-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần II
- Bài 6
- Tam Vô Lậu
Học (Giới-Ðịnh-Tuệ)
- Thích Từ Hòa
& Thích Phước Lượng
-
A- Dẫn nhập
- Tam vô lậu
học là môn học thù thắng gồm có Giới-Ðịnh-Tuệ. Ba môn học này
chỉ có trong giáo pháp của Ðức Phật.
- Trong ý nghĩa
chiết tự: lậu có nghĩa là phiền não. Do vậy, Tam vô lậu học có ý
nghĩa là ba môn học giúp hành giả vượt khỏi sự trói buộc của mọi
phiền não, hoàn toàn tự tại. Lậu cũng có nghĩa là rơi rớt, nên
Tam vô lậu học là phương tiện giúp hành giả không còn rơi rớt
trong ba cõi, tâm không còn bị ràng buộc bởi mọi lậu hoặc.
- Như vậy, Tam
vô lậu học là ba môn học đoạn trừ phiền não, chứng nhập quả vị
giải thoát hoàn toàn, không còn nằm trong sự kiềm tỏa của tam
giới và không dừng lại ở phước báo sanh thiên.
-
B- Nội dung
-
I- Giới vô lậu học
- 1)- Ðịnh
nghĩa: Giới có những ý nghĩa như sau:
- - Giới (Sila)
tức là "phòng phi chỉ ác", nghĩa là đề phòng điều trái quấy,
dừng chỉ mọi điều ác, cũng có nghĩa là "chỉ ác tác thiện" tức là
ngưng làm điều ác, làm mọi điều thiện, trên đây là chỉ về ý
nghĩa tổng quát của giới.
- - Giới có
nghĩa là điều phục, chế ngự, tức Tỳ nại da (Vinaya). Chế ngự ở
đây với những ý nghĩa chế ngự bằng sự tỉnh giác, chế ngự bằng
tri kiến, chế ngự bằng kham nhẫn, chế ngự bằng tinh tấn... mục
đích để đạt sự thanh tịnh ba nghiệp.
- - Giới luật
cũng có nghĩa là Biệt giải thoát (Pratimoksa-s), cũng gọi là xứ
xứ giải thoát hay tùy thuận giải thoát. Biệt giải thoát tức là
giữ giới phần nào thì được giải thoát phần đó. Giữ giới nhiều
thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Còn tùy
thuận giải thoát là tùy hành giả trì giới cách nào thì hiệu quả
theo đó mà thành tựu thuộc về hữu vi hay vô vi. Pratimoksa-(s)
cũng có nghĩa là trói buộc, giữ gìn, thúc liễm những hành động
của thân và khẩu không để tạo ác nghiệp.
- Giới luật
cũng đồng ý nghĩa luân lý đạo đức, cách cư xử, nếp sống hướng
thượng...
- 2)- Mục
đích hình thành giới bổn (Pratimoksa; Patimokkha): Trong
Tăng Chi Bộ kinh, 3B - trang 73, Ðức Phật dạy 10 mục đích hình
thành giới bổn như sau:
- 1. Ðể Tăng chúng được cực thịnh
2. Ðể Tăng chúng được an ổn
3. Ðể chặn đứng các người khó điều phục
4. Ðể các vị Tỳ kheo tốt được sống an ổn
5. Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại
6. Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai
7. Ðể đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những người
chưa tin
8. Ðể làm tăng trưởng niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những
ai đã có lòng tin
9. Ðể cho chánh pháp được tồn tại
10. Ðể cho giới luật được chấp nhận
- Với những
điều kiện trên, chúng ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng
là để ngăn ngừa điều ác, làm và tăng trưởng điều thiện. Như Luật
tạng nói: "Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không
hối hận là để được hân hoan, hân hoan là để được hỷ, hỷ là để
được khinh an, khinh an là để được lạc, lạc để được định, định
để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly
tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát để có giải thoát
tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn".
- 3)- Phân
loại giới:
- a)- Giới
theo quan điểm Ðại thừa (Mahayana) gồm ba loại:
- * Nhiếp luật
nghi giới: Là giới có những giới điều cụ thể để thực hành theo
các thứ bậc tu hành, gồm có các giới của tại gia và xuất gia. Ðó
là Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện giới cho hàng Phật
tử tại gia. Sa di và Sa di ni có 10 giới, Thức xoa ma na ni thêm
6 học giới, Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới, Bồ Tát (tại
gia và xuất gia) có 10 giới trọng và 48 giới khinh.
- * Nhiếp thiện
pháp giới: Có nghĩa là người thực hành chuyên tâm thực hành
những hành vi toàn thiện, coi đó cũng là một hình thức thực hành
giới.
- * Nhiêu ích
hữu tình giới: Nghĩa là lấy tiêu chí hành động vì mục đích lợi
lạc tha nhân và quần sanh làm giới hạnh.
- b)- Giới
thế gian và xuất thế gian:
- * Giới thế
gian: Là giới luật đưa đến quả báo hữu lậu, tức chưa ra khỏi tam
giới. Nghĩa là người thực hành giới này chỉ hưởng phước nhân
thiên, vẫn còn luân hồi trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc
giới. Ví dụ: 5 giới thuộc về nhân thừa, hay các dạng giới cấm
thủ của ngoại đạo.
- * Giới xuất
thế gian: Là giới đưa hành giả đến quả vị vô lậu, tức được tự
tại giải thoát khỏi tam giới, không còn bị rơi rớt trong sanh
tử. Ví dụ người thực hành giới Tỳ kheo tinh chuyên và viên mãn,
đó là nhân. Sẽ được hưởng quả vị A La Hán (vô sanh), đó là quả.
Thực hành giới vô lậu sẽ được hưởng quả vô lậu. Ðây mới chính là
Giới vô lậu học.
- c)- Giới
theo ba bậc: Hạ, Trung và Thượng:
- * Giới bậc
Hạ: Là giới thọ trì do mưu cầu danh lợi, vì động lực tham ái, do
vậy còn tái sinh.
- * Giới bậc
Trung: Giới thọ trì vì còn ham quả báo được công đức, tức còn
chấp tướng, chấp phước, hay giữ giới để có lợi lạc giải thoát
riêng mình, gọi là giới bậc Trung.
- * Giới bậc
Thượng: Là thực hành giới vì kỉnh giới, tin giới, vì mục đích
lợi tha, không chấp ngã nhân vì cầu với ý nghĩa Ba la mật, là
giới bậc Thượng.
- 4)- Tính
chất - nền tảng của giới - lợi ích của sự giữ giới:
- a)- Tính
chất: Giới bổn được đặt trên căn bản để giữ thân tâm được
thanh tịnh, dần dần triệt tiêu những phiền não, tham, sân, si.
Giới trong Phật pháp mang đậm tính nhân văn, nhân bản, đó là
tinh thần linh động trong sự phân biệt từng loại: khinh, trọng,
tánh tướng, hay trong mỗi trường hợp mà có cách ứng xử trì giới
phù hợp: khai, giá, trì, phạm. Vậy nên giới học trong Phật pháp
không mang tính giáo điều (dognia) cứng nhắc và cực đoan bế tắc
như một số tôn giáo khác. Tinh thần này phù hợp với quan điểm
"tự tại vô ngại" và "tùy duyên bất biến" hay "Phật pháp bất định
pháp" của Phật giáo.
- b)- Nền
tảng: Giới được đặt trên nền tảng tự lợi và lợi tha, tự
thanh tịnh bản thân, cũng là để thanh tịnh quần thể sống, thanh
tịnh quốc độ. Nếu bạn trì giới đúng nghĩa thì cũng có nghĩa góp
phần thánh hóa nếp sống của mọi người.
- c)- Lợi
ích của sự giữ giới: "Giới luật chính là bậc thang đầu của
đạo quả giác ngộ, là nền tảng của thiền định, trí tuệ, là ngọc
anh lạc để trang nghiêm pháp thân, là thuyền bè để đưa người qua
bể khổ sanh tử, là kho tàng vô lượng công đức" (HT Thích Thiện
Siêu).
- Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tối tăm
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp -- (Kinh Phạm Võng - Bồ Tát giới)
- Người có giới đức sẽ hưởng được 5
sự lợi ích như sau:
- 1. Người trì giới sẽ thừa hưởng
gia tài pháp bảo nhờ có tinh cần
2. Ðược tiếng tốt đồn xa
3. Không sợ hãi rụt rè khi đến trước hội chúng đông đảo
4. Khi chết, tâm không rối loạn
5. Sau khi mệnh chung được sanh vào thiện thú, thiên giới --
(Trung Bộ II)
- Tuy nhiên,
trong kinh Hạt muối (Tăng Chi Bộ kinh I) và kinh Ðại nghiệp phân
biệt (Trung Bộ III), Ðức Phật đã nêu rõ sự trì giới và phạm giới
với những hậu quả còn tùy thuộc vào tâm ý hay những tác nghiệp
(ác hay thiện) đã gây tạo ra trước đó.
-
II- Ðịnh vô lậu học
- 1)- Ðịnh
nghĩa: Ðịnh (Samàdhi-p) cũng dịch là Tam ma đề, hay chỉ, là
chỉ cho trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một đề mục,
một đối tượng, một biểu thức nhất định ngõ hầu để tâm không bị
xao động, nhiễu loạn, phân tán do những tác động chủ quan và
khách quan.
- 2)- Phân
loại:
- a)- Ðịnh
cận hành và định an chỉ
- - Ðịnh cận
hành: Là định có được do hành giả sử dụng các pháp quán sát và
tưởng tư những đề mục: sáu tưởng niệm, quán xác chết, quán sự an
ổn, quán Tứ niệm xứ, quán sự hình thành và phân tán của tứ đại.
- - Ðịnh an
chỉ: Là sự nhất tâm đạt được liền sau định cận hành, do quán
tưởng mà tâm ý được lắng đọng, dừng nghỉ mọi vọng thức.
- b)- Ðịnh
thế gian và định xuất thế gian
- - Ðịnh thế
gian: Là sự nhất tâm có chiều hướng thiện nhưng không có được
tác dụng liễu thoát sanh tử, xuất ly tam giới, nghĩa là hành giả
còn bế tắc trong lục đạo. Ví dụ sự chuyên chú của những nhà khoa
họạc vào một mục tiêu thí nghiệm, đưa đến sự nhất tâm, tâm ý
không bị chi phối bởi những ngoại duyên, nhưng đó là định phát
sinh có giới hạn, tự phát và không có chí hướng. Người ta còn
gọi đó là một thứ "phàm phu thiền".
- Hay như hình
thức tu định của một số ngoại đạo hạn chế ở mức độ cầu phước báo
sanh thiên, vì theo quan niệm của họ, Phạm Thiên (Brahma) hay
Thượng đế là đấng chí thượng. Người ta còn gọi đây là "ngoại đạo
thiền".
- - Ðịnh xuất
thế gian: Là định thuộc về Thánh đạo, người đạt được định này
tức đã thoát khỏi sự kiềm tỏa của tam giới (Dục giới, Sắc giới
và Vô sắc giới), được giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử. Ðịnh
xuất thế gian câu hữu đi những quả vị vô sanh (A La Hán), Duyên
Giác (Bích Chi Phật)... Ðây mới chính là Ðịnh vô lậu học.
- Theo quan
điểm Ðại thừa, định xuất thế gian còn được phân loại như sau:
- - Tiểu thừa
thiền: Chỉ cho phương tiện tu định đưa đến kết quả Thanh Văn (A
La Hán) do tu 16 pháp quán, và Duyên Giác do tu pháp quán nhân
duyên. Ðây là pháp tu cho người có chí cầu giải thoát, tâm thích
trầm lặng yên tĩnh, tránh cảnh duyên... thường thực hành các
pháp Ngũ đình tâm quán, Tứ niệm xứ, Thập nhị nhân duyên... để
phá trừ kiến chấp, ngã chấp, cũng gọi là thiền đối trị. Quả vị
pháp tu này là các bậc Thánh: Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A
La Hán, Bích Chi Phật an trú trong cảnh Niết bàn tịch tịnh.
- - Ðại thừa
thiền: Thiền định câu hữu với 51 bậc của Bồ Tát do tu quán nhị
không (ngã không và pháp không). Trong Bát Nhã Tâm kinh có đoạn:
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách... Tam thế chư
Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ
đề".
- Pháp tu này để cho những người
có căn cơ cao, thích hoạt động, có lòng từ bi thương xót chúng
sanh, thường lăn lộn trong cảnh đời, chung sống trong xã hội mà
tâm hồn luôn luôn an định: "cư trần bất nhiễm trần", có hạnh
nguyện của Bồ Tát.
- Pháp tu thiền
định Ðại thừa là dùng trí Bát nhã quán chiếu các pháp ngũ uẩn
giai không (ngã, nhân, chúng sanh, thọ mệnh), dứt được vô minh
hoặc chướng và trần sa hoặc chướng, phổ độ chúng sanh đồng thành
Phật đạo.
- Phương pháp
tu thiền định này là y cứ vào kinh Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên
Giác, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... mà quán Tứ cú kệ, Nhất tâm tam
quán, Lục độ, Thập độ..., không chấp nhị biên, không thiên vô
hữu.
- Hành thiền
pháp Ðại thừa là định trong cảnh động, lấy cảnh trần lao để làm
môi trường tu hành và hóa độ chúng sanh. Chỗ giải thoát của hàng
Ðại thừa thiền là Vô trụ xứ Niết bàn, lên đến Thập địa Bồ Tát
thì phá được một phần vô minh, chứng được một phần pháp thân,
cho đến khi viên mãn thành bậc Diệu giác tức là Phật.
- - Tối thượng
thừa thiền: Là pháp thiền định dành cho các bậc thượng căn,
thượng trí, khỏi dùng phương tiện, giáo ngoại biệt truyền, không
dùng văn tự dài dòng mà là "trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành
Phật" (chỉ thẳng nơi tâm người, kiến tánh thành Phật).
- Người đại trí
không cần giảng dạy nhiều, chỉ cần nói qua một câu, một bài kệ
hay một cử chỉ, hành động là khai thị được tánh giác của họ, làm
tỏ ngộ tức khắc bao nhiêu nghiệp hoặc, phiền não chấp trước lâu
đời. Nay chỉ trong một sát na là tiêu tan hết, tâm quang sáng
suốt, định tánh hiển bày, cũng như khi mây tan gió tạnh thì mặt
trời chiếu sáng giữa hư không.
-
III.- Tuệ vô lậu học
- 1)- Ðịnh
nghĩa: Tuệ vô lậu học là môn học làm phát sinh trí tuệ vô
lậu. Tuệ là nói gọn của hai từ trí và tuệ.
- Theo Từ điển
Phật học (Phân viện Nghiên cứu PH - Hà Nội) định nghĩa: Trí là
đối với đạo lý hết thảy sự vật có khả năng đoán định phải trái,
chánh tà... mà chọn lấy hay từ bỏ mặt này hay mặt khác thì gọi
là trí. Quán lý Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên đều là trí. Tuệ là
cái tác dụng phân biệt sự lý, quyết đoán nghi ngờ, thông đạt sự
lý... Thông đạt sự tướng hữu vi thì gọi là trí. Thông đạt không
tướng vô vi thì gọi là tuệ. Hay định nghĩa chung về trí tuệ là:
quyết đoán là trí, tuyển chọn là tuệ. Biết rõ Tục đế là trí,
biết rõ Chân đế là tuệ.
- Theo Ðại
cương câu xá luận (HT Thích Thiện Siêu) xác định: "Ðặc sắc của
trí là tính quyết định, đặc sắc của tuệ là tính phân biệt rõ
ràng sự lý các pháp". Như vậy, tuy có những nhận định khác nhau
về trí và tuệ, nhưng ta nhận thấy rằng có một sự đồng nhất về
mặt ý nghĩa. Trí có tác dụng của tuệ, tuệ bao hàm tác dụng của
trí. Do vậy, gộp chung trí và tuệ lại mà gọi chung là trí tuệ.
Nhưng có một quan điểm chung nhất đó là: Thông đạt sự tướng hữu
vi, hay chỉ biết rõ Tục đế gọi là trí. Thông đạt không tướng vô
vi hay biết rõ Chân đế gọi là Tuệ. Và đây chính là Tuệ vô lậu
(Anàsravam).
- Theo định
nghĩa của ngài Buddhaghosa thì: "Trí tuệ có đặc tính thấu nhập
vào các pháp. Trí tuệ có phận sự phá tan bóng tối của ảo tưởng
bao phủ tự tính của các pháp - biểu hiện của nó là không bị mê
mờ bởi vì thiền định là nguyên nhân trực tiếp của nó" (Tinh hoa
và sự phát triển của đạo Phật, dịch giả Chơn Pháp - Nguyễn Hữu
Hiệu - Tu thư ÐH Vạn Hạnh, Saigon, 1970). Như vậy, dù nhìn góc
độ nào đi nữa thì trí tuệ (vô lậu) vẫn là chất liệu tinh anh cao
tột nhất để quyết đoán và chọn lựa đối với mọi sự, mọi vật.
-
2)- Nội dung của tuệ học: Nội dung của tuệ học
chính là toàn bộ giáo lý mà Ðức Phật đã thuyết giảng trong 45
năm, được tập trung trong giáo lý Tứ đế và lý Duyên khởi. Nó bao
gồm đủ cả giới học và định học. Do vậy, đối tượng của tuệ học là
giới học và định học, hay giáo lý Tứ đế và Nhân duyên sinh.
- Trong phẩm
Chuyển pháp luân thứ 2 của kinh Tương Ưng V, nội dung của Tuệ
học là sự thấu rõ tường tận về 4 chân lý bao gồm:
- - Thế nào là khổ
- Nguồn gốc của khổ
- Sự diệt tận các khổ
- Các phương pháp để diệt tận khổ
- Cốt lõi thứ
hai nội dung của Tuệ học chính là sự hiểu rõ về giáo lý Nhân
duyên hay Duyên khởi. Trong kinh Phật Tự Thuyết thuộc kinh Tiểu
Bộ số 1, nội dung của giáo lý Duyên khởi là: "Do cái này có mặt,
cái kia có mặt. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt.
Do cái này sinh, cái kia sinh. Do cái này diệt, cái kia diệt".
Như vậy, hiểu rõ hay có trí tuệ về lý Duyên khởi chính là trực
nhận rằng các pháp hiện hữu trên thế gian này đều do nhiều yếu
tố, nhờ nhiều nhân duyên mà có mặt và cũng do nhân duyên mà đoạn
diệt. Hiểu rằng vì bản chất của các pháp là như vậy, cho nên các
pháp là vô thường, là vô ngã, nằm ngoài sự sáng tạo của đấng
"tối cao".
- Từ hai nội
dung cốt lõi trên, chúng ta có thể kết luận: trí tuệ vô lậu khác
hẳn trí tuệ hay trí thức thế gian. Trí tuệ thế gian là nhờ sự
học tập hay kinh nghiệm cuộc sống mà có được. Còn trí tuệ vô lậu
là thành quả có được nhờ vào công năng tu tập và thể nghiệm bản
thân. Trí tuệ thế gian chỉ là yếu tố trợ duyên để có thể làm
tăng trưởng trí tuệ vô lậu, chứ nó không thể giải thoát hoàn
toàn được. Trí tuệ vô lậu là con đường đưa đến cuộc sống an lạc
hạnh phúc, giải thoát ngay trong hiện tại và tương lai. Trí tuệ
vô lậu nhìn đúng sự thật nhân sinh và vũ trụ; nó không bao giờ
xem xét sự vật bằng cảm quan, bằng suy lường, bằng cảm nhận; mà
nó nhìn vào sự vật, hiện tượng nhờ vào sự thể nghiệm thiền tập
và đi vào chánh định, chánh kiến. Do vậy, chỉ có hành thiền mới
đưa đến trí tuệ vô lậu.
- 3)- Phân
loại trí tuệ:
- a) Ðứng về
mặt phân biệt thì trí tuệ có hai loại: tuệ hữu lậu và tuệ vô
lậu, hay còn gọi là tuệ thế gian và xuất thế gian. Tuệ hữu lậu
là tuệ có quan hệ mật thiết với phiền não thế gian và không có
khả năng dứt trừ phiền não ấy. Ðó là thứ trí tuệ phổ thông, còn
gọi là thế tục trí (Jnànam-laukikam; Knowledge of the world).
Trí tuệ này chỉ có công năng hiểu biết các pháp trên mặt hiện
tượng. Trí tuệ này còn câu hữu với tham, sân, si, mạn, phiền
não... Do vậy chưa có công năng đoạn trừ chấp thủ.
- Trí vô lậu là
trí thanh tịnh, có công năng cắt đứt mối quan hệ với phiền não.
Sự hiểu biết các pháp nằm ngoài phạm trù đối đãi và chấp thủ,
đưa đến giải thoát và giải thoát tri kiến, chứng vô lậu Niết
bàn.
- b) Ðứng về
mặt tính chất thì trí tuệ được chia làm hai loại là căn bản trí
và hậu đắc trí.
- * Căn bản trí
hay còn gọi là chánh trí, vô phân biệt trí. Trí này là căn bản
sinh ra nhất thiết công đức, là giác tánh viên minh mà mỗi chúng
sanh vốn đã có sẵn. Ðó là bản thể của tâm vốn là trong lặng,
sáng suốt, nhưng vì bị vọng niệm, phiền não che lấp, cho nên
những đức tính sáng suốt trong lặng ấy không hiển lộ ra được.
- * Hậu đắc trí
hay còn gọi là tục trí, như lượng trí. Là trí tuệ có được nhờ
công phu tu tập Giới-Ðịnh-Tuệ mà có được. Có thể hiểu hậu đắc
trí là một quá trình thanh lọc tâm khỏi các triền phược, phiền
não... để trở về căn bản trí. Trong hậu đắc trí đã có mầm mống
của căn bản trí. Nơi tâm thể của chúng ta đã có căn bản trí, sở
dĩ chúng ta chưa nhận diện được nó do vì mê chấp vọng cầu... dấy
khởi che lấp. Như gã cùng tử có viên minh châu trong tay áo mà
không nhận biết. Cho nên chúng ta cần phải tu tập để có hậu đắc
trí, và nhờ vào hậu đắc trí như là một phương tiện để thể nhập
căn bản trí vốn có của mình.
- c) Trên
phương diện tu tập thì trí tuệ có ba loại: văn tuệ, tư tuệ và tu
tuệ. Ðây là các cấp độ trí tuệ thứ tự từ thấp lên cao và làm căn
bản liên hệ cho nhau.
- * Văn tuệ: Là
phương pháp tu tập trí tuệ nhờ vào sự nghe hoặc trực tiếp nghiên
cứu, tụng đọc giáo lý mà lãnh hội ý nghĩa, phát sanh trí tuệ.
- * Tư tuệ: Là
trí tuệ có được nhờ vào quá trình tư duy, xét đoán, trầm tư về
những lời dạy của Ðức Phật mà khai sáng thêm trí tuệ. Ðây là
giai đoạn tiếp theo văn tuệ, tư duy những gì đã được nghe, được
đọc... Ðó là tư duy về giáo lý Tứ đế, Thập nhị nhân duyên...
liên hệ đến con người và sự vật.
- * Tu tuệ: Khi
đã có văn tuệ, tư tuệ thì đem áp dụng trí tuệ đó vào cuộc sống
mà tu tập và hành trì thông qua thiền định, để thể nghiệm và thể
nhập sự thật của các pháp. Chính nhờ tu tuệ mà có được chánh
trí, chứng ngộ Niết bàn tối thượng. Chính trí tuệ này là trí tuệ
thâm nhập thực tại vô ngã của các pháp mà Ðức Phật có được ngay
đêm thành đạo.
- 4- Lợi ích
của trí tuệ:
- Lợi ích của
trí tuệ không thể nghĩ bàn đối với cuộc sống hiện tại và tương
lai. Chính vì thế mà Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy
tuệ thị nghiệp). Muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, an lạc
trọn vẹn cho tự thân và cho tha nhân, muốn hiểu được chính mình
và hiểu được người thì phải có trí tuệ để quán chiếu; muốn bước
lên bờ giác ngộ giải thoát, trí tuệ vô lậu là yếu tố quyết định.
Tu tập về trí tuệ vô lậu sẽ đạt được nhiều lợi ích. Tuy thế, tóm
tắt lại thì có những lợi ích thiết thực thể hiện rõ qua các điểm
sau:
- * Trí tuệ
tẩy trừ phiền não
- Phiền não là
ngọn lửa luôn luôn ngủ ngầm và bốc cháy trong con người chúng ta
bất cứ lúc nào. Nó có công năng thiêu đốt mọi hạnh lành, mọi
công đức mà chúng ta đã tạo. Tu tập là nhằm từng bước đoạn trừ
phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...). Vậy thì lấy gì
để đoạn trừ phiền não? Ấy là trí tuệ. Trí tuệ ấy chất chứa lòng
từ, bi, hỷ, xả, chánh định và chánh kiến. Phật giáo chỉ sử dụng
một lưỡi gươm - gươm trí tuệ, và chỉ công nhận một kẻ thù - vô
minh (Avijjà). Ðây là một minh chứng hiện thực và sống động, chứ
không phải là lời nói suông. Và đạo Phật đặt sự hiểu biết bằng
thực nghiệm lên trên hiểu qua sách vở và suy nghĩ. Phật giáo xây
dựng cuộc sống an lạc, hạnh phúc bằng trí tuệ chứ không phải
bằng đức tin. Ðức tin đối với Phật giáo chỉ là một phương tiện
bước đầu trong tiến trình đi đến giác ngộ. Cốt tủy của đạo Phật
là vậy.
- Trong kinh Di
Giáo, Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, nếu người có trí tuệ thì
không có tham trước, thường tự tỉnh giác, không để sanh ra tội
lỗi. Thế là trong pháp của ta có thể được sự giải thoát... Người
có trí tuệ chân thật, ấy là chiếc thuyền chắc vượt qua biển già,
bệnh, chết; cũng là ngọn đèn chiếu sáng cảnh tối tăm mờ ám; là
món thuốc hay trị các thứ bệnh; là lưỡi búa bén chặt đứt cây
phiền não. Thế nên các ông phải dùng tuệ: văn, tư, tu mà tự làm
cho thêm phần lợi ích. Nếu người có trí tuệ chiếu soi, dù cho
nhục nhãn thì cũng là người thấy được rõ ràng".
- * Nếm
được vị ngọt Thánh quả và xứng đáng được cúng dường
- Chúng ta biết
rằng tuệ được phát sanh là nhờ tu tập thiền định. Vị ngọt của
Thánh quả là vị ngọt trong trạng thái thành tựu thiền định của
các bậc Thánh. Trong lúc an trú tâm vào định cũng như xuất định,
thì bậc Thánh giả cảm nhận được niềm hỷ lạc vô biên sâu lắng
trong tâm thức, không thể diễn tả được trọn vẹn bằng ngôn từ. Vị
ngọt thiền lạc ấy vượt ra ngoài nhận thức của phàm phu, vị ngọt
ấy đậm nhạt khác nhau tùy vào công hạnh thành tựu của từng Thánh
quả. Cũng như vị vua thưởng thức sự hoan lạc của bậc đế vương,
chư Thiên thưởng thức Thiên lạc, còn các bậc Thánh thì thưởng
thức Thánh lạc siêu thế. Thánh lạc này đạt được nhờ vào tâm tác
ý duy nhất vào Niết bàn. Và chỉ có hành giả nào thực sự thành
tựu trí tuệ trong tu tập thì mới cảm nhận được trạng thái ấy mà
thôi. Người có được trí tuệ vô lậu như các bậc Thánh quả và chư
Phật thì xứng đáng được sự cúng dường của chư Thiên và loài
người. Vì đã thành tựu mọi công hạnh xuất thế, là ruộng phước
của thế gian, là nơi quy ngưỡng của chúng sanh gieo trồng mọi
công đức trong cuộc đời.
- * Thẩm
thấu được sự vật và thể nhập chân lý
- Lợi ích rốt
ráo của tuệ là giúp cho hành giả nhìn thấy rõ nhân sinh và vũ
trụ đúng như thật với bản chất của chúng; đó là thấy được duyên
sinh tính, vô thường tính và vô ngã tính qua giáo lý Tứ đế và
Duyên khởi. Do thấy được như vậy nên hành giả tự tin nơi mình
khả năng chuyển mê khai ngộ. Trí tuệ mở cửa đi đến tự do (tự
tại), xa lìa khổ đau do chấp thủ, không thấy có "ta" và "tự ngã
của ta". Từ đó mà thể nhập chân lý, đó là chân như, là tuệ giác
của tự tâm, của bản lai diện mục, là Phật tính hằng chuyển.
-
C- Kết luận
- Giới-Ðịnh-Tuệ
là ba môn học căn bản nhất trong hệ thống giáo dục Phật giáo.
Bởi vì toàn bộ giáo lý Phật giáo không nằm ngoài phạm vi
Giới-Ðịnh-Tuệ. Do vậy, nói học Phật là học Giới-Ðịnh-Tuệ, tu
Phật là tu Giới-Ðịnh-Tuệ./.
- -oOo-
-
* Chú thích:
- (1) Lậu hoặc:
Là một tên gọi khác của phiền não. Chỉ cho cái tâm mê chấp, cái
tâm bị phiền não chi phối.
- (2) Thượng
phần kiết sử: Gồm có hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cữ, vô minh.
- (3) Vô sở hữu
xứ định: Là thiền định sinh vào cõi Vô sở hữu xứ (Vô sở hữu xứ
là xứ thứ ba trong bốn xứ thuộc cảnh giới Vô sắc).
- (4) Phi phi
tưởng xứ định: Là thiền định sinh vào cõi Phi tưởng phi phi
tưởng xứ (Phi tưởng phi phi tưởng xứ là tầng trời thứ tư trong
cõi Vô sắc).
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Ðịnh nghĩa Tam vô
lậu học.
- 2)- Những đặc tính cơ
bản của Giới-Ðịnh-Tuệ là gì?
|
--o0o--
|
|