-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần II
- Bài đọc thêm
- Truyền Bá
Chánh Pháp
- HT Thích Trí
Quảng
- Quan sát lịch
sử truyền bá Phật giáo trên khắp năm châu trải qua hơn 25 thế
kỷ, không bao giờ chúng ta thấy có một nhà truyền giáo nào dùng
sức mạnh vật chất để cám dỗ, mua chuộc hay đe dọa người nhằm kéo
họ đến với đạo Phật.
- Trái lại, với
phương cách hết sức hiền hòa, tùy thuận, Phật giáo đã từng bước
nhẹ nhàng hội nhập vào những nơi có đủ duyên lành, không vì một
ý đồ đen tối hay mưu cầu một tư lợi nào, mà chỉ nhằm mang lại
lợi ích, an lạc cho nhiều người.
- Thật vậy, Ðức
Phật đã khẳng định sự hiện hữu của Ngài trên cuộc đời này vì
lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho mọi người. Với bản
chất của một đấng cứu đời, vô ngã vị tha, Ngài hoằng hóa độ sanh
một cách thanh thản. Không một tấc sắt trong tay, không phô
trương những lời hoa mỹ, Ðức Phật chỉ trải lòng từ, mang tri
thức vô thượng đến cho người. Qua hình bóng giải thoát và tâm
hồn thánh thiện của Ðức Phật đã tạo thành sức thuyết phục, cảm
hóa người đến với Ngài từ bỏ việc ác, sống với việc lành.
- Chỉ một thí
dụ điển hình như vua Ba Tư Nặc nhìn thấy thân tướng Phật từ bi,
giải thoát, khiến ông thay đổi tâm lý một cách đột ngột, không
còn tin theo hủ tục lâu đời ăn sâu vào nếp nghĩ của mọi người
thời đó. Vua đã quyết định bãi bỏ việc giết hại 500 dê, bò để
cúng tế và xin Phật có dịp trở lại để cứu độ ông.
- Hàng đệ tử
Phật tu tập theo Ngài, như Mã Thắng cũng tỏa sáng phạm hạnh giải
thoát. Trên đường hành đạo, bước đi trong yên lặng tỉnh giác mà
Mã Thắng đã tác động sâu xa tâm hồn nhà đại hùng biện Xá Lợi
Phất, khiến ông đột nhiên từ bỏ địa vị giáo chủ đạo thần lửa,
phát tâm quy ngưỡng Phật.
- Ðức Phật tại
thế, hình bóng giải thoát và tâm từ bi của Ngài cùng hàng Thánh
chúng đệ tử đã tạo thành sức sống an bình, lợi lạc cho xã hội
đương thời.
- Ðến khi Phật
Niết bàn, tinh thần giải thoát, lợi lạc quần sanh vẫn là ngọn
đuốc chỉ đạo cho đời sống của các vị chân tu thật học ở khắp
chân trời góc bể. Thậm chí có những nơi mà đạo hạnh từ bi, giải
thoát soi sáng bởi trí tuệ vô lậu của các bậc tu hành đã một
thời tác động những kẻ chiến thắng phải hướng tâm tìm hiểu Phật
pháp.
- Lịch sử đã
từng cho thấy khi quân Mông Cổ hoặc Mãn Thanh sang chiếm Trung
Quốc, họ phải cho dịch kinh Phật sang tiếng Mông Cổ hay tiếng
Mãn Thanh để nghiên cứu. Vì mặc dù là kẻ chiến thắng, nắm quyền
bính trong tay, nhưng họ vẫn cảm thấy e dè trước sức mạnh văn
hóa của Trung Quốc, mà tư tưởng Phật giáo bấy giờ là chỉ đạo
chính yếu.
- Hoặc trường
hợp người Mỹ có mặt ở Nhật Bản với tư cách kẻ chiến thắng trong
trận Thế chiến thứ hai. Họ nhận thấy tướng lãnh Nhật tuy bại
trận, nhưng nhờ ảnh hưởng Phật giáo nên đã có thái độ điềm tĩnh
lạ thường. Ðiều này khiến một số người Mỹ phải kính nể và gợi
cho họ ý thức muốn tìm hiểu Phật giáo.
- Chúng tôi xin
đơn cử một thí dụ về Thiền sư Philip Kapleau, là một trong những
Thiền sư người Mỹ đầu tiên. Ông nổi tiếng ở Mỹ và các nước châu
Âu. Năm 1947, ông đến làm việc tại Tokyo. Theo ông nhận xét,
tinh thần Phật giáo thẩm thấu sâu sắc vào dân Nhật, nên đối
trước hậu quả khốc liệt của chiến tranh giáng lên cuộc sống, họ
chấp nhận với một thái độ bình tĩnh và ứng xử sáng suốt. Ðiều
này khiến ông ngạc nhiên và khâm phục, quyết định tìm hiểu Phật
giáo. Tại Kamakura, ông gặp Ðại sư Suzuki giảng giải về thiền
Ðại thừa. Ông rất vui mừng, từ đó tìm hiểu Phật giáo sâu hơn,
cho đến năm 1953 thì xuất gia.
- Có thể nói,
từ giai đoạn khởi đầu ở Tây phương, phần lớn văn minh Âu-Mỹ đã
tiếp xúc với thiền học Nhật Bản và biết kết hợp hài hòa để tạo
thành nếp sống văn minh vật chất kèm theo hương vị giải thoát
của đạo Phật.
- Thật vậy, các
Thiền sư Nhật Bản nổi tiếng như Takakutsu, Suzuki, Kimura, họ
truyền bá Phật giáo sang Tây phương với tư cách vừa là du học
tăng, vừa là giáo sư giảng dạy Phật học tại các đại học ở Âu-Mỹ.
Họ quan sát xem sự suy nghĩ của người Tây phương như thế nào, để
từ đó truyền tải Phật giáo sao cho người Tây phương chấp nhận
được.
- Với hướng
truyền bá như vậy, đạo Phật đã thu hút được các học giả Tây
phương và đi thẳng vào đại học, trực tiếp truyền thông đến những
nhà trí thức, tạo cho họ có cuộc sống đẹp; chứ không phải tìm
đến nước chậm tiến truyền bá để trục lợi.
- Ðiều quan
trọng chúng ta cần quan tâm là chiều hướng phát triển của Phật
giáo phương Tây ngày nay không cần xây dựng chùa chiền. Ðiểm
chính yếu là làm thế nào để tạo được tâm lý cao cả và đời sống
tốt đẹp.
- Trên tinh
thần ấy, ở Âu-Mỹ, Phật giáo không phát triển mạnh về mặt số
lượng tín đồ như các nước Á châu. Tuy nhiên, người trí thức Tây
phương tiếp thu Phật giáo với tinh thần ứng dụng thực tiễn, họ
rút ra được những tinh ba và thường có khuynh hướng viết sách
ghi lại hiểu biết, sở đắc của họ. Nhờ vậy, người phương Tây hình
thành được những tác phẩm Phật giáo rất có giá trị về triết học,
tư duy, đạo đức, hướng người đến đời sống tỉnh thức, an lạc. Vì
vậy mà người phương Ðông muốn nghiên cứu Phật giáo một cách rốt
ráo, họ phải tìm đọc sách phương Tây.
- Chúng ta có
thể sơ lược vài tác phẩm nổi tiếng về Phật giáo, ở Mỹ có quyển
Three Pillars of Zen của Philip Kapleau, đã dược dịch ra
nhiều thứ tiếng, The Awakening of the West của Stephen
Batchelor, Brief History of Buddhist in Europe and America
của De Jong... Ở Pháp có dịch phẩm nổi tiếng về kinh Pháp Hoa
của Hàn lâm học sĩ E. Burnouf, dịch ra từ Phạn ngữ Népal năm
1925 còn lưu truyền đến ngày nay. Ðặc biệt là quyển chú giải
kinh Duy Ma giúp chúng ta hiểu Phật giáo chính xác và sâu sắc
của tác giả A. Bareau v.v... Ở Anh, có bản dịch kinh Duy Ma
The Teaching of Vimalakirti của Sara Boin...
- Ngày nay,
cùng với làn sóng mới trong việc truyền bá Phật giáo sang các
nước phương Tây, Phật giáo Nhật Bản, ngoài sự hoằng truyền ở
trường đại học và phổ biến các tác phẩm hướng dẫn tu tập, họ còn
truyền bá đạo pháp dưới nhiều hình thức kinh tế, xã hội, văn
hóa. Sở dĩ Phật giáo Nhật phổ cập tư tưởng Phật Ðà qua các dạng
thức đó vì người Nhật sớm chịu ảnh hưởng tinh thần kinh Hoa
Nghiêm, theo đó không giới hạn nhà truyền giáo trong hình thức
tu sĩ.
- Hành đạo theo
Hoa Nghiêm, Thiền sư có thể là thương buôn theo mẫu Di Già hay
Giải Thoát trưởng giả, hoặc người lái thuyền Bà Thi La. Với
phương cách hành đạo ấy, hầu hết Phật giáo Nhật sinh hoạt ở châu
Âu thường không phải ở chùa, mà ở các tiệm buôn, các nhà máy sản
xuất hay siêu thị. Ở những nơi đó, từ công nhân đến giám đốc đều
là thiền giả, nhưng đặc biệt tu hành của họ tạo ra của cải, đóng
góp lợi ích cho xã hội mà vẫn giữ được nếp sống bình dị, tâm hồn
thanh thản. Kết quả thiết thực của mẫu tu như vậy được người Tây
phương chấp nhận dễ dàng hơn là cách sống trong các thiền đường
quy củ, khắc khổ như ở Nhật thời xưa.
- Ngoài ra,
người Nhật còn đầu tư hàng tỷ đô-la vào việc tạo lập công viên ở
Pháp, Mỹ. Họ được chính phủ các nước này cho phép xây dựng các
công viên thật rộng lớn mang dáng dấp thiền. Ở Paris và Toulouse
đều có công viên giống như các đình viên của các chùa ở Nhật,
rộng cả trăm mẫu. Ở California cũng có vườn Nhật Bản nổi tiếng.
Khách tham quan đến các công viên này có thể hít thở không khí
trong lành, có thể thư giãn tâm hồn bên dòng suối trong vắt,
phong cảnh nên thơ với những bãi cỏ xanh mướt trải dài, đây đó
hoa nở xinh tươi, chim hót ríu rít. Vào đó, bao âu lo phiền
trược dứt bỏ dễ dàng và hướng tâm người hòa nhập vào dòng sống
đại tự nhiên của vũ trụ, đó là mục tiêu mà các nhà truyền giáo
tạo lập vườn thiền này mong mỏi khách thập phương đạt được.
- Xưa kia, Ðức
Phật và Thánh chúng đã thể hiện mô hình tiêu biểu sống như thế
nào để trở về bản tâm thanh tịnh, hòa nhập cùng pháp giới, vĩnh
hằng bất tử.
- Chúng ta hy
vọng, trên đà phát triển Phật giáo ở phương Tây với chiều hướng
phục hưng theo những mô hình nói trên sẽ giải tỏa những bế tắc
của thời đại, mang lại nhiều lợi ích cho mọi loài trên trái đất
này ở thế kỷ 21./.
--o0o--
|
|