho nền học thuyết của Ấn Ðộ lâm vào một
tình trạng rất rối ren. Tuy nhiên, nếu kiểm điểm lại, ta có thể
chia các tư trào lúc bấy giờ thành hai hệ thống: hệ thống Veda
và hệ thống phản Veda. Hệ thống trước tuy nhiều, nhưng đáng kể
chỉ có lục đại học phái. Hệ thống phản lại thì có lục sư ngoại
đạo.
- Sống dưới một
xã hội có thể chế giai cấp đầy bất công; tư tưởng tôn giáo lại
rối ren như thế, con người không còn biết tin tưởng, bám víu vào
đâu. Giữa hoàn cảnh bế tắc ấy, Ðức Phật xuất hiện như một mặt
trời sáng ấm buổi ban mai, làm tan đi bóng tối của đêm đen dày
đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là cứu tinh cho
xứ Ấn Ðộ thời bấy giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới của
nhân loại. Ðức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản,
lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc
của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt,
là một sự biểu hiện của biển lớn Trí tuệ và Từ bi, là ánh sáng,
là con thuyền, là niềm tin cho mọi người, mọi xã hội, dù ở bất
cứ thời gian và không gian nào.
- Dù không phải
là người Phật tử, cũng cần tìm hiểu ý nghĩa thâm thúy đời sống
của bậc Thánh cao cả ấy để rọi soi vào cuộc sống của chính mỗi
con người. Và ở đây, chúng ta tìm hiểu về những nét chính về
cuộc đời của Ðức Mâu Ni.
-
B. Nội dung
-
I- Niên đại và thân thế
- Ðức Phật
giáng sinh vào ngày 15 tháng 4 năm 623 BC tại vườn Lumbini (Lâm
Tỳ Ni), cách thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) khoảng 15 cây số,
nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, phía Tây Nam xứ
Népal và phía Ðông Rapti. Song thân Ngài là Quốc vương
Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng hậu Màyà (Ma Da). Thuộc dòng dõi
Sakya (Thích Ca), Vua Suddhodana trị vì một vương quốc nằm ở ven
sườn dãy núi cao ngất trời - Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn) - nằm phía
Ðông-Bắc Ấn Ðộ, thủ phủ là Kapilavastu, nay là Népal. Ðịa điểm
thủ phủ này nay được nhận ra là Bhulya trong quận Basti, cách
Bengal 3 cây số nằm vào hướng Tây-Bắc nhà ga xe lửa Babuan.
- Một hôm,
trong thành Kapilavastu có lễ hội Tinh Tú, vua tôi cùng nhau
cúng bái. Hoàng hậu Màyà sau khi dâng hương hoa trong nội điện
và ra khỏi ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân chúng, bà trở
về cung an giấc, mộng thấy một tượng vương trắng 6 ngà từ trên
hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu mà chui vào. Các bốc
sư đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một quý tử tài đức song
toàn. Nghe điều này, Vua Suddhodana rất vui mừng, vì từ nay ngôi
báu đã có người truyền nối.
- Ðến thời khai
hoa nở nhụy, theo tục lệ thời bấy giờ, Hoàng hậu phải trở về quê
cha là trưởng giả Anjana ở nước Koly (Câu Ly) để an dưỡng, chờ
ngày lâm bồn. Trên quãng đường đi, Hoàng hậu Màyà vào vườn
Lumbini thưởng ngoạn mùa hoa đang đua nở. Bên tàng cây asoka (vô
ưu) che rợp mát, sắc màu tươi sáng, hương thoảng nhẹ bay, Hoàng
hậu đã hạ sanh Thái tử. Tin lành Thái tử chào đời nhanh chóng
được loan truyền trong dân chúng. Tất cả thần dân trong vương
quốc đều vui mừng không xiết kể.
- Ngày Ðản sanh
Thái tử, khắp Kapilavastu cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu
mát mẻ, cây cối xanh tươi, sông ngòi mương giếng trong đầy, chim
chóc reo vang, hào quang tỏa khắp. Ðó là ngày hội của toàn vương
quốc. Dân chúng khắp nơi tổ chức ăn mừng và kéo về kinh đô
Kapilavastu để vui với hoàng gia. Lẫn trong đám đông, có nhiều
đạo sĩ tu hành trên núi cao, cũng đi về dự lễ và xem tướng cho
Thái tử. Ðạo sĩ già tên Asita (A Tư Ðà) (1), ẩn tu trên Himalaya
- người được kính nể nhất vì đạo hạnh - đã chào Thái tử với thái
độ rất mực cung kính, rồi cười và lại khóc. Ðược hỏi, đạo sĩ trả
lời: ông cười mừng là vì Thái tử có 32 tướng tốt, nhất định
tương lai sẽ tu chứng Phật quả, và với lòng từ thương xót chúng
sanh mà truyền bá chánh pháp trên thế gian này.
- "... Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót
Vì hạnh phúc nhiều người
Và đời sống phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi..." (Sutta-Nipata, Kinh tập, 101)
- Và ông khóc là vì tuổi đã quá cao,
không còn sống được bao lâu nữa để trực tiếp được giáo hóa bởi
Ðức Thế Tôn tương lai này.
- "... Thọ mạng ta ở đờ
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung
Ta không được nghe pháp
Bậc tinh cần vô tỉ
Do vậy ta sầu não
Bất hạnh và khổ đau" (Kinh tập, 103)
- Lời tiên đoán
làm Vua Suddhodana lặng lẽ không vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt
tên con là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ða-Tất Ðạt Ða), họ là Gotama (Cồ
Ðàm), với hàm ý là kẻ phải giữ chức vụ mà mình phảãi giữ; còn có
nghĩa là người được toại nguyện, mọi việc đều thành tựu. Ý nhà
vua là muốn gởi gắm tất cả vương quyền của mình vào đứa con yêu
quý này.
- Hoàng hậu
Màyà qua đời sau 7 ngày hạ sanh Thái tử; vì thế, sự nuôi dưỡng
đều được chăm sóc trực tiếp bởi dì Maha Pajàpati (Ma Ha Ba Xà Ba
Ðề), em ruột của Hoàng hậu Màyà.
-
II- Ðời sống của Thái tử trước khi
xuất gia
- 1)- Ðời
sống và giáo dục của Thái tử: Thái tử Siddhattha được nuôi
nấng và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lãnh vực văn chương và
võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất trong nước được mời đến
hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn học đương đại như Thanh
minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh (công kỹ nghệ học), Y
phương minh (y học), Nhân minh (luận lý học) và Nội minh (đạo
học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về đạo học, Thái tử đã được
học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại rằng, chỉ trong khoảng thời
gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên.
Với một tư chất đặc biệt, Thái tử đã làm cho hai danh sư nổi
tiếng về võ là Ksantidiva (Sằn Ðề Ðề Bà) và về văn là
Visvàmistra (Tỳ Sa Mật Ða La) phải cúi đầu thán phục. Ngoài sự
thông minh dĩnh ngộ, Thái tử được mọi người quý kính về đức hạnh
bao la của Ngài.
- Trong một
buổi lễ Hạ điền, giữa lúc mọi người mải mê xem lễ hội, Thái tử
lúc ấy tuy còn nhỏ, đã lặng lẽ đến bên cội cây gioi (rose-apple)
xếp bằng tĩnh tọa. Thấy con với dáng dấp trầm tư, tĩnh lặng, Vua
Suddhodana đã phải kinh ngạc thốt lên: "Ôi, con thân yêu! Ðây là
lần thứ hai, cha nghiêng mình trước con!" (lần trước, khi thấy
đạo sĩ Asita cúi đầu trước Thái tử, vua bất giác cũng nghiêng
mình theo).
- Càng yêu
thương quý trọng con, Vua Suddhodana lại càng lo sợ Thái tử sẽ
không nối nghiệp ngai vàng, mà sẽ xuất gia tìm đạo như lời tiên
đoán của đạo sĩ Asita. Càng lớn lên, Thái tử càng lộ vẻ trầm tư
về cuộc sống. Bởi thế, vua cùng triều thần sắp đặt nhiều kế
hoạch để giữ Thái tử ở lại với ngai vàng. Vua Suddhodana đã cho
xây 3 cung điện nguy nga, tráng lệ cho Thái tử thay đổi nơi ở
hợp với thời tiết quanh năm của Ấn Ðộ. Hàng trăm cung phi mỹ nữ
giỏi đàn ca hát múa được tuyển chọn để túc trực hầu hạ Thái tử.
Ðức Phật đã đề cập đến quãng đời này trong kinh Tăng Chi I như
sau: "... Này các Tỳ kheo, ta được nuôi dưỡng tế nhị, quá mức
tế nhị; các hồ nước được xây lên, một hồ trồng hoa sen xanh, một
hồ sen đỏ và một hồ sen trắng... Ðêm và ngày, lọng trắng được
che trên đầu ta, để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ, sương.
Này các Tỳ kheo, 3 lâu đài được xây dựng cho ta, một cái cho mùa
Ðông, một cái cho mùa Hạ và một cái cho mùa mưa... Các vũ công
đàn hát múa xung quanh ta...". Nhưng những hạnh phúc trần
gian không làm khuây khỏa được ưu tư của người có ý chí xuất
trần.
- Muốn ngăn
chặn tất cả những hình ảnh của cuộc sống trầm thống khổ đau mà
kiếp người phải đeo mang không lọt vào mắt, vào tai Thái tử, để
đứa con yêu không có thời gian mà nghĩ đến ngày xích lại với
quyết định xuất gia; khi Thái tử vừa tròn 16 tuổi, Vua
Suddhodana vội tiến hành lễ thành hôn cho Thái tử với Công chúa
một nước láng giềng - Yosodhara (Da Du Ðà La) - con Vua
Suppabuddha (Thiện Giác), một trang quốc sắc thiên hương, với hy
vọng hương ấm tình yêu thương đôi lứa sẽ buộc chặt đôi chân của
Thái tử ở lại với ngai vàng.
- 2)- Tiếp
xúc khổ đau nhân thế: Nhưng được một thời gian, do năng
khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người vô hạn vô biên, Thái
tử lại rơi vào tình trạng trầm tư lo lắng, luôn cảm thấy lòng
mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn thắc mắc. Ðược phép vua cha,
Thái tử lần đầu tiên được ra khỏi cung vàng điện ngọc và tiếp
xúc với thế giới bên ngoài. Trong phạm vi giới hạn của cấm
thành, Ngài chỉ được thấy những gì tươi đẹp của đời sống; và
phần còn lại, phần nhiều hơn, phần tương phản với những gì Ngài
hiểu biết, giờ đây nó đang sờ sờ trước đôi mắt ngỡ ngàng và xót
xa của Thái tử Siddhattha.
- Lần lượt ra
bốn cửa thành của hoàng cung, Ngài chứng kiến những sự thật đen
tối và đáng sợ! Một cụ già chân mỏi, gối dùn; một người bệnh
hoạn quằn quại; một thây ma hôi thối và một đạo sĩ ly dục nghiêm
trang, tất cả đã làm cho tâm tư Thái tử dao động đến cực độ.
Ngài càng nhận chân rằng tất cả những lạc thú, hạnh phúc mà mình
đang thọ hưởng đều mang tính giả tạm vô thường. Cộng với lần
tiếp chuyện cùng vị đạo sĩ ung dung, mà thoáng hiện đằng sau con
người này một con đường giải thoát, Thái tử Siddhattha quyết
định thoát khỏi ngục vàng, tìm ra một lối thoát, một cuộc sống
chân thật có ý nghĩa và cao đẹp hơn; một con đường dẫn tới giác
ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời
người và hướng đến an lạc.
- Giữa lúc ấy,
một tin đưa đến khiến Ngài không vui: Công chúa Yosodhara vừa hạ
sanh một hoàng nam. Thái tử đã thốt lên rằng: "Một trở ngại
(ràhu) đã được sanh, một ràng buộc đã xảy ra". Nhân câu nói này
mà Quốc vương Suddhodana đã đặt tên cháu là Ràhula (La Hầu La).
-
III- Sự từ bỏ vĩ đại
- Và rồi, với
cõi lòng nặng trĩu vì thương chúng sanh chìm đắm trong bể khổ;
một đêm, sau khi đến trước phòng nhìn lần chót người vợ và hài
nhi yêu dấu đang say nồng trong giấc ngủ, Ngài cùng nô bộc
Channa (Xa Nặc) (2) dắt con tuấn mã Kantaka (Kiền Trắc) (3) vượt
thành ra đi.
- Ánh sao khuya
dẫn lối đưa đường, làn gió lạnh đẩy lùi tất cả lại sau lưng.
Tình yêu thương phụ hoàng, di mẫu, vợ đẹp, con ngoan rất nồng
nàn, nhưng trong Thái tử, lòng xót thương nhân loại đang chịu
mọi nỗi bất hạnh lại còn da diết vượt trội hơn nhiều.
- Ra đi, Ngài
từ bỏ tất cả những người thân yêu, ngôi báu, vương quyền, cả
cuộc sống nhung lụa tràn đầy hạnh phúc. Ðây không phải là sự hy
sinh từ bỏ của một người già, người đau ốm, người nghèo, người
tật bệnh, người bất đắc chí, người ngán ngẩm cuộc đời, người
mang căm hờn oán giận... mà là sự hy sinh từ bỏ của một hoàng tử
đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang, chứa
chan hạnh phúc. Quả đó là một sự từ bỏ hy sinh vĩ đại, có một
không hai trong lịch sử loài người. Một sự ra đi không tiền
khoáng hậu. Năm ấy, Thái tử vừa tròn 19 tuổi (theo Nam truyền
Phật giáo, Thái tử xuất gia năm 29 tuổi).
-
IV- Quãng đường tu hành - tầm đạo
- Khi tới bên
kia bờ sông Anoma, Thái tử dưâng lại, cạo bỏ râu tóc, trao y
phục và đồ trang sức cho Channa; và bảo người nô bộc trung thành
ra về tạ lỗi cùng phụ hoàng. Còn lại một mình, Thái tử ra đi với
bộ áo màu vàng giản dị của người tu sĩ, sống cuộc sống không nhà
của người xuất gia, ly dục ly trần, không nơi cố định.
- Một cây cao
bóng mát hoặc một hang đá vắng vẻ, một cánh rừng u tịch, một
làng mạc đìu hiu đều có thể là nơi che mưa đỡ nắng, nghỉ qua đêm
của Ngài. Ði trong nắng cháy, đi trong sương gió lạnh lùng, xiêm
y từ tốn chỉ là những mảnh vụn ráp lại, tài sản duy nhất chỉ là
một bình bát để khất thực độ nhật; Thái tử Siddhattha dành hết
thời gian cho sự tầm cầu thiền định hầu tìm ra sự thật tối hậu.
- Lúc bấy giờ,
có nhiều trí thức lỗi lạc xuất gia trở thành những đạo sư tâm
linh danh tiếng, quy phục được nhiều đồ đệ. Thái tử Siddhattha
trên đường đi tầm đạo cũng đã tới thụ giáo với hai vị đạo sư
được tôn kính nhất thời ấy là A- la-ra Ka-la-ma và Uất Ðầu Lam
Phất, và chỉ trong một thời gian ngắn, ngộ Vô sở hữu xứ định mà
Alara Kalama đã chứng và đạt định Phi phi tưởng xứ mà Uddaka
Ràmaputta đã đạt. Biết rằng đây vẫn còn trong vòng sanh tử, Ngài
lại ra đi, bỏ lại sau lưng lời yêu cầu ở lại cùng giáo hóa đồ đệ
của hai vị đạo sĩ danh tiếng trên. Và thế là không còn ai để
Ngài theo học đạo nữa.
-
V- Sáu năm khổ hạnh
- Thời ấy, Ấn
Ðộ còn có truyền thống và niềm tin rằng, người nào cầu đạo giải
thoát đều phải nỗ lực và kiên trì tu khổ hạnh; Thái tử liền đi
đến Uruvela, một thị trấn của Senàni và cùng với năm anh em ông
Kodanna (Kiều Trần Như) (4) , Bhadhya (Bạt Ðề) , Vappa (Ðề Bà) ,
Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji (Ác Bệ) , bắt đầu một cuộc tu khổ
hạnh kéo dài đến 6 năm và dẫn đến kết quả là thân thể Ngài gầy
đi như một bộ xương khô, đôi mắt sâu hoắm, không còn đi đứng
được nữa.
- Ngài đã trải
qua những cảm giác nhức nhối, đau đớn tột cùng của thân thể, và
Ngài đã kể lại trong kinh Majjihima Nikàya (Trung Bộ kinh) với
những hình ảnh thật đáng sợ: Ngài như bị ai khoan vào sọ với
lưỡi khoan thật bén; như bị một lực sĩ dùng dây siết chặt đầu;
bị tên đồ tể dùng dao rạch bụng; như bị nắm và quăng lên giàn
hỏa thiêu sống. Nhưng những cảm giác đau đớn ấy không hề ảnh
hưởng và làm tổn thương đến tâm thức của Ngài.
- Ở đây, qua
thực nghiệm, Ngài thấy rằng chân lý tối hậu giải thoát an lạc,
diệt trừ khổ đau không thể cầu được ở bên ngoài, ở bất kỳ một
bậc đạo sư nào, cũng không phải qua pháp môn hành xác; mà sự
chứng ngộ ấy cần phải được thể hiện ở chính trong nội tâm của
mỗi người và không thể dựa vào một tha lực nào khác.
- Ngài lấy lại
sức nhờ uống bát sữa do một thôn nữ tên là Sujata (Su Dà Ta)
dâng cúng, sau đó xuống tắm ở dòng sông Neranjara (Ni Liên
Thuyền). Năm người bạn đồng tu cho rằng Ngài đã thối chí, quay
về cuộc sống dục lạc tiện nghi, họ bèn rời bỏ Ngài và đi đến
Isipatana gần thành phố Benares (Ba La Nại).
-
VI- Thành đạo
- Còn lại một
mình, Ngài đến ngồi dưới gốc cây pippala (tất bát la, sau này
gọi là cây bodhi - bồ đề); và với tâm định tĩnh, chánh niệm,
tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền (thời niên thiếu, trong buổi
lễ Hạ điền, Ngài cũng đã một lần vào thiền này), nhị thiền, tam
thiền và lần lượt nhập lên tứ thiền, sau đó hướng tâm đến tam
minh.
- Với trực
giác, Ngài thấy rõ nguyên nhân của khổ đau. Chính sự tập khởi
của 12 nhân duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn. Ở canh một,
Ngài chứng Túc mệnh minh, thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của
mình. Sang canh hai, Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ vô
lượng kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và nghiệp
quả, thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh. Qua canh ba,
Ngài như thật quán chiếu thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau,
sự đoạn tận của khổ đau, và con đường đưa đến đoạn tận khổ đau,
và đã chứng Lậu tận minh. Sau cùng, Ngài chứng đắc quả vị Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, là vị Phật đầu tiên trong hiện
kiếp, lúc ấy sao Mai vừa mọc; và danh hiệu Ðức Phật Gotama, Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni được thế gian tôn xưng từ đấy.
-
C. Kết luận
- Nhìn qua lịch
sử xưa nay, những anh hùng cái thế lập nhiều chiến công hiển
hách trên những đấu trường, thắng ngàn quân, trăm trận nhiều vô
số kể, nhưng thử hỏi có ai thắng được dục vọng của chính mình ?
Thắng người đã là một việc khó, thắng được chính mình lại là một
việc làm khó hơn. Ðức Phật đã thắng cả ngoại ma lẫn nội ma, vượt
qua tất cả dục vọng thấp hèn, Ngài thật xứng với danh xưng
Ðại Hùng, Ðại Lực.
- Ngài không vì
quyền lợi riêng mà chiến đấu, cũng không vì tình thương yêu hạn
hẹp ở cha mẹ, vợ con, bè bạn, quốc gia, lãnh thổ; mà vì lòng từ
vô lượng đối với tất cả chúng sanh mà đi tìm con đường giải
thoát cho mọi loài. Ngài xứng với danh hiệu Ðại Từ, Ðại Bi.
- Vì tình
thương yêu rộng lớn, không bỉ thử, không thân sơ, nhân ngã ấy,
Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, uy quyền, lạc
thú trần gian, cam chịu một cuộc đời sống trong kham khổ, đạm
bạc thiếu thốn, giáo hóa đó đây, Ngài xứng với danh xưng Ðại
Hỷ, Ðại Xả.
- Ðọc vài trang
sử tóm gọn về cuộc đời của một đạo sư, một bậc thầy cao cả đáng
tôn đáng kính của nhân loại, để hiểu về Ngài có khác nào con
muỗi hút nước ở đại dương. Nhưng từ những nét đại cương, khái
lược về cuộc đời của Ðức Phật cũng đủ làm cho chúng ta suy gẫm ý
nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà nhân loại đã tôn xưng Ngài là bậc
Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
- Sự xuất hiện
của Ðức Thích Ca Mâu Ni trong trần thế là cả một vinh hiển lớn
cho con người và xã hội. Ngài là kết tinh của muôn ngàn hương
hoa Bi, Trí, Dũng; là hiện thân của chân lý giải thoát, là điềm
lành cho hết thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới.
Nếu cuộc đời không đau khổ tối tăm, Ðức Phật đã không xuất hiện
ở đời. Ngài ra đời vì một mục đích trọng đại là chỉ bày cho
chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Hay nói khác
hơn, "vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài người" mà Ðức Thế Tôn xuất hiện ở thế gian.
- Cuộc đời của
Ðức Phật là cả một bài thuyết pháp hùng hồn trác tuyệt, dù cho
có dùng hàng vạn ngôn từ mỹ dụ cũng không thể nào diễn đạt cho
hết ý nghĩa thiêng liêng. Ðời sống của Ngài là một biểu hiện
sống động cho giáo lý của Ngài. Ngài nói và thực hành với kết
quả mỹ mãn, tương ứng với những gì Ngài thuyết giảng. Ðời sống
Ðức Ðiều Ngự là cả một bằng chứng hiển nhiên cho giáo pháp khả
thi, khả hành, khả chứng, vượt thời gian, không gian, hiện tại
lạc trú của Ngài. Ðó không phải là những tín điều mặc khải, càng
không phải là những lời dạy suông, những ý niệm hoang tưởng,
những lý thuyết xây dựng trên mây, trên khói.
- Lịch sử của
Ðức Phật là lịch sử của một con người, nhờ tu tập bản thân, đã
trở thành một con người hoàn thiện, một bậc thánh giữa thế gian.
"Con người vĩ đại nhất sinh ra ở đời này", như lời Tagore
đã nói.
- Bằng cuộc đời
của Ngài, bằng những lời dạy của Ngài được kết tập lại trong ba
tạng kinh điển, Ðức Phật đã khai thị cho loài người biết rằng,
bất cứ một người nào, với sự nỗ lực của bản thân, đều có thể
vươn lên đỉnh cao của giác ngộ và giải thoát. Có thể nói, không
một tôn giáo nào, không một hệ tư tưởng nào đề cao con người và
đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật. Tính nhân bản tuyệt
vời của đạo Phật chính là chỗ đó.
- Tránh mọi
điều ác, làm mọi điều lành, gột rửa nội tâm để trở thành một bậc
thánh, một con người hoàn thiện về đức hạnh và trí tuệ, mỗi con
người chúng ta đều có khả năng và bổn phận thực hành bức thông
điệp đó, bức thông điệp bất hủ mà Ðức Phật đã trao cho loài
người, cho mỗi chúng ta./.
-
* Chú thích:
- (1) Asita
(A Tư Ðà): vị đạo sĩ ẩn tu trên đỉnh Hymalaya, người được
kính nể nhất vì đạo hạnh và đức độ tại Ấn lúc bấy giờ.
- (2) Channa
(Xa Nặc): người hầu cận tâm phúc bên cạnh Thái tử.
- (3)
Kantaka (Kiền Trắc): Theo truyền thuyết, con ngựa Kantaka
rất hung dữ, không ai điều phục được ngoài Thái tử Siddhatta.
- (4) Năm
anh em Tôn giả Kodanna: Kondanna, Bhadhya, Vappa, Mahanama
và Asaji.
- (5) Bodhi:
Tên một loại cây tại Ấn Ðộ, Hán dịch là cây bồ đề. Bodhi
còn có nghĩa là trí tuệ.
-
* Sách tham khảo
- 1. Thích
ThiệnSiêu, Tỏa ánh từ quang, BTS tỉnh Thừa Thiên-Huế,
Huế, 1992.
- 2. Thích
Thiện Siêu, Phật tử, VNCPHVN, TP HCM, 1997.
- 3.
H.W.Schumann, Trần Phương Lan dịch, Ðức Phật lịch sử,
Viện NCPHVN, TP HCM, 1997.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Bạn hãy nêu ra những
đặc điểm trong tính cách của Thái tử Tất Ðạt Ða trên quá
trình tìm đạo.
- 2)- Hãy trình bày bối
cảnh xã hội và nguyên nhân Thái tử xuất gia tìm đạo.
- 3)- Thái tử đã nhận ra
điều gì sau 6 năm khổ hạnh?
- 4)- Vì sao Ðức Phật được
tôn xưng là đấng Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ Bi, Ðại Hỷ Xả?
|
--o0o--
|
|