-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài 1
- Mười hai
nhân duyên
(Thập nhị nhân duyên)
- Thích Tâm
Hải
-
A- Dẫn nhập
- Mười hai nhân
duyên (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của giáo
lý Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bồ
tát Tất Ðạt Ða (Siddhartha) thể chứng dưới cội bồ đề sau 49 ngày
tư duy thiền định, từ đó Ngài trở thành một bậc giác ngộ hoàn
toàn.
- Mười hai nhân
duyên, hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù, là điểm xác
định sự khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là
cốt lõi của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán
trong tất cả các kinh điển. Nhận thức rõ về giáo lý Mười hai
nhân duyên sẽ giúp người học Phật hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề
khác như nghiệp, luân hồi, tái sinh, nhân quả... đồng thời gợi
mở một hướng sống tích cực cho mỗi cá nhân trong hiện tại.
-
B- Nội dung
-
I- Ðịnh nghĩa:
-
1)- Thế nào là nhân duyên?
- Nhân là yếu
tố quyết định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một
hiện hữu. Duyên là điều kiện hỗ trợ, tác động làm cho nhân sinh
khởi. Ví dụ: hạt lúa là nhân của cây lúa; các yếu tố như đất, độ
ẩm, ánh sáng mặt trời, người gieo... là duyên để hạt lúa (nhân)
nảy mầm phát triển thành cây lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực
ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc biệt là trong thế giới tâm
thức; và, nhân duyên nói cho đủ là nhân - duyên - quả.
- "Nhân duyên"
trong "Mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi": sự
nương tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói
chính xác là "do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này
không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái kia
sinh; do cái này diệt, cái kia diệt".
- 2)- Mười
hai nhân duyên là gì?
- Trong kinh
Tương Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Ðức Phật đã thuyết minh về
Mười hai nhân duyên (Duyên khởi) như sau: "Do vô minh, có hành
sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh
sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có ái
sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh
sinh; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay
toàn bộ khổ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi".
- "Do đoạn diệt
(2) tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt
nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; ...; do sinh diệt
nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ
uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt"
(tr.1-2).
- Mười hai nhân
duyên dược Ðức Phật định nghĩa gồm hai chiều hướng: chiều hướng
sinh khởi (còn gọi là lưu chuyển: do vô minh, hành sinh...) và
chiều hướng đoạn diệt (còn gọi là hoàn diệt: do đoạn diệt tham
ái, vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt...). Khi Mười hai
nhân duyên được thành lập (tập khởi), nghĩa là năm uẩn (3) tập
khởi, và đây là chiều hướng của khổ đau, luân hồi. Khi mười hai
mắc xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc năm uẩn cũng tan
rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là
cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự
nó nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập
khởi.
- Theo cách
trình bày trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguồn cội,
cốt lõi của mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm
vô minh là nguyên nhân đầu tiên của chuỗi liên kết đó. Bởi Ðức
Phật dạy, vô minh cũng do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có
nhân duyên (tích cực) thì vô minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí,
tuệ; đây là ý nghĩa "vô minh diệt, minh sinh".
- Cũng cần lưu
ý một chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này.
Ðịnh nghĩa được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách
trình bày tiêu biểu nhất, gồm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một
số bản kinh khác, như kinh Ðại Duyên (Trường Bộ kinh III), kinh
Ðại Bổn Duyên (Trường A Hàm I)..., Ðức Phật trình bày chỉ gồm 5,
8, 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi phần. Vấn đề này được các nhà
nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ mỉ, và tất cả
đều thống nhất số mục 12 chi phần được xác định qua nội dung
thiền quán của Ðức Phật dưới cội bồ đề. Ðây là dạng thức chính
xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự sai
khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo hóa
linh động của Ðức Phật. Ngài tùy thuộc vào trình độ của người
nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Ðiều này sẽ được làm sáng tỏ ở
phần nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên.
- Ðối tượng
nghe giáo lý Mười hai nhân duyên là con người, vì nặng về tâm
luyến ái và chấp thủ, nên Ðức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi
phần này, đặc biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt -
giải thoát. Khi ái (hay bất luận là chi phần nào) sinh khởi, lập
tức cấu trúc 12 nhân duyên hình thành; và ngược lại; khi chi
phần ái hay thủ (hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn diệt, lập tức
chuỗi mắc xích 12 nhân duyên tan rã. Ðây cũng là ý nghĩa, mà
trong luận Ðại Tỳ Bà Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần
cũng được, hai, ba... cho đến 12 chiphần cũng được.
-
II- Ý nghĩa của mười hai chi phần nhân
duyên:
- 1)- Vô
minh (Avijjà): sự mê mờ, cuồng si của tâm thức; hay nói
cách khác là sự không hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên
sinh, vô thường và không có một tự thể độc lập, bất biến.
- 2)- Hành
(Sankhàra): động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của
thân, miệng và ý.
- 3)- Thức
(Vinnana): tri giác của con người về thế giới thông qua các
cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỷ
thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức).
- 4)- Danh
sắc (Nàma-rùpa): sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là
phần tâm lý. Với con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác
quan và chức năng của chúng; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở),
như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
- 5)- Lục
nhập (Chabbithàna): có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác
giữa sáu căn (= 6 nội xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối
tượng của chúng là sáu trần (= 6 ngoại xứ: hình thể, âm thanh,
hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp).
- 6)- Xúc
(Phassa): sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ
thể) và trần (đối tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc
giữa con người và thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý
là, khi có thức phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc
trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là
sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức.
- 7)- Thọ
(Vedanà): sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý
phát sinh khi mắt tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm
thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng (pháp).
- Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ
chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính
(phi khổ phi lạc). Ðây là chất liệu mà con người thường lấy để
xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khổ đau, bất
hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đổi, không hề
có một tự tính cố định.
- 8)- Ái
(Tanhà): gọi đủ là ái dục hay khát ái: sự vướng mắc, yêu
thích, tham luyến; gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
- 9)- Thủ
(Upadàna): gọi đủ là chấp thủ: sự kẹt vào, bám víu, đeo
chặt của tâm thức vào một đối tượng.
- 10)- Hữu
(Bhava): tiến trình tương duyên để hình thành, gồm dục hữu,
sắc hữu và vô sắc hữu.
- 11)- Sinh
(Jati): sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không
phải là sự sinh ra em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu
thành (năm uẩn), thành tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức
năng của chúng).
- 12)-
Lão-tử (Jaramrana): sự suy nhược, tàn lụi, tuổi thọ lớn,
tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được
biểu hiện dưới các hiện tượng: răng long, tóc bạc, da nhăn, các
cơ quan tri giác suy yếu và chết.
-
III- Sự vận hành của mười hai nhân
duyên:
- Thông qua ý
nghĩa của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần
lục nhập, một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này
là giáo lý nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy
đủ 6 cơ quan tri giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười
hai nhân duyên cũng chính là nói về sự vận hành của con người.
- Vì không nhận
biết hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp
mà sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng,
nên con người ảo tưởng về một tự ngã: đây là cái tôi và đây là
cái của tôi (Vô minh). Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy
động tâm thức, làm sinh khởi lòng tham ái, chấp thủ... Và đó là
động cơ cho các hành động của thân, lời và ý (Hành). Mỗi khi ý
niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của
Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp
gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay
khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ tuôn chảy như
một dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được,
vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gồm những phản ứng tâm
lý trước đối tượng như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính...
Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao
hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng
với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mỗi
khi đã có Sinh, thì tiến trình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận
hành như một hệ quả đương nhiên: nghĩa là lão-tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não; hay khổ đau có mặt. Ðó là sự vận hành của mười hai nhân
duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận hành này có
động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, đây là
con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối bởi vô
minh.
- Trong phần
thuyết minh về mười hai nhân duyên, Ðức Phật không chỉ nêu lên
con đường tập khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra
nguyên nhân tập khởi và con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mỗi khi
đoạn diệt bất kỳ một chi phần nào trong chuỗi 12 mắc xích (nhân
duyên), thì lập tức nó tự tan rã. Tuy nhiên, với con người, tham
ái và chấp thủ là nặng nề nhất; nên đoạn tận tham ái hoặc chấp
thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn lý do để hiện
hữu. Ðó là ý nghĩa của lời Phật dạy: "Ái diệt tức Niết bàn".
- Sự vận hành
của mười hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình
thành một sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở
cuối cùng), mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển)
nói lên căn nguyên có mặt của con người (và cuộc đời); nó không
bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Bao giờ tham ái, chấp
thủ hoặc vô minh chưa được đoạn tận thì con người vẫn bị chi
phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn luẩn
quẩn trong luân hồi, khổ đau bất tận - khi mười hai nhân duyên
đoạn diệt, đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
-
IV- Một số cách giải thích về mười hai
nhân duyên:
- Mười hai nhân
duyên, hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự
thật nên không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Ðức
Phật khẳng định rằng: "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu,
sự thật này không thay đổi dù Như Lai có xuất hiện hay không
xuất hiện". Một hiện hữu dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử đến
to lớn như vũ trụ cũng không nằm ngoài nguyên lý này. Với đặc
tính đó, giáo lý Mười hai nhân duyên có thể dùng để soi sáng
nhiều vấn đề khác trong cuộc đời như luân hồi, nhân quả... tùy
thuộc theo góc độ quan sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới
thiệu 4 cách giải thích phổ biến.
-
1)- Dạng thức tổng quát:
- "Do cái này
có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không
có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia
diệt" (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày
khái quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Ðức Phật nói. Nó
được xem như là một nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới
hiện tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai nhân duyên là dạng
thức duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tổng quát nói
về bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không
có tình thức (khí thế giới).
-
2)- Ba đời hai tầng nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả):
- Ba đời là quá
khứ, hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này,
vô minh và hành thuộc về quá khứ; hiện tại gồm có các chi phần
(từ thức đến hữu); sinh và lão-tử thuộc về vị lai. Mặt khác,
thức, danh, sắc, lục nhập được xem là quả hiện tại của nhân quá
khứ là vô minh và hành, đây là tầng nhân quả thứ nhất. Các chi
phần thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại cho quả vị lai là sinh
và lão-tử; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp giữa hai lớp
nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ chặt
chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian: quá khứ - hiện tại - vị
lai. Qua cách giải thích này, ý đồ dùng giáo lý Mười hai nhân
duyên để giải thích luân hồi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách
phân chia như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là vô minh và
hành chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại,
sinh và lão tử thì thuộc về tương lai (!). Thực ra, trong hiện
tại (và ngay trong mỗi chi phần) đã có mặt vô minh. Khi một chi
phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của 11 chi phần còn
lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 chi
phần nhân duyên tự sụp đổ. Như đã phân tích, mười hai nhân duyên
là một dòng tương tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào thời
gian (quá khứ, hiện tại hay tương lai). Cách giải thích này vô
tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo lý Mười hai nhân duyên -
một giáo lý vốn được xem là rất thâm áo và tinh tế.
-
3)- Nhân quả đồng thời:
- Khi nói "Do
vô minh, hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh
ra. Giữa vô minh và hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính,
đơn phương; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện
hữu tùy thuộc vào yếu tố thời gian (trước - sau). Cách giải
thích này nói rằng, ngay trong một sát na (4) đã có sự hiện hữu
đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm lệch lạc về một cái tôi và
cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuỗi nhân quả tương
tục: ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và chấp thủ
(thức)... đến lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Mỗi một chi phần
vừa là quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng
lẫn nhau.
-
4)- Sự hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn):
- Một trong 3
yếu tố quyết định để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu
nghiệp thức đi đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh
và hành trong quá khứ. Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm
danh sắc có mặt. Lục nhập là giai đoạn thai nhi hình thành đầy
đủ các căn. Giai đoạn trẻ bú mớm là giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3
- 5 tuổi là lúc thọ hình thành. Từ đây trở về trước, theo lối
giải thích này, là biểu hiện của nghiệp quá khứ, trẻ chưa tác ý
thiện ác để tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ biết vui, buồn, ưa,
ghét... là lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây mới là giai
đoạn mà trẻ tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân mạng mới ở
tương lai (sinh, lão, tử).
-
V- Một số hệ luận từ giáo lý Mười hai
nhân duyên:
- 1)- Con người
(và cuộc đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên
không hề có một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính
là chủ nhân của cuộc đời mình, bởi giáo lý Mười hai nhân duyên
cho thấy sự thật: "Không thể tìm ra một đấng sáng tạo, một
Brahman, hay một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời
sống; chỉ có những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc vào những
điều kiện" (5).
- 2)- Con người
và cuộc đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vô
thường), nên bên trong mỗi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác
ngộ, và cuộc đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
- 3)- Khi một
chi phần trong mười hai nhân duyên vận hành, nghĩa là 11 chi
phần còn lại cũng vận hành. Ðiều này nói lên sự dung thông giữa
cái "một" và cái "tất cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian,
thời gian, từ đó có thể khẳng định có sự hiện hữu của các loại
thần thông.
-
C- Kết luận
- 1)- Mười hai
nhân duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là
con người. Vì con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp
thủ nên Ðức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi
hướng dẫn con người tu tập vì mục đích giải thoát, giác ngộ.
- 2)- Mười hai
nhân duyên, hay Duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để
đối trị chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới; mà đây là sự thật
và là một pháp tu tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do
vậy, giáo lý này là căn bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát
chánh đạo). Nói khác đi, chánh kiến là cái nhìn toàn diện, như
thật về các pháp là do duyên sinh.
- 3)- Vô ngã
hay giải thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái trống
trơn, mà là sự trống rỗng ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói
cách khác, đó là trạng thái không có mặt vô minh, tham ái và
chấp thủ.
- 4)- Mọi giá
trị trong cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là
duyên sinh, luôn trôi chảy và không thể nắm bắt.
- 5)- Hiện hữu
hay cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa
con người với con người, giữa con người với môi trường xã hội,
môi trường tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần
xây dựng một xã hội tốt đẹp, và ngược lại. Mỗi người phải có
trách nhiệm với cộng đồng, bởi xây dựng cộng đồng chính là đang
bảo vệ cá nhân mình.
- 6)- Mười hai
nhân duyên, hay giáo lý Duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô
cùng tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư
duy hữu ngã từ vô thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý
này, đòi hỏi phải có sự quán sát và tư duy thường xuyên về nó.
Suy tư và thực tập giáo lý Mười hai nhân duyên (theo chiều đoạn
diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho hành giả một
cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại.
Bởi như lời Phật dạy: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy
Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối
hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới
hạn bởi vô minh, tham ái và chấp thủ này./.
- -oOo-
-
* Chú thích:
- (1) Còn gọi
là Duyên sinh, Y tha khởi: sự nương tựa vào các yếu tố khác mà
sinh khởi, hình thành, hiện hữu; tùy thuộc phát sinh.
- (2) Diệt trừ,
xả bỏ, chuyển hóa (Pàli: uccheda).
- (3) Hình thể
(sắc), cảm thọ (thọ), ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo
tác (hành) và tri giác hiện hữu (thức).
- (4) Khoảng
thời gian rất ngắn giữa hai biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với
đơn vị thời gian là giây (Pàli: khana).
- (5) Thanh
tịnh đạo luận (Visuddhimagga).
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Ðịnh nghĩa về các chi
phần trong mười hai nhân duyên.
- 2- Trình bày mối liên hệ
và sự vận hành của các chi phần nhân duyên đối với đời sống
của con người.
- 3- Từ giáo lý Mười hai
nhân duyên, bạn có suy tư gì về đời sống tu tập của cá nhân?
|
--o0o--
|
|