-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I -
Bài đọc thêm
- Bức Thông
Điệp Từ Con Người Của Ðức Phật
- Thích Trí
Chơn
-
A- Dẫn nhập
- Cuộc đời
hoằng pháp của Ðức Thích Ca được nhân loại chiêm ngưỡng, khảo
nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn giáo học, khoa
học, triết học, sử học... Song, tất cả đều có chung một mẫu số
rằng: "Suốt 25 thế kỷ qua, Ðức Phật, người sáng lập ra đạo Phật,
luôn được coi là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của
nhân loại" (Almanach - những nền văn minh thế giới, Nxb
Văn hóa-Thông tin, 1996, tr.1410).
- Bằng tuệ giác
siêu việt đạt được trong đêm thành đạo, Ðức Phật trải gót khắp
xứ Ấn Ðộ, đem hạt giác ngộ gieo khắp "đất tâm", muốn tất cả
chúng sanh đều được giác ngộ như chính Ngài. Và chẳng bao lâu,
hoa trái giác ngộ rộ nở khắp nơi, tạo thành vườn đạo lý hiện hữu
sinh động giữa cuộc đời và liên tục phát triển trên khắp năm
châu cho đến ngày nay.
-
B- Nội dung
-
I- Khái quát về Ðức Phật
- Sống giam
mình trong ngục thất vàng ngọc và bị ràng buộc bởi tình ái thê
nhi, Thái tử Siddhattha (Sĩ Ðạt Ta) vẫn không có được chút thảnh
thơi, an lạc. Cuộc sống luôn bị rình rập bởi già, bệnh, chết,
sầu, bi, khổ, ưu não; chàng quyết định từ bỏ vinh hoa phú quý,
làm vị Sa môn vô gia cư để tìm đường giải thoát, cứu mình và
nhân sinh.
- Gần một năm
theo học với hai đạo sĩ Alara Kalama (A-la-ra ka-la-ma), lãnh
đạo phái Samkhya (Số Luận) ở thành Vesali (Tỳ Xá Lỵ) và với
Uddaka Ramaputta (Uất Ðâu Lam Phất), lãnh tụ phái Yoga (Du Già)
tại kinh đô Rajagaha (Vương Xá), Sa môn Gotama đã quán triệt tất
cả những gì hai đạo sĩ đạt được, nhưng Ngài không thỏa mãn; vì
cho rằng chúng chưa phải là quả vị giác ngộ tối thượng. Ngài
quyết định từ bỏ hai đạo sĩ, sau đó cùng với năm đệ tử của
Uddaka là Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddya (Bạt Ðề), Vappa (Ðề
Bà), Mahanama (Ma Ha Nam)và Assaji (Ác Bệ) xuôi về Nam, đến
Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) lập cứ tu hành. Cuộc tìm kiếm chân lý
trên đường khổ hạnh kéo dài sáu năm, kết quả cũng chẳng có gì
ngoài những cảm giác đớn đau, kiệt sức, ngất xỉu... Ngài một lần
nữa, chối bỏ pháp tu (khổ hạnh) vô nghĩa và "tự mình thắp đuốc
lên mà đi".
- Sau 49 ngày
đêm tư duy thiền quán dưới cội cây Assatha, vào một đêm, khi sao
Mai vừa ló dạng, tuệ giác siêu việt bừng sáng nội tâm. Sa môn
Gotama chứng Vô thượng Chánh đẳng giác (Anuttara samana
samboddhi), được trời người cung kính với 10 tôn hiệu: Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế
Tôn.
- Nhận lời
thỉnh cầu của Phạm Thiên Sahampati (Tự Tại Thiên), Thế Tôn rời
cội boddhi (bồ đề), bắt đầu cuộc hành trình dài 45 năm, truyền
bá đạo giác ngộ.
- Hình ảnh một
Thái tử sống trong nhung lụa với vợ đẹp, con xinh, nhận thức
được sự thật cuộc đời, vượt thành xuất gia làm Sa môn khổ hạnh,
cuối cùng tự tu, tự chứng ngộ, nắm được quy luật vận hành của vũ
trụ - nhân sinh, đã trở thành thiên sử kỳ diệu vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử tôn giáo của nhân loại. Thiên sử ấy là bản
hùng ca, là khúc khải hoàn trác tuyệt vang vọng trong sự sống
suốt gần 3 thiên kỷ nay với những cung bậc đầy âm điệu, vừa nhân
thế, vừa siêu thế qua các điểm dưới đây.
-
II- Ý nghĩa thành đạo
- 1- Thế Tôn -
bậc Thánh khai sáng đạo Phật - là một người như bao nhiêu con
người, tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ ấy dạy lại cho
con người. Ngài không phải là Thượng đế, thiên sứ hay thần linh
ở một thế giới xa xăm nào xuất hiện giữa cuộc đời. Ðức Phật dạy,
nếu ai hiểu một cách chân chính về Ngài thì hãy hiểu rằng, Ngài
là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho
muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người (Trung Bộ I,
kinh số 4, tr.53). Chân lý được Thế Tôn chứng ngộ, do đó, cũng ở
ngay trong thế giới (hơn 5 tỷ người) này. Chân lý đó là những
quy luật vận hành của vũ trụ-nhân sinh (định lý Duyên khởi -
Paticcasamuppada). Nó tồn tại khách quan trong sự sống; Ðức Phật
dù xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, nó vẫn luôn vận hành như
vậy (Tương Ưng Bộ kinh II, chương I, phẩm 2,
tr.51). Ðịnh lý này thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch
tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu; chỉ có người trí mới
hiểu thấu (kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện số 2; kinh
Trường Bộ I, số 13, tr.486).
- 2- Với ý
nghĩa đó, Ðức Phật là người "thấy" được chân lý mà không phải
tạo dựng ra chân lý. Ngài cực lực phản đối những luận điệu cho
rằng Ngài là người sáng tạo ra một học thuyết. Tỳ kheo
Sunakkhatta là người mắc phải sai lầm nghiêm trọng này khi phát
biểu giáo lý của Ðức Phật được hình thành là do quá trình suy
tư, phán đoán, suy luận, mường tượng rồi sau đó kiểm nghiệm, phổ
biến và thuyết giảng. Và tất nhiên, Ðức Phật đã cải chính sự
hiểu biết sai lệch này (Trung Bộ I, kinh số 22, tr.161).
- 3- Sống trong
sự hưởng thụ dục lạc (khi còn ở hoàng cung) không có hạnh phúc
chân thật, nhưng ép xác khổ hạnh (lúc tu với năm anh em
Kondanna) cũng chẳng được an vui. Từ bỏ hai cực đoan này, thực
hành Bát thánh đạo (xem Phật học hàm thụ, bài 3), Thế Tôn
tìm được an lạc trên con đường này. Và đây cũng là Trung đạo đưa
đến sự chứng ngộ tối thượng (Trung Bộ I, kinh số 9,
tr.111; Tương Ưng IV, chương I, tr.518).
- 4- Từ bỏ hai
đạo sĩ thời danh và năm người bạn đồng tu để "tự mình thắp đuốc
lên mà đi", là bài pháp Thân giáo sinh động, thể hiện sự
tự tu, tự chứng ngộ của bậc Ðạo Sư, cho chúng ta đang tiến bước
trên lộ trình giải thoát giác ngộ. Ngài luôn dạy đừng giao phó
thân mạng, tư tưởng, lý tưởng, mục đích sống cho bất cứ ai, chủ
thuyết nào, ý hệ nào dù chúng đã trở thành truyền thống, tập
tục; vì chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp, tạo nên khổ đau hay
hạnh phúc. Từ kinh nghiệm tu chứng bản thân, Ðức Phật dạy các đệ
tử hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa
nơi chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm
ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ có nương tựa
một gì khác (Trường Bộ I, kinh số 15, tr.584; kinh
Tương Ưng III, chương I, phẩm 5, tr.83).
- 5- Mặt khác,
"tự mình thắp đuốc lên mà đi" cũng có nghĩa là tự mình khơi dậy
ngọn đèn trí tuệ, khơi dậy hạt giống Phật nằm tiềm ẩn bên trong
mỗi con người. Vì rằng, "tất cả chúng sinh đều có Phật tính"
(Nhứt thiết chúng sinh giai hữu Phật tính - kinh Pháp Hoa), tức
là ai cũng có khả năng thành Phật. Tiến trình đạt đến quả vị
Phật là tiến trình chiến đấu với tự thân, chiến đấu với vô minh
(àvijjà) và ái dục (tanhà). Ðức Phật tuyên bố: "Biển có thể cạn,
núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại, nhưng khổ đau không
bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái dục (Tương
Ưng III, chương I, phẩm 5, tr.267). Ngài đã đoạn trừ được vô
minh và ái dục, nên Ngài là bậc tối tôn ở đời; Ngài thân dù ở
trong muôn loài, tâm đã cao thượng trên tất cả muôn loài.
- 6- Một yếu tố
tối trọng ảnh hưởng đến việc thành đạo của Thế Tôn: Chánh tinh
tấn. Bốn mươi chín ngày đêm ròng rã tĩnh tọa dưới cội boddhi là
biểu hiện của sự kiên trì, tinh tấn. Nhờ tinh tấn mà Thế Tôn
chứng được đạo quả. Cảnh giới Niết bàn không có bóng dáng của kẻ
biếng lười, cánh cửa giải thoát cũng không hé mở cho người không
có sức mạnh tinh tấn.
- 7- Từ góc độ
lịch sử, sự kiện thành đạo của Thế Tôn là điểm son trong lịch sử
tôn giáo của nhân loại, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của
nhân bản, bình đẳng, vô ngã và từ bi (xem Phật
học hàm thụ, bài 1). Bậc thầy vĩ đại của nhân loại xuất hiện
từ đây, đạo Phật - đạo giải thoát vì hạnh phúc cho muôn loài -
cũng bắt đầu từ đây.
-
III- Thánh hạnh vĩ đại của Ðức Phật
- Với thánh
cách vô thượng và thánh hạnh vô song, Thế Tôn đã du hành qua
nhiều quốc gia, cảm hóa được nhiều thành phần trong xã hội. Từ
vua, quan, quý tộc, thức giả, tỷ phú đến giới thương gia, nông
gia, nô lệ, tướng cướp, kỹ nữ cho đến ngoại đạo, tất cả đều được
Ngài thâu nhận làm đệ tử tu hành thanh tịnh trong hội chúng của
Ngài. Sự tổng hợp đa thành phần trong xã hội hỗn tạp thành đoàn
thể hòa hợp thanh tịnh là điều kỳ diệu, nếu không phải Thế Tôn,
sẽ không thực hiện được điều này. Kết quả kỳ diệu này là do đức
chiêu cảm của bậc giác ngộ, nhưng phần lớn nhờ vào những lời dạy
nhiệm mầu cùng với những phương thức giáo hóa vi diệu của Thế
Tôn. Trong phần này, ta không lật lại những trang giáo lý, mà
chỉ tìm hiểu những thánh hạnh, thánh cách và một vài con đường
hoằng pháp của Ngài.
- 1- Sau khi
thành đạo, Thế Tôn nghĩ ngay đến việc giác ngộ cho hai vị đạo sĩ
Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Tuy không phải là hai vị thầy
tối thượng, hai vị này đã là những vị thầy đầu tiên hướng dẫn
Thế Tôn tu tập và Ngài đã đạt được những quả vị nhất định. Không
độ được vì họ đã qua đời, nhưng lòng tưởng nhớ của Thế Tôn vẫn
gợi lên trong ta tinh thần đại nghĩa của Ngài. Sau đó, Ngài nghĩ
ngay đến năm anh em Kondanna và khởi hành đến Benares (Ba La
Nại), cảm hóa họ thành những đệ tử đầu tiên. Ngài cũng không
quên cảm hóa những thân chủ năm xưa: Sujata (Su Dà Ta) - cô thôn
nữ cúng Ngài bát sữa, đánh dấu sự từ bỏ khổ hạnh vô nghĩa;
Svastika - cậu thiếu niên cúng 8 bó cỏ mịn để lót nơi ngồi thiền
mà sau đó Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng giác. Hình ảnh bậc Ðạo
Sư nhớ đến những vị thầy đã theo học lúc chưa thành đạo, những
người bạn đồng tu, những thân chủ năm xưa, cho ta một cái nhìn
đầy lạc quan, tin tưởng vào tình người của Ngài.
- 2- Tín - một
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực giữa con người với
con người. Ðức Phật, dù đối với vua chúa, quý tộc hay thứ dân,
đều trân trọng chữ tín. Vua Bimbisara (Tần bà Sa La), lúc Thế
Tôn chưa thành đạo, có đề nghị nếu tìm được đạo thì hãy nhớ hóa
độ vua; vì vua vừa muốn có bậc Ðạo sư nương tựa tinh thần, vừa
muốn giao hảo với Thế Tôn để cho xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà) có mối
quan hệ tốt với Kapilavatthu (Ca Tỳ la Vệ) . Ðồng thời, nếu Thế
Tôn trở thành bậc thầy vĩ đại thì Vua Bimbisara sẽ ảnh hưởng
được Ngài về mặt quần chúng. Ðức Thế Tôn thừa hiểu việc này, vẫn
giữ lời hứa năm nào, đến Magadha cảm hóa Vua Bimbisara, cuối
cùng vua đã trở thành vị đệ tử nhiệt thành.
- Một lần khác,
trong lúc đang ở Vesali, Ðức Phật nhận lời mời của kỹ nữ
Ambapàli (Liên Hoa Sắc), đến thọ thực tại nhà cô vào ngày hôm
sau. Cùng lúc ấy, nhóm quý tộc Licchavi cũng thỉnh Ngài thọ thực
tại nhà của họ, đúng vào ngày Ambapàli mời. Ðức Phật từ chối
trong sự thật rằng, Ngài đã nhận lời mời của Ambapàli trước rồi
nên phải giữ chữ tín (Trường Bộ I, kinh số 15, tr.579).
- Khi ở tuổi
80, sắp vào Niết bàn, Ðức Phật giảng bài pháp về 4 thần túc của
bậc giác ngộ, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Tôn giả A Nan nghe
nhưng không thỉnh Thế Tôn trụ thân ở đời một thời gian, trong
khi ác ma thỉnh Ngài nên sớm vào Niết bàn. Ðến khi Thế Tôn sắp
nhập diệt, A Nan khẩn nài Ngài trụ thêm một thời gian, Ngài đã
từ chối vì đã "hứa" với ác ma.
- 3- Không ít
người đã dùng lăng kính " nhân giới" để tìm chữ hiếu trong "Phật
giới" nên đã không tìm thấy, rồi vội kết luận Ðức Phật bỏ gia
đình, trốn cha mẹ xuất gia là bất hiếu. Cái hiếu của bậc hiền
trí không phải là "quạt nồng ấp lạnh" hay "sửa gối dâng trà", mà
là cảm hóa phụ mẫu về với chánh đạo. Muốn vậy, phải tu theo
chánh đạo và đạt được chánh đạo. Tinh thần hiếu của Ðức Phật là
cái đại hiếu của người đi phương xa để tìm "món thuốc" trường
sinh bất tử về để cứu cha mẹ, mà không chịu ở quanh cha mẹ để lo
bát cơm, tách nước. Do đó, ta thấy sau khi thành đạo và đã có
được một số đông đệ tử, Ðức Phật trở về quê hương Kapilavatthu
để hóa độ thân phụ và các thân tộc họ Thích (Sakya). Kinh còn
kể, Ðức Phật đã vận thần thông lên cõi trời Tusita (Ðao Lợi) để
giáo hóa thân mẫu Maya (Ma Da) chứng quả A La Hán.
- Như thế, rõ
ràng Ðức Phật là bậc đại hiếu. Lòng hiếu của Ngài thoát khỏi chữ
hiếu thường tình, không nhuốm màu ái dục. Ðó là tinh thần hiếu
đạo xuất thế của bậc giác ngộ.
-
IV- Một vài đặc tính hoằng pháp của
Ðức Phật
- Với trí tuệ
siêu phàm, Ðức Phật đã hóa độ vô số thành phần trong xã hội với
vô số phương thức khác nhau. Những phương thức này tùy vào bối
cảnh, đối tượng mà Ngài tùy cơ giáo hóa. Ngài không bao giờ đặt
ra những bài học hay công thức cho việc truyền pháp. Ở đây có
thể rút ra một vài phương thức được tìm thấy trong cuộc đời
hoằng pháp của Ngài.
- 1)- Tính
nhất quán: Nước trong bốn bể vô lượng, nhưng chỉ có một vị
duy nhất - vị mặn. Cũng vậy, giáo lý của Ðức Phật nhiều vô số,
nhưng chỉ có một vị duy nhất - vị giải thoát. Bốn mươi lăm năm
truyền đạo của Ngài là 45 năm khai mở đạo mạch giải thoát để
tưới nhuần cho muôn loài, giải thoát khỏi tham, sân, si; giải
thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não. Dưới cặp
mắt của bậc Ðại Giác, thế giới này là vô thường, cuộc sống này
là vui ít khổ nhiều, con người này là vô ngã. Ðây là ba dấu ấn
để thẩm định lời dạy của Ðức Phật. Một bản kinh, một bài kệ
thiếu những dấu ấn này được xem là không phải lời Phật thuyết.
Những ai chấp nhận rằng thế giới này là thường còn, cuộc sống
này là hạnh phúc, con người này là thật ngã, thì không bao giờ
đặt được chân lên bờ giải thoát. Cho nên, dù kinh điển có nhiều,
pháp môn tu có nhiều, nhưng chỉ có một mục đích duy nhất là đưa
ta đến sự giải thoát tối thượng.
- 2)- Tính
ảnh dụ thực tiễn: Có lẽ đây là phương thức phổ biến nhất
trên đường hoằng pháp của Ðức Phật. Hầu như các bộ kinh Ðức Phật
thuyết đều ít nhiều mang đặc tính này. Cho đến ngay cả các tên
kinh đều là biểu hiện của tính ảnh dụ, chẳng hạn như: kinh Ví dụ
tấm vải, kinh Mật hoàn, kinh Gò mối, kinh Ví dụ cái cưa, kinh Dụ
dấu chân voi, kinh Ví dụ lõi cây... Những bộ kinh này, Ngài đưa
ra những ảnh dụ thực tiễn, cụ thể để làm sáng tỏ lời dạy của
Ngài. Chẳng hạn như kinh Ví dụ con rắn số 22 trong Trung Bộ I,
Ngài dạy các dục ví như đầu rắn; người học giáo lý áp dụng cho
việc tu hành mà không nắm được những pháp môn căn bản, cũng như
bắt rắn mà không biết cách bắt sẽ bị rắn cắn.
- 3- Tính
bất biến - tùy duyên: Tính bất biến - tùy duyên dạy ta có
thể uyển chuyển trong mọi tình huống để làm việc đạo, nhưng
không đánh mất tính chất thật của mình. Nhờ phương thức này mà
giáo lý của Ðức Phật dễ dàng có mặt ở mọi nơi, mọi chốn, mọi
hoàn cảnh, đi đến đâu cũng dễ thích nghi, phù hợp với nơi đó.
Ðức Phật, với tinh thần này, rất linh hoạt trong mọi hoàn cảnh
để thực hiện việc truyền bá chánh pháp. Nhờ vào tinh thần này mà
Phật giáo mang nhiều màu, nhiều vẻ nhưng không đánh mất chất
Phật - bản thể của đạo. Phật giáo Việt Nam không giống Phật giáo
Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa không giống Phật giáo Thái Lan
(tùy duyên), nhưng tất cả các hình thức Phật giáo đều thể hiện
tinh thần từ bi, bình đẳng, giải thoát của Ðức Thích Ca (bất
biến).
- 4- Tính
khế lý - khế cơ: Ðây là một trong những yếu tố quan trọng mà
Ðức Phật thường ứng dụng trong việc hoằng pháp độ sinh. Tính khế
lý dạy ta phải nắm vững chân lý, quy luật vận hành của thế giới
nhân sinh. Tính khế cơ dạy ta phải biết áp dụng chân lý sống
đúng thời, đúng lúc, đúng đối tượng; đặc biệt hiểu được căn cơ,
trình độ và tư tưởng của đối tượng để theo đó sử dụng những "khế
cơ" thích hợp áp dụng cho đối tượng. Tính khế lý - khế cơ khi
mới khảo sát, nó gần giống với tính bất biến - tùy duyên, nhưng
nghiên cứu kỹ thì hai phương thức này khác nhau. Tính tùy duyên
- bất biến dùng để áp dụng cho bối cảnh không gian - thời gian;
trong khi đó, tính khế lý - khế cơ dùng ứng dụng cho đối tượng
là con người. Cùng là giáo lý vô thường (bất biến), nhưng có lúc
Ðức Phật xem nó như một dòng chảy, có khi Ngài nhìn nó như sự
bốc cháy (tùy duyên). Vô thường là chân lý tồn tại khách quan
trong cuộc sống (khế lý). Ðức Phật xét thấy căn cơ, trình độ của
ba anh em ông Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa ca Diếp) - những
Bà La Môn thờ lửa - có thể thích hợp với giáo lý này, Ngài đã
thuyết giảng cho họ một bài pháp rất vô thường, rất tâm lý (khế
cơ): tất cả đều đang bốc cháy, đang thiêu hủy. Sau bài pháp này,
ba anh em Kassapa và 1.000 đệ tử của họ đều quy y Phật. Như vậy,
áp dụng tính khế lý - khế cơ đòi hỏi hành giả phải có tuệ nhãn
sâu sắc hơn để tùy đối tượng trí, ngu mà ứng dụng giáo lý cao
thấp để hóa độ.
-
C- Kết luận
- Ðức Phật, một
con người hùng vĩ xuất hiện trong thế giới thường nhân, với trí
tuệ siêu xuất thể hiện qua ngôn ngữ, văn tự thường tình đã gây
âm vang chấn động trong lịch sử tôn giáo và triết học.
- Gần ba thiên
niên kỷ trôi qua, tiến trình phát triển của con người đã bao lần
thay da đổi thịt, vô số bài diễn văn được chép vào trang đại sử;
trong đó, cuộc đời hoằng pháp của Ðức Phật là bức thông điệp
muôn thuở cho con người khảo nghiệm, nghiên cứu, thực hành. Ðức
Phật chỉ là một con người, nhưng là con người kết tinh của vô
vàn tinh hoa tuyệt mỹ của nhân loại. Vì thế, đứng ở góc độ nào,
người ta vẫn thấy được hiện thân của Ngài. Ðó là hiện thân của
chân lý, của trí tuệ và từ bi. Thật vậy, không phải thấy được
xác thân bốn đại của hơn 2.000 năm trước mới gọi là thấy Phật.
Ngài dạy, những ai thấy được lý Duyên khởi - luật vận hành của
nhân sinh-vũ trụ, người ấy thấy được pháp; những ai thấy được
pháp, người ấy thấy được Như Lai (Trung Bộ I, kinh số
28).
- Vâng, tất cả
nhân loại đang tìm về chân lý, hướng về chân lý, đang mơ ước
được diện kiến Như Lai./.
-
* Chú thích:
- (1)
Assatha: Tên khoa học là Ficus religiosa; sau khi
Ngài thành đạo, người ta gọi nó là cây boddhi - bồ đề.
--o0o--
|
|