-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I -
Bài 4
- Lịch Sử Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ Thành Đạo đến Nhập Niết Bàn)
- Gia Tuệ
-
A- Dẫn nhập
- Ðức Thích Ca Mâu Ni đã vì một
đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô hạn mà khước từ mọi hạnh
phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giải thoát. Và
cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô
thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hết thời gian cho công cuộc hoằng hóa
độ sanh. Ðức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Ðộ thời xa xưa
ấy, từ cực Bắc dưới chân núi Himalaya (núi Hy Mã Lạp) đến cực
Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).
-
B- Nội dung
- Ðức Thế Tôn
đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp
thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà
quả phúc giải thoát mang đến. Pháp Cú kinh số 153, 154 đã ghi
lại một trong những Phật ngôn đầu tiên mà Ngài đã thốt lên trong
thời gian này:
- Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, phải tái sanh
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Ðòn tay ngươi bị gãy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu vong. (Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
- Câu kinh như
một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau
cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Anh thợ tượng trưng
cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong mỗi con
người, nay đã bị phát hiện.
- Ðức Phật cũng
đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đạo đức đẹp đẽ, đó là
sự tỏ lòng tri ân sâu xa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho
Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Ðức Thế Tôn đã đứng cách một
khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi
đây Vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là
Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
- Ðức Thế Tôn
đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã
chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định
kiến, chấp ngã, với nhiều thủ trước... làm thế nào để con người
dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy. Và rồi, với trí tuệ của bậc giác
ngộ, Ðức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy rằng: "Có hạng
chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn
căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa,
khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen
trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi
mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước,
lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước thấm
ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành
sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở
sâu trong lòng nước v.v..., đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ
bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy
hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng
nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo
pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước.
- Dù sống trong
nghiệp quả bất đồng, mỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ,
như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
- Với ba lần
thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm
Thiên, Ðức Thế Tôn quyết định gióng lên tiếng trống pháp và bắt
đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với
loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và
diệt khổ, con đường dẫn tới cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn
đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng mở, Cho những ai chịu
nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh xe pháp đã bắt đầu chuyển
vận.
-
I- Bài pháp đầu tiên - ngôi Tam bảo
được hình thành - sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo
- Sau khi quyết
định truyền bá đạo lý cứu khổ cho muôn loài, Ðức Phật dùng tuệ
nhãn quan sát thế gian xem ai là người có cơ duyên để hóa độ
trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là Alara
Kàlama (A-la-ra Ka-la-ma) và Uddaka Ramaputta (Uất Ðầu Lam Phất)
, nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu. Ðức Thế Tôn nghĩ
đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia,
đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Ba La Nại) và lên
đường đi đến đó.
- 1)- Bài
pháp đầu tiên: Tại đây, bài pháp đầu tiên, bài giảng về Tứ
diệu đế (Tứ thánh đế) được Ðức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng. Nghe
xong, Tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Ðà Hoàn.
- Ðức Thế Tôn
đã thu nhận năm Tôn giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế
là ngôi Tam bảo đã được hình thành.
- Ðể đánh dấu
sự kiện đáng ghi nhớ này, về sau người ta đã biểu trưng nó với
hình ảnh bánh xe với 2 con nai hai bên. Hai con nai biểu tượng
cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe Dhamma Cakka tức
là bánh xe pháp (Pháp luân). Cả đầu đề bài kinh được giảng là:
Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân
(chuyển bánh xe pháp).
- 2)- Nội
dung kinh Chuyển Pháp Luân: Ðức Thế Tôn mở đầu bằng lời
khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một là đam mê
thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường,
ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ hai là khổ hạnh ép
xác, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài khuyến tấn
họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống
thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Ðó là con
đường đạo tám nhánh - Bát chánh đạo: 1- Chánh tri kiến:
thấy biết chân chánh. 2- Chánh tư duy: suy nghĩ chân
chánh. 3- Chánh ngữ: nói năng chân chánh. 4- Chánh
nghiệp: hành động chân chánh. 5- Chánh mạng: sinh
sống chân chánh. 6- Chánh tinh tiến: siêng năng chân
chánh. 7- Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh. 8- Chánh
định: tập trung tư tưởng chân chánh.
- Và Bốn thánh
đế được Ðức Phật giảng tiếp theo, đó là chân lý về sự Khổ (Khổ
đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ (Tập đế), chân lý về sự
diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ (Ðạo đế).
- Sau khi nghe
Ðức Thế Tôn giảng bài pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana
Sutta bàn về thuyết Vô ngã (không có cái ta), rằng năm uẩn
là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái thì ra khỏi tái sanh,
được giải thoát; năm Tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như), Bhadhya
(Bạt Ðề) , Vappa (Ðề Bà) , Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji (Ác Bệ)
lần lượt chứng quả A La Hán.
- Bấy giờ là
tháng Vesàkha (giữa tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ,
Giáo hội của Ðức Thế Tôn an cư mùa mưa đầu tiên tại đây.
- 3)- Giáo
hóa Yasa (Da Xá): Gần Benarès, có con trai của một người
triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quý tầm thường
vô vị của thế gian, chàng tìm đến Ðức Phật; sau khi nghe pháp đã
xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A La Hán. Cha của
Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính pháp và xin
quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Ðức Phật. Tại
nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người
bạn thân của Yasa là Vimàla (Tỳ Ma La), Subhàhu (Tu Bà Hầu),
Punnaji (Phú Lan Ca Na) và Gavàmpati (Già Bà Bạt Ðế) cũng như
hơn 50 bạn khác từ các gia đình và địa phương gần xa nghe tin
Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình xin theo chân
Ðức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
- 4)- Ðoàn
Tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên: Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn đã có
60 người đệ tử đều là A La Hán. Ngài quyết định đưa họ đi khắp
nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ngài đã
động viên, kêu gọi các đệ tử rằng: "Hỡi các Tỳ kheo! Như Lai đã
được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian,
các ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều
người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế
gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy
đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một
ngả, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp toàn
thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và
lời văn. Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh...
Chính Như Lai cũng đi, Như lai sẽ đi về hướng Uruvela (Ưu Lâu
Tần Loa) ở Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên
ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu,
hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã
hoàn tất nhiệm vụ" (Mahavagga - Ðại Phẩm 19, 20).
- Ðức Phật
không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để
xuất gia, trở thành người sống không nhà cửa, không tài sản, sự
nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp thích ứng
với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ và vợ của Yasa là những
người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Ðức Phật, tất
cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần và thành tựu đạo quả Tu Ðà
Hoàn.
- Lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới, Ðức Phật và 60 người học trò chứng quả A
La Hán tổ chức thành một Tăng đoàn những tu sĩ khất thực, không
có trụ xứ nhất định, không có của cải vật chất nào khác ngoài
tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân.
Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi
hay đồng hoang đều có dấu chân của những con người thuyết giảng
về đạo lý cứu khổ và đời sống thánh hạnh, và tự mình nêu gương
sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Ðó là sự nghiệp, là
nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Ðức Thế Tôn đích thân
thành lập và chỉ đạo.
- Có thể nói,
đây là sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
-
II- Hóa độ rộng lớn và cùng khắp
- Sứ mạng hóa
độ - con đường giáo hóa của Ðức Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và
khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng sâu, tinh thần bình đẳng
triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Ðức Thế Tôn đã tùy theo
căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo
hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành
sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn và đã đề ra một con đường
giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.
- 1)- Cảm
hóa ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) - giáo chủ thần lửa: Sau
khi 60 vị Tỳ kheo mỗi người đi về một hướng, Ðức Thế Tôn cũng đi
về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một khu rừng nhỏ, Ðức Phật
đãả hóa độ cho 30 thanh niên đang vi đùa cùng vợ của họ và một
kỹ nữ ở trong rừng.
- Gần Uruvela
có ba anh em Kassapa: Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp) ,
Nadi Kassapa (Na Ðề Ca Diếp) và Gaya Kassapa (Già Da Ca Diếp).
Ba anh em ông là những người có danh vọng lớn ở Magadha, đặc
biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông này thờ thần lửa và tự
cho mình đã chứng quả A La Hán. Trọ qua đêm và bị cố ý thu xếp
cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con rắn chúa rất độc và dữ
tợn, Ðức Phật đã hàng phục con rắn thiêng này, ngoài suy nghĩ
của ông Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Ðức Phật là người đã
chứng quả Thánh, chứ không phải là mình, ba anh em ông Kassapa
và 1.000 đệ tử đều xin xuất gia theo Phật.
- Sau đó, Ðức
Phật đã đến Gàya Sirà (rừng Thệ Ða) cách Uruvela không xa lắm.
Chính nơi đây, Ðức Thế Tôn đã thuyết giảng kinh Adittapariyàya
Sutta (bài kinh với chủ đề: Thế gian là tòa nhà cháy rực bằng
ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ não
và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.
- Khi vừa thoát
ly gia đình để tầm đạo, Ðức Phật có lúc đã ngụ tại
Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La - Bình Sa Vương) lấy
làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm,
sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. Sau khi
biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức Vua
xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc Magadha (Ma Kiệt Ðà)
do vua cai trị, khi chứng đạo quả.
- Nhớ lời hứa
xưa, Ðức Thế Tôn cùng trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến
Ràjagaha (Vương Xá) , thủ phủ của vương quốc Magadha giàu mạnh.
Và tại đây, Vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu liền
chứng Sơ quả và xin quy y Tam bảo, cùng dâng cúng tinh xá rộng
lớn có tên là Veluvanàràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành
Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện đầu tiên ra đời, và Vua
Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. Tại tinh
xá yên tĩnh này, Ðức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3 năm
liên tiếp và 3 hạ khác, xa cách nhau.
- 2)- Thâu
nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên):
Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, còn có tên là Nàlaka,
Sàriputta - một chàng trai thông minh - là người ở làng này. Vì
xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên chàng còn được
gọi là Upatissa.
- Cùng với
người bạn thân ở làng Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một
nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều tạm bợ, trống
rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình, lang
thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ Sàsajaya, người có
rất nhiều đồ đệ. Nhưng do không thỏa mãn với giáo lý của vị thầy
hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ khác, cả hai chia tay
nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải thoát
trước, sẽ cho người kia hay.
- Trong một dịp
bất ngờ, ngài Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải
thoát, trầm tĩnh, siêu phàm đang đi trì bình một cách thong dong
để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của ngài Assaji (Ác Bệ
hay Mã Thắng hoặc Thuyết Thị). Cho rằng đây hẳn là bậc A La Hán,
hay cũng là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ,
Sàriputta đã đợi cơ hội và liền đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch
Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an tịnh. Màu da của
Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Ai là đạo sư
của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
- Trước những
câu hỏi chân thật, khiêm tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của
Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý mà Ngài đã học ở
Ðức Thế Tôn bằng bài kệ: "Các pháp do nhân duyên sanh, Duyên
ấy Như Lai đã chỉ rõ, Và dạy phương tiện để chấm dứt, Ðó là giáo
pháp của bậc Ðại Sa môn".
- Là người
thông tuệ và trí óc đã thuần thục để thấu triệt chơn lý sâu xa,
dù nó chỉ được gợi ra một cách vắn tắt, Sàriputta đã chứng Sơ
quả (Sotàpayti - Tu Ðà Hoàn) khi vừa nghe hai câu đầu.
- Theo lời giao
hẹn, Sàriputta liền thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã
chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu cầu của cả hai, Ðức Phật đã
nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh xá Veluvana với câu nói đơn
giản: "Etha, Bhikkhave! (Hãy đến đây, các Tỳ kheo!). Nửa tháng
sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh Vedanà
Pariggha mà Ðức Phật giảng cho đạo sĩ Dìghnakha (Trường Trảo).
Ngài Moggallàna đã chứng quả ấy trước đó một tuần.
- Với cơ duyên
lớn, Ðức Phật đã triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là
Thượng thủ trong Tăng đoàn.
- Từ đấy, hai
Ngài thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Ðây là
thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của Giáo hội Phật
giáo, dưới sự lãnh đạo của Ðức Thế Tôn.
-
III- Ðức Phật và thân quyến
- 1)- Vua
Suddhodana (Tịnh Phạn Vương): Hay tin người con yêu dấu trí
tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi danh tại
Ràjagaha, đức Vua Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền tức tốc sai
nhiều sứ giả đến thỉnh Ðức Phật về Kapilavatthu. Nhưng chín lần
ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Ðức Phật. Vị sứ
giả thứ mười là Kàludàyi (Ca Lưu Ðà Di), vốn là bạn thân của Ðức
Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và
cũng chứng Thánh quả như những vị sứ giả trước, nhưng ông
Kàludàyi đã chuyển đến Ðức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của vị
vua già yếu.
- Sau hai
tháng, Ðức Thế Tôn và đại chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước
đạo phong của Ðức Phật, Vua Suddhodana đã cúi đầu kính lễ lần
thứ ba. Và sau khi Ðức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất, đức Vua
đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai (Sakkadagami - Tư Ðà Hàm)
khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba, khi nghe bài pháp có tên
Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện, số 447), đức Vua
đắc quả Anagami (A Na Hàm). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati
Gotami đã chứng Sơ quả.
- Sau này trên
giường bệnh, Vua Suddhodana lại được Ðức Phật về thăm và giảng
pháp cho nghe. Ðức Vua sau 7 ngày tận hưởng pháp lạc do đắc quả
A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Ðức Phật ở tuổi 40
và đang an cư lần thứ năm. Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội
Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Ðức Phật đã lên cung trời
Tusita (Ðao Lợi) thuyết pháp độ chư Thiên và Hoàng hậu Maya.
- 2)-
Yasodhara(Da Du Ðà La): Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng,
Công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y vàng của
người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường, đã thủy chung, tận
tình nuôi dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn khôn.
- Nghe vua cha
tán dương đức hạnh của nàng dâu, Ðức Thế Tôn đã giảng kinh
Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng: "Không phải chỉ kiếp cuối
cùng này, mà trong những tiền kiếp, Công chúa cũng đã từng bảo
vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
- Sau khi Vua
Suddhodana qua đời, di mẫu Pajapati xuất gia làm Tỳ kheo ni,
Công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A La Hán sau đó. Trong
hàng Ni chúng, Công chúa là người có thần thông bậc nhất. Bà
nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh Apadana còn ghi lại những
câu kệ do bà giảng thuyết.
- 2)- Ràhula
(La Hầu La): Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử quyết định
thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh không cha, được
ông nội và mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày
thứ 7 Ðức Thế Tôn lưu lại quê nhà, Ràhula luôn luôn quấn quýt
bên chân Ðức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ dặn. Ðức Phật
quyết định giao "Thất thánh tài" (1) cho cậu bé bằng cách
nhận cậu vào Tăng đoàn và giao cho ngài Sariputta dạy dỗ.
- Thật khó
tưởng tượng một cậu bé lên bảy có thể sống đời sống cao thượng
của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di Ràhula vừa thông minh
đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi rằng mỗi
sáng, vị Sa di trẻ này dậy thật sớm, bốc một nắm cát tung lên và
nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu
cát đây...".
- Một trong
những bài kinh nổi tiếng mà Ðức Phật đích thân dạy cho Ràhula là
bài Ambalatthika Rahulovada Sutta (kinh Giáo Giới La Hầu La),
nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản
tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói, hành động bất thiện.
- Năm lên 18
tuổi, một lần cùng Ðức Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi
quý phái của hai vị tu sĩ xem tựa như thớt ngự tượng dõng dạc
cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua dắt con
lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai phong cùng hùm
con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình vô cùng đẹp đẽ, cả
hai đều thuộc dòng dõi quý tộc từ khước ngai vàng cất bước ra
đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý niệm nghĩ
về thân hình đẹp đẽ của mình và Ðức Phật. Biết được ý tưởng đó,
Ðức Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N’etam mama (cái này không
phải của ta); N’eso’ham’asmi (cái này không phải là ta); Na me
so attà (cái này không phải tự ngã của ta)" - xem
Anattalakkhana Sutta, bài II.
- Và sau khi
nghe kinh Cùla Ràhulovàda Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài
nhập diệt trước cả Ðức Phật và ngài Sàriputta. Ngài nổi tiếng là
người tôn trọng kỷ luật. Bạn bè thân gọi Ngài " Ràhula may mắn",
vì đời Ngài có được hai diễm phúc: là con của Ðức Phật và chứng
ngộ được chơn lý; như trong kinh Theragàthà (Trưởng Lão Tăng
Kệ), Ngài đã đề cập đến điều ấy.
- 3)- Ananda
(A Nan): Con của Hoàng thân Amitodana, em trai Vua
Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Ðức Phật. Ông sanh ra
mang lại niềm hoan hỷ cho hoàng tộc, nên được đặt tên là Ananda
(Khánh Hỷ). Hai năm sau khi Phật thành đạo, ông xuất gia cùng
với các thanh niên của dòng họ Sakya là Anurudha (A Nâu Lâu Ðà),
Baddhiya (Ba Ðề), Bhagu (Ba Gu), Kimbala (Kim Tỳ La) và
Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða). Không bao lâu, ông chứng Sơ quả khi
nghe bài pháp của Ðại đức Puna Mantàniputta (Phú Lâu Na Mãn Từ
Tử). Năm Ðức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều thỉnh cầu mà ông đưa ra
là: 1- Ðức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện tín
dâng cho Ðức Phật; 2- Không ban cho Ngài những vật thực
mà thiện tín dâng cho Ðức Phật; 3- Cho phép không ở chung
tịnh thất với Ðức Phật; 4- Không cho phép Ngài đi theo
đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Ðức Phật; 5- Ðức Phật hoan hỷ
đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6- Hoan hỷ cho
phép Ngài tiếp dẫn những người từ phương xa đến ra mắt Phật;
7- Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi;
8- Hoan hỷ giảng lại bài pháp mà Ðức Phật giảng khi Ngài
không có mặt.
- Ðược Ðức Phật
chấp thuận với ý nghĩa của nó, và giữa đại chúng, ông được cử
làm thị giả Ðức Thế Tôn suốt 25 năm trường sau đó. Ông làm công
việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm Ðại đức
Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi chung quanh tịnh thất của
Ðức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.
- Tôn giả
Ananda có một trí nhớ tốt lạ lùng: ông ghi nhớ không bỏ sót tất
cả các bài pháp của Ðức Phật, cũng như của một số các đệ tử lớn
của Ngài, mà ông được nghe qua. Khi có một Bà La Môn hỏi Tôn giả
nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là được 82.000 bài
của Ðức Phật và 2.000 bài của các Tôn giả khác thuyết.
- Ðức Phật đã
tán thán 5 đức hạnh của Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ
tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt.
- Mãi sau khi
Ðức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán,
trước một ngày Ðại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất xảy ra,
trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài là vị
A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn giả
mất năm 120 tuổi.
-
IV- Di mẫu Maha Majàpati Gotami xuất
gia - Giáo hội Ni giới ra đời
- Ðược gọi là
Maha Pajàpati (Ma Ha Ba Xà Ba Ðề) bởi vì các nhà tiên tri thời
bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Con
trai bà là Nandà (Nan Ðà), em một cha khác mẹ với Thái tử
Siddhattha, cũng được Ðức Thế Tôn độ cho xuất gia khi chàng trai
này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, phong tước và
khánh thành cung điện mới.
- Tuy công bố
rằng nữ giới cũng có thể chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã
chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng con đường tu hành sống
không gia đình, khép mình vào khuôn khổ của giáo pháp và giới
luật, cũng như sứ mạng hoằng hóa độ sanh thật lắm gian nan, khó
nhọc. Với bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương
nổi trách nhiệm thiêng liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả
Như Lai. Vì thế mà sau khi Vua Suddhodana băng hà, di mẫu dù ba
lần bạch xin xuất gia, Ðức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu lý do.
- Mãi đến khi
bà cùng nhiều mệnh phụ phu nhân của dòng Sakya (Thích Ca) xuống
tóc, đắp y vàng, đi bộ từ Kapilavatthu đến Vesàli (Tỳ Xá Ly),
đoạn đường gian khổ dài khoảng 200 cây số, đôi chân sưng phồng,
thân thể lấm lem cát bụi, đến bên tinh xá Ðức Phật khóc than. Và
chính nhờ Tôn giả Ananda thay mặt họ vào cầu thỉnh Ðức Thế Tôn
đến lần thứ tư, Ngài mới chấp thuận cho di mẫu cùng các bà được
sống đời sống xuất gia, với điều kiện phải chấp hành 8 điều quy
định cho một người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda thuật lại
8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ
đồng ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.
- Khi ưng thuận
cho Ni giới được gia nhập vào Giáo hội, Ðức Phật cũng đã lưu ý
đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy rằng: "Này Ananda, trong ngôi
nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ông thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng
dường như thế, nếu hàng phụ nữ sống trong pháp và luật của Như
Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người
đắp đê bên một hồ nước rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng
vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn
đời".
- Trong một tổ
chức xã hội quy mô nào, ta cũng thấy vì tôn trọng và bảo vệ
quyền lợi của một giới, một đối tượng cá biệt nào đó, mà ở trong
những nguyên tắc sống, làm việc luôn có những khoản ưu tiên dành
riêng cho họ.
- Ðức Phật đã
không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo
chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể,
một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới
luật. Ấn Ðộ đương thời với nhiều tôn giáo, nhưng không có một
đoàn thể nữ giới nào được sinh hoạt như vậy.
- Ít lâu sau,
bà Tỳ kheo ni Maha Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà
(Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên và các bài kệ do các Tỳ
kheo ni chứng Thánh quả sáng tác.
-
V- Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) - những
người chống đối
- Mặc dầu gia
công kiến tạo hạnh phúc giải thoát cho mọi người với một chủ ý
tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi, cũng như không có
một sự phân biệt nào giữa giàu nghèo, quyền quý, mạt hạng, trí
thức hay u mê, Ðức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối
nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ
trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn công một
cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo các hệ thống tôn
giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra phong tục vô
ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần,
hoặc là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỷ. Trong ấy,
Devadatta là một điển hình lớn nhất.
- Ông là con
Vua Suppabuddha và Hoàng hậu Pamità, một người cô của Ðức Phật;
Công chúa Yasodharà là chị ông. Ông xuất gia cùng một lượt với
Ðại đức Ananda và các thanh niên hoàng tộc Sakya, tuy không
chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần thông và được Vua
Ajàtasattu (A Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt. Thời gian đầu
xuất gia, ông có nếp sống gương mẫu, cao thượng đến độ ngài
Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha. Về sau, danh
lợi trần thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người sống đồi
trụy, tà hạnh, tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người ủng hộ.
Khi niên thọ Ðức Phật đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền lãnh
đạo Tăng già, nhưng Ðức Phật đã từ chối. Ông tìm cách xúi giục
Thái tử Ajàtasattu giết vua cha là Bimbisàra để nắm toàn quyền
bính và cùng âm mưu hãm hại Ðức Phật. Sau đó, các xạ thủ được
thuê để giết Ðức Phật đều được cảm hóa thành đệ tử. Devadatta tự
thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá lớn từ trên sườn núi
Gijjhakuta (Linh Thứu) xuống ngay Ðức Phật khi Ngài đi ngang
qua. May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều
mảnh và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka
(nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha) đã có mặt liền sau
đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ
Nàlàgin và xua nó chạy thẳng đến ngay Ðức Phật, nhưng voi cũng
bị đức từ bi của Thế Tôn cảm hóa.
- Dần dần mất
hết uy tín, dư luận lên tiếng mạnh mẽ, Vua Ajàtasattu bỏ rơi,
Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ hòa bình hơn. Ông nêu ra
5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội dung rằng:
Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng, phải sống dưới gốc cây,
mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay
trọn đời. Ðức Phật đã đưa ra câu trả lời rất tự do dân chủ,
không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều ấy.
- Cuối đời
không còn một ai ủng hộ, Devadatta rơi vào những ngày đen tối.
Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn vô hạn, ông mong muốn được
gặp Ðức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không còn kịp nữa, chỉ thốt
ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
- Tuy có một
người đệ tử, một người con như vậy, nhưng Ðức Phật chỉ khuyên
can mà không bao giờ chỉ trích ông. Ngài còn thọ ký rằng, với
đạo hạnh ban đầu, với lòng ăn năn khi hấp hối, Devadatta sẽ trở
thành một vị Ðộc Giác Phật với danh hiệu Atthissara, ở một tương
lai xa xôi.
-
VI- Những đại hộ pháp
-
1)- Anathapindika (Cấp Cô Ðộc): Vị thí chủ
quan trọng nhất thời Ðức Phật tại tiền phải kể đến là ông
Sudatta (Tu Ðạt), người Savatthi (Xá Vệ). Chuyên làm từ thiện xã
hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông
lại được mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika
(Cấp Cô Ðộc - giúp đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu
quạnh). Một lần có việc, ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể
đang chuẩn bị hôm sau đón Ðức Phật quang lâm. Danh từ Phật -
Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy có một sự thay đổi
lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp được
"kiến kỳ hình", nhưng không thể chờ đợi đến ngày mai; như có một
chuyện gì thôi thúc, ngay đêm khuya, ông băng rừng đến nơi
Sìtavara ra mắt Ðức Phật và được cảm độ từ ấy.
- Với lời thách
thức nửa đùa nửa thiệt của Thái tử Jeta (Kỳ Ðà), ông đã đem
những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong khu vườn của Jeta.
Lòng tín thành của ông đã gây được lòng ngưỡng mộ của Thái tử
Jeta đối với Ðức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta
cúng, ông xây dựng tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Ðức Phật.
Chính nơi đây, Ðức Thế Tôn trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần
lớn những bài pháp cũng được hình thành ở ngôi tinh xá nằm ở
Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh "Xá Vệ, Kỳ
thọ, Cấp Cô Ðộc viên..." (nước Savatthi, cây của Jeta và vườn
ông Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ đều do
công của ông thưa hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố thí,
Ðức Phật đã dạy rằng, cúng dường chỗ ăn, chỗ ở của chư Tăng là
tạo nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công đức hơn, và cao
hơn là nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền
quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển
tuệ giác, thể nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp -
Vipassanà (Minh sát tuệ), Tăng Chi IV.
- Cũng từ gia
đình ông trưởng giả này, Ðức Phật đã giảng bài pháp phân chia 7
loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh phúc gia đình lứa đôi. Một
bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo dục đầy tâm
lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.
- 2)-
Visàkhà: Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập đến đầu tiên là
bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà Devi; ông
nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá
Pubbasama, cũng ở Savatthi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây). Là
người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng và
sức khỏe tuyệt hảo, bà còn là người công, dung, ngôn, hạnh vẹn
toàn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi
tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có
lần Phật dạy bà đi hòa giải những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo
ni. Ðôi lúc bà thỉnh cầu Ðức Phật khai chế một vài giới cấm cho
Tăng Ni.
- Cha chồng bà
là triệu phú Migàra, vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha
Nataputta (Ni Kiền Tử Nhã Ðề Tử), giáo chủ đạo Jain - đạo Lõa
thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và
nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã thọ 120 tuổi.
- 3)- Vua
Pasenadi (Ba Tư Nặc): Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói
đến ở phần trước, và người con kế vị là Vua Ajàtasattu, sau khi
cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín
lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết tập Tam tạng lần I.
Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến là Vua
Pasenadi, trị vì xứ Kosala (Kiều Tát La), có thủ phủ là Savatthi
(Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Ðức Phật
và đại tăng. Hoàng hậu Malika, vợ của vua, là người khéo hướng
dẫn phu quân của mình trên con đường đạo đức, quy y Tam bảo. Bà
đã khuyên vua nên tham vấn với Ðức Phật để hiểu ý nghĩa 16 cơn
mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời
các đạo sĩ Bà La Môn.
- Samyutta
Nikaya (kinh Tương Ưng) có trọn một chương mang tựa là Kosala
Samyutta, là chương Ðức Phật giảng cho vua nghe. Trong những bài
pháp ấy, có những ý được nhấn mạnh như: 1- Ðánh giá một người
không phải là chuyện đơn giản; 2- Nên coi trọng phụ nữ như coi
trọng nam giới - Itthì hi’pi ekacciyà seyyà (Trong hàng phụ nữ,
có người còn tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn Ðộ thời ấy, phụ nữ
không bao giờ được kính nể xứng đáng, lời nói cao quý của Ðức
Phật thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới; 3- Không nên coi
thường giới trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn còn bé, ngọn lửa
nhỏ và Tỳ kheo trẻ); tất cả đều có thể trở thành quan trọng, ý
nghĩa sau này; 4- Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù:
- Thắng trận sanh thù oán
Bại trận niệm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tĩnh hưởng an lạc (Tương Ưng VII)
-
VII- Ðộ những người cùng đinh, mạt
hạng
- Ðạo từ bi
giải thoát mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu
sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như Angulimàla, một dâm nữ
như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể chứng
Thánh quả, như kinh đã ghi lại như sau:
- 1)-
Angulimàla (Vô Não): Có tên là Ahimsaka (người vô tội), con
của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân tín của
một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì
lòng ganh tỵ của đồng môn khiến thầy dạy đã hiểu lầm ông và buộc
ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu pháp.
- Ông trở nên
là một hiểm họa, một bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước
Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm được, ông đành đeo vào cổ
nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng hoa bằng ngón tay). Ðức Phật
là người thứ 1.000 mà ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa mà
ông thầy yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe
người ông đang cố sức rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt
lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới phải dừng lại, còn
Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng dao tội lỗi và được xuất
gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở thành một Tỳ
kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông,
chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình
là chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực
tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.
- 2)-
Ambapàli (Liên Hoa Sắc): Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh
tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự hóa độ vô
phân biệt mà Ðức Thế Tôn đang làm.
- Trên đường đi
Kusinara (Câu Thi Na) để nhập Niết bàn, Ðức Phật dừng chân ở
vườn xoài của cô gái giang hồ này. Nghe tin, cô liền đến thỉnh
Ðức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý
tộc Licchavi (Lê Xa) đề nghị đền bù cho cô một số tiền rất lớn
để họ có đặc ân làm điều này. Cô phát tâm cúng vườn xoài cho đại
tăng, xin xuất gia; và sau sự gia công chuyên cần, cô đạt Thánh
quả.
- "Như cơn gió
lốc thổi dồn các thứ lá lại một chỗ, Ðức Cù Ðàm giáo hóa tất cả.
Trí thức-ngu si, vương giả-bần cùng, nghèo hèn-giàu sang, già
cả-niên thiếu, đàn bà-đàn ông, kẻ ác-người thiện, tất cả và hết
thảy, Ðức Cù Ðàm đều mang vào giáo pháp và xem như nhau. Ðạo của
Ðức Cù Ðàm là đạo bình đẳng, không phân biệt vậy" (kinh Ðại
Báo Ân).
- Thật không có lời tán dương nào
nói hết được sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con
đường giáo hóa của Ðức Bổn Sư.
-
VIII- Ðức Phật tuyên bố nhập Niết bàn
- Ðức Phật là
một nhân vật phi thường, tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn
chịu sự hoại diệt của định luật vô thường.
- Khi 80 tuổi,
thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Ðức Thế
Tôn quyết định nhập Niết bàn tại một làng mạc xa xôi, hẻo lánh
là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180
dặm - khoảng 300 cây số - về hướng Bắc), mà không phải ở những
đô thị lớn như Savatthi hay Ràjagaha.
- Trong thời
gian cuối cùng còn lưu lại Magadha, Ðức Phật đã giảng cho đại
thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện thịnh suy của một quốc gia,
khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục nước Cộng hòa
Vajjian (Bạt Kỳ). Nhân đó, Ðức Phật cũng giảng 7 yếu tố thịnh
suy của Giáo hội.
- Rời Ràjagaha,
Ðức Phật đi về Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma;
nhân Ðức Phật đến viếng nơi này, dân chúng đặt tên cổng thành là
Gotama. Từ đó, Ðức Phật vượt sông Hằng và hướng về Kotigàma đến
làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli, nhập Niết bàn cuối cùng tại
đây.
- Mỗi nơi chốn
Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.
- Trong năm
này, Ðức Phật đã tuyên bố giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội
các đệ tử còn mong mỏi gì nữa ở Như Lai ? Như Lai đã truyền dạy
giáo pháp không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và
giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai không bao giờ có bàn
tay nắm lại của một ông thầy...". Và Ngài đã dạy rằng không nên
nghĩ là có một ai phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo hội phải tùy
thuộc một ai; mà mỗi cá nhân phải là một Giáo hội, một hiện thân
của giáo pháp chân chánh.
- Ngài tiếp
lời: "... Như Lai đã già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lai đã
80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi
dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời ra...". Và Ngài lại
kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm, khước từ mọi
tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ (2)... của các Tỳ kheo.
Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính mình là hải đảo của
mình, chính mình là nơi nương tựa của mình, không nên nương tựa
bên ngoài. Hãy xem giáo pháp là hải đảo của các ông, giáo pháp
như chỗ nương tựa, không nên nương tựa bên ngoài". Ngài lại đặc
biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân.
- Mặc dầu tuổi
cao sức yếu, Ðức Phật luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các
Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác nhau.
- Ở Càpalà, Ðức
Thế Tôn tuyên bố 3 tháng sau nhập Niết bàn.
- Trước đây,
Ðức Thế Tôn đã tạo cơ hội cho Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu
dài hơn nữa của Ngài, nhưng Ananda đã vô tình bỏ qua; giờ nghe
Ðức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền khẩn cầu nhưng bị từ chối.
- Trước khi
cùng Ananda đi về Mahàvana, Ðức Phật đã giảng cho đại chúng nghe
về tính cách vô thường của cuộc sống khi thấy họ quá ư sầu não.
- Triệu tập
Tăng chúng quanh thành Vesàli, Ðức Phật nói lời cuối cùng và đưa
mắt nhìn thành phố này lần chót và đi về Kusinara. Trên đường
đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở Pava,
người thợ rèn Cunda (Thuần Ðà) cúng dường cho Ðức Phật món
sùkasamaddhara (nấm rừng), Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên
chôn phần còn lại. Sau bữa cơm này, Ðức Phật bị kiết lỵ rất
nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc phúc để
trấn an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara cách
Pava 6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ tộc
Malla ở.
- Ðến nơi, giữa
hai tàng cây sala, Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hông mặt,
chân trái để trên chân phải duỗi thẳng, đầu quay về hướng Bắc.
- Cây sala trổ
bông trái mùa như để cúng dường cho ngày đại tang. Mọi người mọi
cách biểu hiện sự kính lễ. Ðức Phật lại dạy cách tỏ lòng kính
ngưỡng và tôn sùng Ðức Thế Tôn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh
tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
- Kế đó, Ngài
đề cập đến 4 Thánh tích (nơi Ðản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp
luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên quan đến đời sống của
một Ðức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được nhiều
lợi lạc.
- Sau khi độ
cho tu sĩ ngoại đạo Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Ðức
Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân chúng Malla biết rằng Ngài sẽ
nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng như căn dặn Ananda
không nên bận tâm với việc phải làm vẻ vang long trọng đối với
nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh
phúc cho chính mình.
- Ðược tin qua
hàng nước mắt ràn rụa của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành
Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ bên Ðức Phật, cùng rừng
cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất trong đời và
nghe những lời dạy sau rốt của Ðức Bổn Sư: "Này Ananda, đừng
nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả mà không còn bậc Ðạo sư
nữa. Pháp và luật mà ta đã dạy bảo, đó là Ðạo sư của các ông.
Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới luật phụ và
nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, thắc mắc, phân
vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp,
hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Ðức Thế Tôn nói như vậy
ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.
- Và, Ðức Ðạo
Sư đã khuyến tấn các đệ tử câu cuối cùng: "Hỡi các đệ tử, Như
Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tận lực,
liên tục chuyên cần". Ðó là di huấn tối hậu của Ðức Thế Tôn.
- Thế rồi Ðức
Bổn Sư yên lặng nhập và xuất Sơ thiền. Lần lượt Nhị thiền v.v...
đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài lại nhập và xuất Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại đến nhập
và xuất Sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần thứ hai ra khỏi Tứ
thiền, Ðức Thế Tôn đã nhập Vô dư Niết bàn.
- Kim thân của
Ðức Phật được đưa đến Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái,
và sau 7 ngày được cử hành lễ trà tỳ dưới sự tổ chức của ngài
Maha Kassapa. Xá lợi được chia làm 8 phần theo thỏa thuận của
cuộc họp do ngài Maha Kassapa, đại vương Ajàtasattu và ông Dona
đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc
Malla, xây tháp tôn thờ. Ông Dona xin được thờ phụng cái bình
đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những người Maurya ở
Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để
dựng tháp mà lễ bái.
- Hình dáng của
Như Lai khuất dạng từ đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Ðức
Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc thành đạo cho đến lúc nhập Niết
bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng hai lối đời sống
của chính bản thân và những lời dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc
đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến
thung lũng đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa,
Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như,
giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng, giải thoát.
-
C- Kết luận
- Với sự hy
sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh
của Ðức Phật, ta có thể tán dương hay quan niệm Ngài là vĩ nhân
trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi siêu nhân.
Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính ngưỡng Ðức Phật
đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư
trước lúc Ngài ly trần: "Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh
lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh pháp, tự
mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính
người đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một cách
tốt đẹp nhất"./.
-
* Chú thích:
- (1) Thất
thánh tài: Gia tài của bậc Thánh, gồm có: 1- Tín (đức tin,
lòng chánh tín); 2- Giới (giới luật); 3- Tàm (lòng tự hổ thẹn);
4- Quí (biết xấu hổ với người); 5- Ða văn (nghe nhiều, biết
rộng); 6- Trí tuệ; 7- Xả ly (sự từ bỏ tham, sân, si).
- (2) Tứ
niệm xứ: 4 đối tượng thiền quán, gồm: 1- Thân thể; 2- Cảm
thọ; 3- Tâm thức; 4- Pháp.
- -oOo-
- Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Hãy trình bày mối
liên hệ của Ðức Phật đối với hoàng tộc và thân quyến của
Ngài, đặc biệt là đối với nữ giới.
- 2)- Bạn nghĩ gì về giáo
lý Tứ đế (Bốn chân lý) và Bát chánh đạo, qua thời pháp đầu
tiên của Ðức Phật?
- 3)- Hãy trình bày những
đặc điểm trong cuộc đời hành đạo của Ðức Phật, từ Thành đạo
đến nhập Niết bàn.
|
--o0o--
|
|