-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài đọc thêm
- Mười hai
nhân duyên và đời sống đạo
- Nhựt Chiếu
- Phương pháp
tu tập trong đạo Phật nói chung có hai phần: một là tu chỉ; hai
là tu quán. Tu chỉ là đình chỉ vọng niệm, phiền não, không làm
các việc ác, biết vọng không theo, cho đến đình chỉ sanh tử mà
đắc Niết bàn. Tu quán là để tâm quán sát trên một đối tượng,
dùng trí chiếu phá phiền não vô minh mà thành Bồ đề. Nay nói tu
quán Mười hai nhân duyên là dùng trí tuệ quán chiếu để thấy rõ
sự sanh khởi, lưu chuyển và hoàn diệt của Mười hai nhân duyên.
Trong quá trình quán chiếu, hành giả sẽ nhận thức rõ ràng thực
tướng của vạn pháp là duyên sanh vô ngã thì thoát ra vòng sai sử
của hoàn cảnh.
- Giáo lý duyên
khởi giải thích nguồn gốc của vòng sanh tử luân hồi là do vô
minh tạo nghiệp mê lầm rồi cảm ra quả báo khổ đau. Ðể cắt đứt
con đường luân hồi, hành giả phải đoạn diệt được một trong Mười
hai chi phần nhân duyên. Khi một chi phần đã diệt thì 11 chi còn
lại cũng không còn. Cách cắt đứt vòng xích 12 nhân duyên có
nhiều phương pháp, như quán lưu chuyển, quán hoàn diệt, quán vô
sanh v.v... Khi quán một trong các pháp trên thành công thì trí
tuệ khai mở, phá được vô minh phiền não, thoát vòng sanh tử luân
hồi.
- Khi một vật
được soi rọi dưới ánh sáng trí tuệ hay trải qua một cuộc quán
sát nghiêm mật thì sự vật ấy sẽ hiện rõ chân tướng của chúng,
bấy giờ không còn đánh lừa được tâm trí của mình.
- Sau đây chúng
ta tìm hiểu về các phương pháp quán chiếu để thấy rõ và phá vỡ
vòng xích 12 nhân duyên.
- *- Quán lưu
chuyển: là quán sát, suy xét quá trình sanh khởi; trạng thái
luân lưu của 12 nhân duyên. Có 3 cách:
- - Quán sự
sanh khởi của 12 nhân duyên từ vô thỉ: Tâm tánh của con người
vốn tự thanh tịnh, vốn tự quang minh. Nhưng chúng sanh chúng ta
từ vô thỉ đã khởi niệm bất giác, khiến vô minh che lấp. Vì một
niệm vọng động mà bị sinh diệt lưu chuyển nên chuyển sáng thành
tối, chuyển tĩnh thành động, tự tâm vốn linh minh chiếu suốt trở
thành tối tăm che lấp, đó là vô minh. Từ đây các vọng động sanh
khởi biến diệt là hành. Do hành mà có thức, đồng thời có cả thế
giới và chúng sanh, đó là danh sắc. Ðã có chúng sanh thì sáu căn
là chỗ của sáu trần đi vào, gọi là lục nhập. Căn trần giao tiếp
là xúc. Nhân sự tiếp xúc mà phát sanh ra các cảm giác đó là thọ.
Do thọ sanh ưa thích là ái. Vì ưa nên tìm cách nắm giữ là thủ.
Rồi có hữu, sanh và lão tử.
- Ðây là Mười
hai nhân duyên đã được hình thành từ vô thỉ. Rồi vô minh vọng
động cứ tiếp tục khởi diệt, làm cho Mười hai nhân duyên sanh
khởi triển chuyển cho đến ngày nay và mãi về sau.
- - Quán trạng
thái lưu chuyển của Mười hai nhân duyên trong ba đời: Tức là
khảo sát trạng thái sanh khởi và lưu chuyển của Mười hai nhân
duyên từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nếu trải vòng xích
Mười hai nhân duyên lên ba thời, thì vô minh và hành thuộc nhân
quá khứ. Nhân này sanh ra thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là
quả hiện thực. Quả này lại tạo nhân hiện tại là ái, thủ, hữu.
Rồi thành ra quả vị lai là sanh và lão tử. Như thế do vô minh mà
tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chịu khổ, do chịu khổ lại mê hoặc
tạo nghiệp... Cứ luân lưu như thế, từ nhân đến quả, quả lại sanh
nhân nối tiếp nhau trong ba đời.
- - Quán sự
sanh khởi của Mười hai nhân duyên trong một niệm hiện tại: Trong
ba cách quán lưu chuyển, pháp này đối với phàm phu chúng ta khó
mà thấy sự hiện hữu của Mười hai nhân duyên trong một niệm.
Nhưng chúng ta tạm hình dung như sau: Khi nhìn một người mà
không thấy sự thay đổi biến diệt trong người ấy là vô minh, rồi
khởi ra các vọng niệm phân biệt đẹp xấu, cao, thấp v.v... đó là
hành, thức, danh sắc. Các trần cảnh phản ảnh vào sáu căn là lục
nhập. Căn tiếp xúc với trần là xúc. Do sự xúc chạm sanh ra cảm
giác là thọ. Nhân thọ sanh ra ưa thích là ái. vì ái nên mong
muốn chiếm đoạt là thủ. Từ đó tạo nghiệp là hữu, rồi theo nghiệp
thọ báo là sanh và lão tử.
- *- Quán hoàn
diệt: Là dùng trí tuệ quán chiếu tiêu diệt vô minh, phá vỡ Mười
hai nhân duyên để trở về với bản thân thanh tịnh sáng suốt.
Phương pháp tận diệt vô minh này cũng có hai cách
- - Diệt căn
bản vô minh: Ðây là cách quán sát dành cho hàng Bồ tát, hay hành
giả trải qua nhiều kiếp tu hành, đến địa vị Ðẳng giác. Theo lý
duyên khởi do vô minh mà có hành, do hành mà có thức... cho đến
lão-tử. Như thế khi vô minh diệt tìh hành diệt, hành diệt thì
thức diệt... cho đến lão-tử diệt. Nói cách khác, do mê hoặc mà
tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chịu khổ. Vậy muốn hết khổ phải cắt
đứt nghiệp, muốn hết nghiệp thì trước tiên phải dứt trừ vô minh.
- Bậc Bồ tát
thấy rất rõ do vô minh khởi vọng động, từ đó có thế giới và
chúng sanh, nên các Ngài dùng trí tuệ Bát nhã phá trừ căn bản vô
minh. Khi vô minh diệt, thì bản lai diện mục hiện tiền, bản tâm
thanh tịnh sáng suốt hiển lộ, vượt qua sự sai sử của năm uẩn. Ðó
là trường hợp ngài Quán Tự Tại đi sâu vào trí tuệ Bát nhã, soi
thấy năm uẩn đều không mà vượt qua tất cả khổ ách.
- - Diệt chi
mạt vô minh: Ðối với hàng căn cơ thấp kém, không thể trực tiếp
phá vô minh gốc rễ, mà chỉ diệt trừ vô minh ngành ngọn, đó là
ái, thủ, hữu. Phép quán này có hai cách.
- *- Quán lý:
Ðây là cách dùng lý lẽ để hướng dẫn nhận thức của mình. Tất cả
các pháp do nhân duyên hòa hợp mà có, chứ không có thật. Vì cái
có không thật nên không thể gọi là hữu. Khi đã có cái thấy duyên
sinh vô ngã, tức sự vật không có tự thể, không có chi là ta, là
của ta, là tự ngã của ta, thì không tham đắm tìm cầu, tức không
thủ. Ðã không chấp thủ thì không ái. Như vậy, theo pháp quán này
thì quán hữu trước rồi đến thủ và ái. Khi ba cái nhân ái, thủ,
hữu bị thiêu hủy dưới trí tuệ quán chiếu thì cái quả sanh,
lão-tử cũng không còn.
- *- Quán sự:
Là quán sự tướng đang hiện hành trôi chảy. Khi đối cảnh, lòng
ham muốn nổi lên, đó là ái. Ðã có lòng tham ái thì tạo nghiệp là
chấp thủ, rồi sau đó chịu khổ sanh tử là hữu. Biết như thế thì
đối duyên xúc cảnh cố giữ tâm như như bất động, không khởi tham
ái. Từ đó không tìm cầu chấp thủ. Và khi không chấp thủ thì
không tạo nghiệp sanh tử luân hồi, tức không hữu. Như vậy theo
pháp quán này thì quán ái trước rồi đến thủ và hữu. Khi mê hoặc
(ái) hết thì nghiệp không sanh (thủ), nghiệp không thì khổ cũng
hết (hữu). Mê, nghiệp và khổ hết thì mười hai nhân duyên cũng
không còn.
- *- Quán vô
sanh: Hành giả quán sát các pháp thì thấy do sự đối đãi mà sinh
ra, kỳ thực chẳng có pháp nào được sanh ra cả. Hơn nữa, dù có
được gọi là sanh, cũng chỉ vì so sánh với cái bị diệt mà nói.
Như củi diệt thì than sanh, tức cái diệt của sự vật này là cái
sanh của một sự vật khác. Như thế, căn cứ vào đâu mà nói có sanh
diệt? Thấy được cái huyễn sanh huyễn diệt thì lìa tham ái. Do ly
tham, ly thủ mà trí tuệ giải thoát phát sanh. Tuệ sanh, minh
sanh thì vô minh diệt. Do đó cắt đứt vòng luân chuyển Mười hai
nhân duyên.
- Những phép
quán nói trên đều đem Mười hai nhân duyên ra phân tích, quán
sát, khảo cứu dưới những góc độ khác nhau để thấy được một cách
tường tận trạng thái sanh khởi luân chuyển của Mười hai nhân
duyên. Thực tướng của nó là duyên sinh vô ngã, là huyễn sinh
huyễn diệt, thực chất là không, là vô sanh. Khi đạt đến cái thấy
này thì vô minh diệt, minh sanh. Do đó vòng xích Mười hai nhân
duyên bị phá vỡ và hành giả giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân
hồi. Ðiều này cho thấy tu tập thiền quán là điều không thể thiếu
được trên lộ trình giải thoát. Ngoài những phép quán nói trên có
khả năng tận diệt vô minh, chúng ta cũng có thể đi đến tiêu đích
giải thoát bằng con đường khác. Nhưng dù đi bằng con đường nào,
cũng lấy trí tuệ làm ngọn đèn để chiếu phá bóng tối vô minh. Như
chúng ta có thể gần gũi với các bậc chân nhân để được nghe diệu
pháp và đi đến đoạn tận năm triền cái, đó là thức ăn của vô
minh. Khi năm triền cái bị diệt thì vô minh cũng không có nhân
duyên để tồn tại. Ðó cũng là cách tu tập hợp với căn cơ của
chúng ta mà kết quả đem lại là diệt tham, sân, si. Nếu đối chiếu
với Mười hai nhân duyên thì đó là ái, thủ, hữu. Khi ái, thủ, hữu
diệt thì vòng luân chuyển Mười hai nhân duyên bị cắt đứt và hành
giả được giải thoát hoàn toàn./.
--o0o--
|
|