-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần II
- Bài 1
- Bốn Chân Lý
(Tứ Diệu Ðế)
- Thích Viên
Giác
-
A- Dẫn nhập
- Một hôm, Ðức
Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt một ít
lá simsàpa đưa lên hỏi: "Này các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào?
Lá simsàpa ở trong tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa
nhiều?".
- "Bạch Ðức Thế
Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, còn lá trong rừng simsàpa thì
quá nhiều". Phật dạy: "Cũng vậy, này các Tỳ kheo, điều ta biết
thì quá nhiều, nhưng những gì ta dạy cho các ông thì rất ít;
nhưng đó là những gì cần thiết và căn bản cho sự giải thoát.
Những gì ta đã dạy cho các ông? Chính là "Ðây là Khổ", "Ðây là
Khổ tập", "Ðây là Khổ diệt", "Ðây là con đường đưa đến Khổ diệt"
(Tương Ưng V).
- Giáo lý Tứ đế
là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Ðức Phật
thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều
Trần Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài
thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành
trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở
rộng. Ðức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng và siêu việt
của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh đẳng giác
ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị
Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế"
(Tương Ưng V).
- Mục đích của
đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được
thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý
Tứ điệu đế được coi là thiện pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất
nhận định: "Ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị
nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này lớn nhất trong tất cả
dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập
trung trong Tứ thánh đế" (Trung Bộ kinh I). Ðức Phật cũng
dạy: "Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng không cần xây dựng
tầng dưới của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự
kiện này không thể xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói rằng không
cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này
không thể xảy ra" (Tương Ưng V).
- Cho đến lúc
sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài
nhắc lại giáo lý Tứ đế: "Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý,
các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc,
không nên giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp" (kinh Di
Giáo, Trí Quang dịch).
- Như vậy, tầm
quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi chính Ðức
Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm,
giáo lý Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên
thủy hay Ðại thừa, đều xiển dương và hành trì.
-
B- Nội dung
-
I- Ðịnh nghĩa
- nhiệm; Satya
là Ðế, là sự thật, là chân lý. Tứ diệu đế còn được gọi là Tứ
chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.
- 1- Khổ đế
(Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
- 2- Tập đế
(Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng
đau khổ.
- 3- Diệt đế
(Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
- 4- Ðạo đế
(Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm
dứt khổ đau.
- Giáo lý Tứ
diệu đế được nói đến trong các kinh: Ðế phân biệt tâm kinh
(Trung Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh
Chuyển pháp luân (Tương Ưng & Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh
tạng Pàli cũng như Hán tạng.
-
II- Nội dung Tứ diệu đế
- 1)-
Khổ đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm
nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai
phủ nhận điều ấy. Con người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau,
tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất của khổ đau
nên không tìm được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, càng
tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.
- Khổ đế là một
chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Ðức Phật dạy: "Này các
Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm
lại, chấp thủ năm uẩn là khổ" (Tương Ưng V). Như vậy, Khổ
có thể chia làm 3 phương diện như sau:
- a)- Về
phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc,
đau đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt
cát vào trong mắt khó chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của
thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử nói: "Ngô
hữu đại hoạn do ngô hữu thân" (Có thân nên có khổ). Con người
sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ
vô cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác
đem đến khổ thọ lớn lao.
- b)- Về
phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do không toại ý, không vừa
lòng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về tâm lý.
Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người
mình thương muốn gần mà không được, người mình ghét mà cứ gặp gỡ
hoài, mình muốn tiền tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua
ngoài tầm tay của mình. Cuộc đời như muốn trêu ngươi, những ước
mơ không toại ý, lòng mình luôn trống trải, bức bách v.v... Ðây
là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
- c)- Khổ là
sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ thứ ba này
bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: "Chấp thủ năm
uẩn là khổ".
- Năm uẩn là 5
yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân
thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm tưởng, hành và
thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi
ta bám víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã
của ta, thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm về "thân thể tôi", "tình
cảm tôi", "tư tưởng tôi", "tâm tư tôi", "nhận thức của tôi"...
hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát
sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng đều
gắn liền với ý niệm về "cái tôi" ấy.
- Tóm lại, cái
khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ
đau là do sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.
- 2)- Tập đế
(Samudaya): Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành
năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của
các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng,
ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau (Ðạo đế).
- Cuộc đời là
khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm
lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có
nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng
nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có cái phát sinh từ vật
chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm
thức.
- Nguyên nhân
của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái
mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát
về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy không
bao giờ thỏa mãn.
- Nguyên nhân
sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy
rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh
khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái
bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm
tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ
mới lầm tưởng rằng "cái tôi" là quan trọng nhất, là cái có thực
cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó. Nói cách
khác, do vô minh mà có chấp thủ "cái tôi" và "cái của tôi" như
thân tôi, tình cảm tôi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài
sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có
những nỗi thống khổ của cuộc đời.
- Tóm lại,
chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do
lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm
thì khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người
đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã
và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị
trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
- 3)- Diệt
đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự
chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và
sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế
đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
- Ðạo Phật xác
nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định có
một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu
tập để đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức
độ khác nhau.
- a)- Hạnh
phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái,
chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm
của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề
trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Ðó là một hình thức của hạnh
phúc. Kinh Trung Bộ có một ví dụ: Có một người con trai đang yêu
một cô gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp cô gái nói chuyện, cười đùa
với một chàng trai khác. Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy
bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian
sau, người con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy nữa; lần
này, anh ta gặp cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những
chàng trai khác, nhưng hình ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau
đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền
muộn, lo lắng, sợ hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt
hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác
hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái độ
ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm
tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn,
không còn bị áp lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở
ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.
- Tóm lại, tùy
vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ nào
thì đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
- Nếu bạn phát
triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định
thì bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Ðức Phật dạy: "Có người có
thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả
trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần,
dù chỉ trong một phút". Những tâm lý được coi là bệnh của tinh
thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái: tham
lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi
và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn
che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh
tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái
hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.
- b)- Hạnh
phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát
triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế,
thâm sâu, bạn có thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết
bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là sự thanh tịnh, là
hạnh phúc tuyệt đối. Ðức Phật dạy: "Vô bệnh lợi tối thắng, Niết
bàn lạc tối thắng" (K.Magandiya, TBK II).
- Niết bàn còn
được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vô
sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân
như, thực tướng, pháp thân... Niết bàn không phải là đối tượng
của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ. Ðây là trạng thái an lạc,
hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
- Chúng ta
thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao
cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác;
đó là một sai lầm lớn. Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đãi
về thời gian, không gian, có, không, lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết
bàn không phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu
việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói cách
khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn tham, sân,
si. Một vị Thiền sư nói: "Hãy nhìn những rặng núi, những con
suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết
nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi
phối bởi tham sân si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó !
Niết bàn không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian,
một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm đến. Niết bàn chính là
ở đây". Ðức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt Niết bàn ngay
trong đời sống này. Ðiều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm
tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là không còn tạo
nghiệp và không còn tái sinh.
- 4)- Ðạo đế
(Magga): Ðạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt
được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc
tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Ðức Phật đã dạy
đều là Ðạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi
là 37 phẩm trợ đạo. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, đây là những
pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi,
thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường
tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài người. Ðó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc,
Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần" (kinh
Ðại Bát Niết Bàn).
- Trong 37 pháp
thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Ðạo
đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh đạo - con đường chân
chính - có 8 chi phần:
- 1)- Chánh
kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận
thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là
ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngã,
duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân của khổ,
sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
- 2)- Chánh
tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để
đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục,
tức tối giận hờn, bạo động hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng
về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát, về
thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục,
trầm tĩnh.
- 3)- Chánh
ngữ (Sammà Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói
những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những
lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu
và lợi ích.
- 4)- Chánh
nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có
hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự
thương yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.
- 5)- Chánh
mạng (Sammà Ajivà): Ðời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện
mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi
pháp, độc ác, gian xảo.
- 6)- Chánh tinh tấn (Sammà
Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác,
nỗ lực thực hành điều thiện.
- 7)- Chánh
niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ
các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt
mình đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên
thiện pháp.
- 8)- Chánh
định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là
đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm
thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.
- Mối quan hệ
giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần
này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh
đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Ðịnh và Tuệ. Giới là Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Ðịnh là Chánh tinh tấn, Chánh
niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát
chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát, Ðức Phật dạy: "Này
Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát thánh đạo thì ở đấy
không có Tứ quả Sa môn" (kinh Ðại Bát Niết bàn, TB I).
Ðức Phật dạy thêm: "Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát
chánh đạo) thì cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán".
- Con đường tu
tập của Ðạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả Phật
tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống
này.
-
III- Tu tập Bốn chân lý
- Giáo lý đạo
Phật không phải là một học thuyết, mà là một công trình tu tập,
có thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu
sống trong mỗi con người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết
khát. Ðó là chỗ khó khăn của người Phật tử, không thể nhờ cậy
vào ai tu giúp cho mình, hoặc ai ban cho mình được giải thoát,
hết khổ.
- Trong kinh
đưa ra 3 giai đoạn nhận thức và hành trì đối với Bốn chân lý,
thuật ngữ gọi là Tam chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng
chuyển.
- 1)- Ðối
với Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ.
Thấy được khổ là bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thì
sẽ không có hành động diệt khổ. Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào
bản chất cái khổ, khởi lên ước muốn đoạn trừ khổ. Chứng chuyển
cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.
- 2)- Ðối
với Tập đế: Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa đến đau
khổ. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ các nguyên nhân
ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ chúng.
- 3)- Ðối
với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự vắng mặt của
đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy điều ấy.
Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được
niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống. Chứng chuyển là đạt
được, hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.
- 4)- Ðối
với Ðạo đế: Thị chuyển là nhìn thấy con đường, thấy được
phương pháp diệt khổ, thấy rõ rằng đây là con đường đưa đến giải
thoát; nói cách khác, thấy được lối thoát ! Khuyến chuyển là
khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi hành trên lộ trình
ấy. Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách trọn vẹn.
- Tóm lại, đối
với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng. Từ nhận
thức thông suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và cuối cùng đạt
được mục đích. Chúng ta phải thấy rõ diễn biến của hành vi, ngôn
ngữ và tư duy của chính mình, cái nào có đau khổ, gây ra đau
khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để
hưởng được niềm an bình hạnh phúc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau
khổ đều xuất phát từ nơi thân tâm của chúng ta.
-
C- Kết luận
- Con người đau
khổ không phải vì thiếu thốn vật chất, tiền của, danh vọng, mà
chính là vì vô minh. Sự mê muội làm cho con người chưa nhận thức
đúng đắn bản chất của cuộc đời. Ðạo Phật chỉ dẫn cho con người
một hướng đi, một lối thoát, cung cấp phương tiện để cho con
người khai mở kho tàng trí tuệ của chính mình. Ðịnh nghĩa về vô
minh, Ðức Phật dạy: "Chính là không biết rõ khổ, nguyên nhân của
khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến diệt khổ, này các Tỳ kheo,
đấy gọi là vô minh" (Tương Ưng V). Và ngược lại là minh,
là trí tuệ. Dưới cái nhìn của trí tuệ, mối quan hệ duyên sinh
của Bốn chân lý hiển lộ rõ ràng, thấy được một chân lý là thấy
được toàn bộ chân lý. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, ai thấy
khổ, người ấy cũng thấy nguyên nhân của khổ, thấy khổ diệt, thấy
con đường đưa đến khổ diệt. Ai thấy được nguyên nhân của khổ,
cũng thấy được khổ, thấy được khổ diệt và con đường đưa đến diệt
khổ. Ai thấy được khổ diệt, cũng thấy được khổ, nguyên nhân của
khổ, con đường đưa đến khổ diệt. Ai thấy được con dường đưa đến
khổ diệt, thì cũng thấy được khổ, nguyên nhân của khổ và sự diệt
khổ" (Tương Ưng V). Nhận thức đúng như thế là Chánh kiến,
nó đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tu tập Bốn chân
lý; nói cách khác, Chánh kiến đi hàng đầu trong mọi pháp môn.
Nhận thức sáng tỏ ấy còn gọi là Kiến đạo.
- Giáo lý Bốn
chân lý vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn
chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức sống cho con
người, xã hội đương thời và vẫn thiết thực lợi ích cho con người
và xã hội hiện đại.
- Ðặc tính của
giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực
đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý Tứ diệu đế
bao hàm tất cả các giáo pháp mà Ðức Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu
đế có thể thực hành cho người xuất gia cũng như tại gia, ai cũng
tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải thoát, đáp ứng
được nhu cầu thoát khổ cho cá nhân và chuyển hóa xã hội./.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Tứ diệu đế là gì?
- 2)- Hãy trình bày mối
quan hệ giữa giáo lý Tứ diệu đế và Bát chánh đạo.
- 3)- Tại sao Khổ (Dukkha)
được xem là một chân lý (thánh đế)?
|
--o0o--
|
|