-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài 1
- Sơ lược lịch
sử Phật giáo Ấn độ sau thời đức Phật
- Thích Tâm
Hải
-
Dẫn nhập
- Từ Ấn Ðộ,
Phật giáo được truyền bá rộng rãi và trở thành một trong những
tôn giáo lớn của nhân loại. Ấn Ðộ là nơi xuất phát của Phật giáo
nên việc tìm hiểu lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ trở thành một vấn đề
quan trọng trong lĩnh vực Phật học.
- Ở đầu chương
trình của năm học thứ nhất (xem PHCB Tập 1), chúng ta đã được
giới thiệu về lịch sử của Ðức Phật Thích Ca mâu Ni, sau đó chúng
ta cũng đã được học các vấn đề giáo lý cơ bản. Do đó, tiếp theo
đây, chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ sau
thời Ðức Phật diệt độ, tạm gọi là qua ba thời kỳ: thời kỳ
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), thời kỳ Phật giáo Bộ
phái (Abhidhamma), và thời kỳ Phật giáo Phát triển
(Mahayanà).
-
-
Nội dung
-
A. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
- Thời kỳ Phật
giáo Nguyên thủy (Theravada) được tính từ thời Ðức Phật tại thế
đến thời điểm sau khi Ngài diệt độ khoảng một trăm năm. Như đã
nói, lịch sử ở giai đoạn Ðức Phật tại thế, chúng ta đã được học
qua trong phần lịch sử của Ngài, nên ở đây chỉ điểm lại một vài
nét đặc thù về tổ chức Giáo hội của thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy và sự kiện nổi bật là Hội nghị kết tập kinh điển đầu tiên
trong lịch sử.
-
I- Vài nét về tổ chức Giáo hội
- Giáo hội thời
Ðức Phật đã có đủ bốn chúng là Tăng, Ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ;
hình thành hai thành phần là xuất gia và tại gia. Giáo hội này
do Ðức Phật sáng lập, tổ chức và trực tiếp điều hành; với những
uy đức và trí tuệ lớn của Ngài, nên Giáo hội được tổ chức khéo
léo, là một cơ thể thống nhất hữu cơ, luôn đặt mục tiêu tu tập
để đạt đến giải thoát, giác ngộ lên hàng đầu. Ðặc biệt, Tăng
đoàn (đoàn thể những người xuất gia) có sự hiện diện của nhiều
vị chứng ngộ các quả Thánh (1). Giáo hội được tổ chức trên cơ sở
của sự bình đẳng, tôn trọng giới luật, đề cao trí tuệ của sự tu
chứng; không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác và giới tính.
- Mặc dù vậy,
trong Giáo hội vẫn có một vài vị Tỷ kheo sống bất tuân giới
luật, cố tình gây chia rẽ Giáo hội, như trường hợp của Tỷ kheo
Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) - em họ của Ðức Phật - mà sử liệu đã
ghi lại...; bên ngoài thì có những công kích của ngoại đạo ác
cảm với sự thật mà Ðức Phật đã tuyên bố và chủ trương của Giáo
hội do Ngài lãnh đạo, nhưng Giáo hội vẫn giữ vững đặc trưng
thanh tịnh và hòa hợp.
- Về giáo lý,
Ðức Phật là người trực tiếp truyền dạy cho các đệ tử của Ngài.
Mọi vấn đề hoài nghi đối với đường lối tu tập, giới luật... đều
được Ngài giải quyết một cách cụ thể, rõ ràng trên cơ sở của trí
tuệ mà Ngài đã chứng nghiệm, nên không hề có những mâu thuẫn,
bất đồng xảy ra trong Giáo hội nói chung và Tăng đoàn nói riêng.
Có thể nói, tổ chức Giáo hội thời Ðức Phật là một tổ chức hoàn
chỉnh, hiệu năng và thuần nhất, mọi thành viên đều sống trong
tinh thần của giới - định - tuệ, cùng tôn xưng Ðức Phật là Ðấng
Giác Ngộ có trí tuệ vĩ đại, xứng đáng là bậc Thầy của trời và
người.
- Sau thời Ðức
Phật diệt độ, Tôn giả Ðại Ca Diếp (Maha Kassapa) thay Ngài lãnh
đạo Giáo hội, thành phần Thánh tăng trong Giáo hội hiện diện còn
nhiều nên đặc trưng của Giáo hội, như đã đề cập trên, vẫn được
duy trì mãi cho đến Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai, tức
khoảng một trăm năm sau Phật diệt độ, mới có những bất đồng về
giới luật gay gắt, đưa đến sự phân hóa về tổ chức Giáo hội.
-
II- Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ
nhất
-
1)- Lý do kết tập:
- Sau khi Ðức
Phật diệt độ không lâu, mầm mống của những kiến giải bất đồng về
lời Ngài dạy dần dần nảy sinh trong Giáo hội. Ðiều này không có
gì là bất ngờ, nguyên vì khi Ðức Phật tại thế, lời giảng pháp
của Ngài chỉ được truyền miệng mà không ghi thành văn bản; và
pháp mà Ngài nói là bất định pháp, tùy theo căn cơ, trình độ của
mỗi người, nhóm người... Phương pháp thuyết giảng rất linh động,
nên sự nhận thức về nội dung Phật pháp bất đồng là đương nhiên.
Thêm vào đó, khi hay tin Ðức Phật diệt độ, có một Tỳ kheo phóng
túng reo mừng rằng từ nay không còn bị ràng buộc bởi sự nhắc nhở
của Ðức Phật: "điều này nên làm", "điều kia không nên làm"...
Lời này đã đến tai Tôn giả Ðại Ca Diếp. Trước thực trạng đó, Tôn
giả lo ngại rằng Phật pháp mà Ðức Thế Tôn giảng dạy có thể bị
xuyên tạc và phá hoại trong tương lai, nên Tôn giả với vai trò
là trưởng tử của Ðức Phật, đã khẩn cấp triệu tập các Thánh đệ tử
của Ngài, để ôn lại lời Phật dạy và củng cố Tăng đoàn. Sau này,
gọi đây là Hộại nghị kết tập kinh điển lần thứ nhất.
-
2)- Diễn tiến và kết quả:
- Hội nghị kết
tập kinh điển lần thứ nhất do Tôn giả Ðại Ca Diếp chủ trương,
vua A Xà Thế (Ajatasatu) trị vì nước Ma Kiệt Ðà (Maggadha) bảo
trợ; tổ chức tại thành Vương Xá (Rajagaha), với sự tham dự chính
thức gồm năm trăm vị A La Hán dưới sự chủ tọa của Tôn giả Ðại Ca
Diếp. Tôn giả A Nan (Ananda) phụ trách tuyên tụng lại phần kinh,
Tôn giả Ưu Ba Li (Upali) tuyên tụng phần luật. Có tài liệu ghi
rằng, hội nghị đã diễn ra trong thời gian là bảy tháng mới kết
thúc.
- Phương pháp
kết tập là trùng tụng bằng ký ức (2), chưa ghi thành văn bản.
Những điều được các vị A La Hán xác quyết, sau này được ghi
thành bốn bộ A Hàm (Agama):
- 1. Kinh Trường A Hàm (Digha agama)
2. Kinh Trung A Hàm (Majjhima agama)
3. Kinh Tăng Nhất A Hàm (Anguttara agama)
4. Kinh Tạp A Hàm (Samyutta agama)
- Nội dung nhằm
ôn lại những lời thuyết pháp và sinh hoạt thường nhật của Ðức
Phật cùng Thánh chúng đệ tử của Ngài. Ở Hội nghị kết tập lần
này, chỉ mới hình thành kinh và luật tạng. Ðây là những ký lục
được xem như là tài liệu cổ xưa nhất ghi lại cuộc đời của Ðức
Phật và sinh hoạt của Giáo hội thời Ngài tại thế, là căn bản cho
tư tưởng Phật giáo thời kỳ Nguyên thủy.
- Hội nghị này,
về sau còn được gọi là "Ngũ bách kết tập" (Hội nghị kết tập kinh
điển của năm trăm vị A La Hán).
-
-
B. Thời kỳ Phật giáo Bộ phái
- Thời kỳ Phật
giáo Bộ phái ở đây được dùng như là khái niệm phân kỳ lịch sử,
chỉ cho thời kỳ khởi đầu diễn ra sự phân hóa của Giáo hội thành
hai bộ, rồi từ hai bộ tiếp tục phân hóa và hình thành thêm mười
tám bộ phái, tức khoảng đầu trăm năm thứ hai đến cuối trăm năm
thứ tư sau Phật diệt độ (thế kỷ II sau TL). Trong thời kỳ này
cũng đã diễn ra các hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai, thứ
ba và thứ tư. Ðể cho học viên tiện theo dõi, trước hết chúng ta
sẽ tìm hiểu sơ lược về các hội nghị kết tập kinh điển tiếp theo,
sau đó sẽ đi vào tình hình của sự phân hóa các bộ phái một cách
cụ thể.
-
I- Các hội nghị kết tập kinh điển lần
thứ hai, thứ ba và thứ tư
-
1)- Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai:
- a/- Lý do kết
tập:
- Hội nghị kết
tập kinh điển lần thứ hai diễn ra sau Hội nghị kết tập lần thứ
nhất khoảng một trăm năm. Nguyên nhân đưa đến hội nghị kết tập
kinh điển lần này là do một số Tỳ kheo sống tại thành phố Phệ Xá
Li (Vesali) đề xướng mười điều không có trong giới luật do Phật
chế, nhưng họ tự cho là hợp pháp. Mười điều đó bao gồm:
- 1. Diêm tịnh:
thức ăn ướp muối để cách đêm vẫn được dùng.
2. Chỉ tịnh: có thể ăn quá giờ ngọ một chút,
trong khoảng thời gian mặt trời xế bóng chừng hai lóng tay.
3. Tụ lạc gian tịnh: được ăn thêm lần nữa nếu
đến làng khác mà chưa quá ngọ.
4. Trụ xứ tịnh: ở đâu thì bố tát tại đó.
5. Tùng ý tịnh: những quyết định đã thông qua,
dù đa phần hay thiểu số, đều có hiệu lực.
6. Cửu trụ tịnh: làm theo thói quen tiền lệ vẫn
không trái với giới luật.
7. Sinh hòa hợp tịnh: sau giờ ngọ, có thể uống
nước pha với sữa.
8. Bất ích lũ ni sư đàn tịnh: tọa cụ nếu không
có viền chung quanh thì có thể dùng khổ lớn hơn quy định.
9. Thủy tịnh: có thể dùng rượu pha với nước để
uống trong trường hợp chữa bệnh.
10. Kim tiền tịnh: trong trường hợp cần thiết,
Tỳ kheo có thể giữ tiền bạc.
- Lúc bấy giờ,
có một vị trưởng lão tên là Da Xá (Yasa), nhân du hành đến Phệ
Xá Li (Vesali), chứng kiến một số Tỳ kheo sống theo những điều
trên, Ngài rất ngạc nhiên bèn đến trước công chúng tuyên bố rằng
mười điều trên là hoàn toàn phi pháp. Các Tỳ kheo đó phản ứng
với Ngài và buộc Tôn giả Da Xá phải sám hối trước công chúng,
nhưng Tôn giả không chấp thuận và bỏ trốn về thành Kiều Thưởng
Di (Kosambi) và rồi đi vận động các vị trưởng lão Tăng già tổ
chức hội nghị kết tập kinh điển để xác quyết chánh pháp và phi
pháp.
- b/- Diễn tiến
và kết quả:
- Hội nghị kết
tập kinh điển lần này tập hợp bảy trăm vị Tỳ kheo, tổ chức tại
thành Phệ Xá Li (Vesali) trong khoảng tám tháng. Hội nghị đã cử
chủ tọa đoàn gồm tám vị cao tăng, bốn vị ở phương Tây và bốn vị
ở phương Ðông.
- Bốn vị ở phương Tây gồm có:
- 1. Ngài Li Bà Ða (Revata)
2. Ngài Tam Phù Ðà (Sambhùta)
3. Ngài Da Xá (Yasa)
4. Ngài Tu Ma Na (Sumana)
- Bốn vị ở phương Ðông gồm có:
- 1. Ngài Khuất Xà Tu Tì Ða
(Khùjjasobhita)
2. Ngài Sa Lưu (Sàtha)
3. Ngài Bồ Tát Bà Già Ni (Vàsabhagàmi)
4. Ngài Bồ Tát Ca Mi (Sabhakàmi)
- Mục đích của
Hội nghị kết tập thứ hai không đơn thuần chỉ nhằm việc xác quyết
mười điều (đã nêu trước) là phi pháp hay hợp pháp mà còn để củng
cố kinh, luật Phật dạy, không để cho các học thuyết ngoại đạo
trà trộn vào. Về "mười điều phi pháp", Hội nghị đã không có sự
đồng nhất quan điểm. Một số đông Tỳ kheo không tán thành việc
cho rằng mười điều trên là phi pháp bèn tổ chức một hội nghị kết
tập riêng và thành lập Ðại chúng bộ (Mahàsamghika); số
các trưởng lão còn lại cho rằng mười điều trên là hoàn toàn phi
pháp vẫn tiếp tục công tác kết tập kinh điển, sau đó hình thành
Thượng tọa bộ (Theravada).
- Như vậy, điều
nổi bật ở Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai là đánh dấu
khởi đầu của sự phân hóa về tổ chức Giáo hội. Giáo hội Tăng
già sau Hội nghị, đã chính thức phân thành hai bộ với những quan
điểm đối lập về giới luật. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị
trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Ðại chúng bộ gồm đa số Tỳ
kheo trẻ tuổi có khuynh hướng cấp tiến.
- Hội nghị kết
tập kinh điển lần thứ hai, có nơi gọi là "Phệ Xá Li (Vesali) kết
tập" hay "Thất bách kết tập".
- 2)- Hội
nghị kết tập kinh điển lần thứ ba:
- a/- Lý do kết
tập:
- Phật giáo
ngày càng được truyền bá rộng rãi trên nhiều vùng của lãnh thổ
Ấn Ðộ. Ðặc biệt, dưới triều đại của vua A Dục (Asoka), vì vua là
người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Tăng, Ni trở nên
đông đảo, trong đó có không ít kẻ cơ hội trà trộn vào đoàn thể
Tăng già và gây nên những mối bất hòa, do đó, Phật giáo trở nên
hỗn loạn, khó phân biệt chánh, tà. Ðây cũng là lúc mà các bộ
phái phân hóa đến cực điểm. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục
đã phát tâm khởi xướng và là người bảo trợ cho Hội nghị kết tập
kinh điển lần thứ ba trong lịch sử Phật giáo.
- b/- Diễn tiến
và kết quả:
- Thành phần
của Hội nghị lần này gồm có một ngàn vị Tăng ưu tú được tuyển
chọn từ khắp đất nước, dưới sự chủ tọa của Tôn giả Mục Liên Ðế
Tu (Moggaliputta Tissa), tổ chức tại Lâm Viên (Uyyàna), Hoa Thị
thành (Pataliputta), thuộc nước Ma Kiệt Ðà (Maggadha), vào
khoảng 218 năm sau Phật diệt độ, tức khoảng năm 325 trước TL.
Hội nghị diễn ra ròng rã trong chín tháng. Theo nhiều cứ liệu
thì phương thức kết tập cũng không khác mấy lần trước.
- Sau hội nghị,
ngoài sự kết tập về kinh và luật tạng, ngài Mục Liên Ðế Tu đã
soạn bộ Thuyết sự (Kathàvatnu) để nêu lên những điểm khác
biệt giữa Phật giáo và các học thuyết ngoại đạo, nhằm phản bác
giáo nghĩa của các ngoại đạo đương thời, loại trừ những hỗn loạn
trong Tăng già và củng cố sự trong sáng vốn có của Phật pháp.
Ðiểm nổi bật của Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ ba là lần
đầu tiên, Tam tạng Thánh điển được hình thành trọn vẹn.
-
3)- Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư:
- Hội nghị kết
tập kinh điển lần thứ tư diễn ra vào thời vua Ca Nị Sắc Ka
(Kanishka). Có nhiều sử liệu ghi nhận khác nhau về niên đại,
nhưng hợp lý nhất là vào khoảng bốn trăm năm sau Phật diệt độ,
đây là giai đoạn cuối của thời kỳ phân hóa bộ phái.
- a/- Lý do kết
tập:
- Vua Ca Nị Sắc
Ca (Kanishka) là người thâm tín Phật giáo, ham thích học hỏi
giáo lý. Tương truyền, mỗi ngày nhà vua đều có thỉnh một vị Tăng
vào cung thuyết giảng. Tuy nhiên, mỗi vị giảng sư đều có những
kiến giải bất đồng về lời Phật dạy nên nhà vua rất phân vân.
Ðược sự gợi ý của Hiếp Tôn Giả (Parsva), nhà vua đã khởi tâm bảo
trợ cho Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư.
- b/- Diễn tiến
và kết quả:
- Hội nghị đã
tuyển chọn năm trăm học giả tinh thông Tam tạng Thánh giáo từ
khắp nơi trong nước, do ngài Thế Hữu (Vasamitra) làm đệ nhất chủ
tọa và ngài Hiếp Tôn Giả (Parsva) làm đệ nhị chủ tọa. Hội nghị
tổ chức tại tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana Samgharama), nước
Kamistra. Hội nghị lần này đã bàn luận rất kỹ lưỡng nghĩa lý
cũng như các vấn đề khác của kinh và luật. Kết quả của Hội nghị
kết tập, ngoài kinh và luật tạng, những vấn đề thảo luận được
biên tập thành ba bộ luận (Ưu Bà Ðề Xá, Tì Nại Da Tì Bà Sa và A
Tỳ Ðạt Ma Ðại Tỳ Bà Sa) gồm chín trăm sáu mươi vạn lời (ba mươi
vạn bài tụng).
- Vua Ca Nị Sắc
Ca đã ra lệnh khắc toàn bộ kinh, luật, luận sau khi đã biên tập
lên trên những lá đồng, bảo quản nghiêm ngặt tại một nơi cố
định, ai có nhu cầu nghiên cứu thì đến đọc tại chỗ, tuyệt đối
không cho mang ra ngoài. Tuy nhiên, những bảo vật này cũng sớm
bị thất lạc, nay chỉ còn phần thích luận A Tỳ Ðạt Ma Ðại Tỳ Bà
Sa (Abhidharma Mahavibhasa sastra) mà ngài Huyền Trang đã dịch
sang chữ Hán, gồm hai trăm quyển.
-
II. Sự phân hóa của các bộ phái
-
1)- Nguyên nhân của sự phân hóa:
- Nguyên nhân
đưa đến khởi đầu sự phân hóa các bộ phái gồm nhiều yếu tố, nhưng
có thể phân thành hai, đó là nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân
trực tiếp.
- a/- Nguyên
nhân sâu xa:
- Như chúng ta
biết, Phật pháp là bất định pháp, tùy theo căn cơ, khả năng nhận
thức mà có những kiến giải bất đồng về nó. Ở thời kỳ Ðức Phật,
những bất đồng bao giờ cũng được Ngài hóa giải một cách êm thấm.
Sau khi Ngài diệt độ, không ai có thể thay thế được vai trò của
Ngài, và mầm mống của sự bất đồng, phân hóa dần dần lớn lên, trở
nên gay gắt và đưa tới sự phân chia bộ phái.
- Thêm nữa,
Phật giáo ngày càng được truyền bá rộng rãi trên khắp lãnh thổ
Ấn Ðộ nhưng lại chưa có một trung tâm cho Tăng già - Giáo hội
quy tụ, các vị Thánh tăng lần lượt qua đời, hoàn cảnh xã hội có
những thay đổi nhất định, từ những cách biệt đó có thể đưa đến
những quan điểm bất đồng, thậm chí đối lập trong nhận thức về
lời Phật dạy...
- b/- Nguyên
nhân trực tiếp (nguyên nhân chính):
- Theo sử liệu
của Phật giáo Nam truyền thì nguyên nhân đưa ra sự phân chia
Giáo hội thành hai bộ là Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ là do bất
đồng quan điểm về mười điều (phi pháp), như đã đề cập ở Hội nghị
kết tập kinh điển lần thứ hai, vào khoảng một trăm năm sau Phật
diệt độ.
- Các tài liệu
Phật giáo Bắc truyền, như bộ luận Dị bộ tông luận (3), được viết
vào khoảng giữa thế kỷ thứ II sau TL, thì cho rằng nhân
vì bất đồng về năm sự mà ngài Ðại Thiên (Mahadeva) (Ngũ sự Ðại
Thiên) nêu ra nên Giáo hội chia thành hai bộ là Thượng tọa bộ và
Ðại chúng bộ. Năm điều mà ngài Ðại Thiên đề xướng được tóm tắt
trong bài kệ sau:
- "Dư sở dụ, vô tri,
Do dự, tha linh nhập,
Ðạo nhân thanh cố khởi,
Thị danh chân Phật giáo"
- Nghĩa là:
- (1) Bậc A La
Hán tuy đã đoạn tận hết phiền não nhưng vì còn nhục thân nên về
sinh lý vẫn có hiện tượng di tinh trong mộng mị (Dư sở dụ).
- (2) A La Hán
đã đoạn tận vô minh nhưng không phải là người biết hết mọi điều
trong đời sống thế tục (vô tri).
- (3) A La Hán
tuy không còn do dự về con đường giải thoát, nhưng vẫn còn những
do dự về các điều vô hại, như làm thế nào thì hợp lý, thế nào
thì không (Do dự).
- (4) Có vị đã
chứng đắc A La Hán đôi khi phải nhờ Phật hay bậc sư trưởng chỉ
dẫn mới biết là mình đã chứng ngộ (tha linh nhập).
- (5) A La Hán
cũng có vị ngộ đạo nhờ vào âm thanh thuyết pháp, trong đó có sự
thuyết khổ và than khổ (Ðạo nhân thanh cố khởi).
- Và ngài Ðại
Thiên cho như vậy là hoàn toàn đúng với Phật pháp (Thị danh
chân Phật giáo).
- Thực tế năm
điều mà ngài Ðại Thiên nêu ra là nhằm để so sánh quả vị Phật và
A La Hán, Ngài quan niệm rằng chỉ có Phật mới là hoàn hảo, còn A
La Hán vẫn còn những khiếm khuyết. Quan niệm này đã dấy lên
những bất đồng. Nhóm tán thành lập ra Ðại chúng bộ, nhóm phản
đối lập nên Thượng tọa bộ.
- Quan điểm Nam
truyền thì cho rằng khởi nguồn của sự phân hóa Giáo hội là từ
những bất đồng về "mười điều phi pháp", như vậy là bất đồng về
giới luật; trong lúc đó quan điểm Bắc truyền thì cho rằng,
nguyên nhân là từ sự đối lập quan điểm về "ngũ sự Ðại Thiên", và
đây là bất đồng về giáo nghĩa. Nhìn chung, nguyên nhân trực tiếp
của sự phân hóa Giáo hội, ban đầu do bất đồng về việc ứng dụng
giới luật là phù hợp hơn; còn những bất đồng trong quan điểm về
giáo lý, cụ thể là qua "ngũ sự Ðại Thiên" hẳn cũng đang ngấm
ngầm, sau đó mới bộc phát.
- Sau này, khi
Ðại chúng bộ và Thượng tọa bộ có sự phân hóa thêm nhiều bộ con,
lại xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cụ thể như thế nào
sẽ đề cập ở phần tiếp theo.
-
2)- Diễn tiến của sự phân hóa và đặc điểm về giáo nghĩa của các
bộ phái:
- Về niên đại
diễn ra sự phân hóa các bộ phái, hiện nay có hai căn cứ chính.
Theo sử liệu Phật giáo Nam truyền thì sự phân hóa của cả hai bộ
phái diễn ra từ sau Phật diệt độ khoảng một trăm năm đến hơn hai
trăm năm. Sử liệu Phật giáo Bắc truyền thì ghi nhận: Ðại chúng
bộ phân hóa các bộ phái trong khoảng sau Phật diệt độ từ một
trăm năm đến hai trăm năm; niên đại phân hóa các bộ phái từ
Thượng tọa bộ diễn ra muộn hơn, trong khoảng sau Phật diệt độ từ
hai trăm năm đến ba trăm năm.
- Về tổng số
các bộ phái thì có đến nhiều chứng cứ: có nơi nói là có 24 bộ
phái tất cả, có nơi ghi là chỉ có 18 bộ phái hoặc 20 bộ phái, và
tên gọi cũng có đôi chỗ bất đồng. Ở đây, căn cứ vào Dị tông
luận (4) thống nhất tổng số các bộ phái là hai mươi (20).
- a/- Sự phân
hóa từ Ðại chúng bộ:
- Ðại chúng bộ
có sự phân hóa nội bộ diễn ra trước hết. Như chúng ta đã biết,
Ðại chúng bộ có khuynh hướng cấp tiến, tư tưởng tự do nên nội bộ
luôn có mầm mống của sự phân hóa, nhất là khi nảy sinh những vấn
đề mới.
- Trung tâm
hoằng pháp của Ðại chúng bộ đặt tại Ương Xà Quật (Amgotara),
thuộc vùng Trung Ấn. Ðại chúng bộ có bốn lần phân hóa, trước sau
gồm chín bộ, kể cả bộ gốc. Theo Ngao đầu tam luận huyền nghĩa
quán chú của ngài Chân Ðế (5), thì trong lúc Ðại chúng bộ
đang phổ biến tư tưởng của các bộ kinh như Hoa Nghiêm, Niết bàn,
Thắng Man, Duy Ma, Kim Quang Minh, Bát Nhã..., ngay trong nội bộ
có ý kiến ủng hộ nhưng cũng có những phản ứng bất đồng, và kết
quả là tại đây, từ Ðại chúng bộ đã phân hóa và hình thành thêm
ba bộ mới là Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ và Kê dận bộ.
- * Nhất thuyết
bộ (Ekavyavahàrikah) chủ trương rằng các pháp thế gian và xuất
thế gian đều là giả danh, không có thực thể.
- * Thuyết xuất
thế bộ (Lokottaravàdinàh) thì quan niệm pháp thế gian là do vọng
tưởng mà có, nhân vọng tưởng mà sinh ra phiền não, do phiền não
mà tạo nghiệp, do nghiệp mà chiêu cảm quả báo. Vì từ vọng tưởng
điên đảo mà có nên các pháp thế gian đều là hư vọng và giả danh.
Bộ phái này chỉ thừa nhận các pháp xuất thế gian mới thật có, vì
nó được khởi lên từ cảnh và trí chân thật.
- * Kê dận bộ
(Kankkutikàh) tập hợp những vị đề cao luận tạng. Họ cho rằng
kinh tạng và luật tạng là giáo lý do Ðức Phật phương tiện thuyết
tùy căn cơ, chỉ có luận tạng mới là giáo lý chân thật vì nó giải
thích rõ ý nghĩa của kinh và luật.
- Lần phân hóa
thứ hai, từ Ðại chúng bộ lại chia ra thành lập một bộ nữa là Ða
văn bộ (Bàhusrutiyàh), do ngài Tự Y Bì (Yajnavalkya) khởi xướng.
Tương truyền, thời Ðức Phật có đạo sĩ hiệu Tự Y Bì, sau khi xuất
gia theo Phật, chứng quả A La Hán, rồi vào núi Tuyết ẩn dật.
Khoảng hai trăm năm sau Phật diệt độ lại xuất hiện ở Ương Xà
Quật - trung tâm của Ðại chúng bộ đương thời - nhân nghe bộ này
hoằng truyền Tam tạng với giáo nghĩa thô thiển nên Ngài đã thành
lập Ða văn bộ để tuyên dương nghĩa lý thâm sâu của Phật pháp. Ða
văn bộ không đồng tình với chủ trương của Ðại chúng bộ cho rằng
tất cả lời Phật đều là chuyển pháp luân, mà quan niệm chỉ có ngũ
ấm (vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết bàn) và Bát chánh đạo
mới là chuyển pháp luân; những lời dạy khác của Ðức Phật chỉ là
thánh giáo, thuộc thế gian pháp.
- Thuyết giả bộ
(Prajnàptivadinàh) là kết quả của sự phân hóa lần thứ tư từ Ðại
chúng bộ, do ngài Ðại Ca Chiên Diên (Mahakatyayana) ở nước Ðại
Lạt Ðà (Maharattha) thành lập. Thuyết giả bộ có lập trường là
phân biệt thánh giáo gồm có nhiều cấp độ: do Phật giả lập
thuyết, chân thật thuyết, có ý nghĩa tương đối, ý nghĩa tuyệt
đối; các pháp thế gian và xuất thế gian đều có một phần là giả
thuyết.
- Lần phân hóa
thứ tư, từ Ðại chúng bộ chia ra và thành lập thêm ba bộ là Chế
đa sơn bộ (Caityasailàh), Tây sơn trú bộ (Aparasailàh) và Bắc
sơn trú bộ (Uttarasailàh). Nguyên do của sự phân hóa này là,
khoảng cuối trăm năm thứ hai sau Phật diệt độ, Ðại chúng bộ được
ưu đãi nên có nhiều ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng già,
trong đó có không ít người nghiên cứu thông suốt Tam tạng kinh
điển. Khi bộ này tổ chức sàng lọc để loại thành phần này ra khỏi
đoàn thể, thì có một nhóm khoảng ba trăm người tài trí do Tỳ
kheo Ðại Thiên làm thủ lĩnh không chịu bị khai trừ, đã nhóm họp
tại núi Chế Ða, đem "ngũ sự Ðại Thiên" ra tranh luận, do bất
đồng quan điểm nên lại chia thành ba bộ, gọi tên bộ phái theo
căn cứ như đã thấy ở trên.
- Tóm lại, sự
phân hóa của Ðại chúng bộ có thể giản lược theo sơ đồ sau:
- Ðại chúng bộ
|
- 1. Nhất thuyết bộ
|
- Phân hóa lần I
|
- 2. Thuyết xuất thế bộ
|
- 3. Kê dận bộ
|
- 4. Ða văn bộ
|
- Phân hóa lần II
|
- 5. Thuyết giả bộ
|
- Phân hóa lần III
|
- 6. Chế đa sơn bộ
|
- Phân hóa lần IV
|
- 7. Tây sơn trú bộ
|
- 8. Bắc sơn trú bộ
|
- b/- Sự phân hóa
từ Thượng tọa bộ:
- Trong khi Ðại
chúng bộ diễn ra sự phân hóa thì Thượng tọa bộ, với khuynh hướng
thủ cựu, coi trọng sự truyền thừa nên vẫn hòa hợp và đồng nhất.
Tuy nhiên, dưới sự tác động của sự phân hóa từ Ðại chúng bộ cũng
như sự thay đổi của những điều kiện xã hội, đến đầu trăm năm thứ
ba sau Phật diệt độ, nội bộ của Thượng tọa bộ nảy sinh những bất
đồng về quan điểm đối với Tam tạng và bắt đầu quá trình phân hóa.
Tổng cộng có tám lần phân chia tất cả, hình thành mười một bộ (kể
cả bộ gốc: Thượng tọa bộ = Tuyết sơn bộ).
- Như chúng ta đã
biết, Thượng tọa bộ chủ trương coi trọng kinh tạng mà xem thường
luật và luận tạng. Vì bộ này quan niệm luật là do Phật tùy căn cơ
chế định, luận thì chỉ nhằm giải thích kinh và luật nên thường đi
xa sự thật của lời Phật dạy, chỉ có kinh tạng là uyên nguyên, là
căn bản cho mọi quy củ. Nhưng đến đầu trăm năm thứ ba sau Phật
diệt độ, quan niệm này không còn được nhất trí trong bộ phái.
Trong thành viên của Thượng tọa bộ có một nhóm người theo khuynh
hướng tư biện lý luận, nổi bật hơn cả là ngài Ca Ða Diễn Ni Tử
(Katyayaniputra), chủ trương đề cao luận tạng, nhân sự bất đồng
trên nên nhóm này tách khỏi Thượng tọa bộ và thành lập Thuyết nhất
thiết hữu bộ (Saivàstivàdàh), gọi tắt là Hữu bộ, cũng có tên khác
là Thuyết nhân bộ (Hetuvàdàh). Hữu bộ sau khi thành lập liền có
thanh thế rất lớn, chiếm hẳn căn cứ của bộ gốc và Thượng tọa bộ
yếu thế dần, chuyển căn cứ đến Tuyết sơn rồi tự đổi tên thành
Tuyết sơn bộ (Haimavàtàh) nhưng thực chất chính là nội dung của
Thượng tọa bộ. Ðặc điểm cơ bản của giáo nghĩa Hữu bộ là quan niệm
tất cả các pháp đều là thực hữu.
- Từ Hữu bộ lại
có sự phân hóa và thành lập thêm Ðộc Tử bộ (Vatsipatriyàli). Ðộc
Tử (Vatsiputra) là tên vị bộ chủ đệ tử của ngài La Hầu La
(Lahula), La Hầu La là học trò của ngài Xá Lợi Phất (Sariputra).
Bộ này vẫn chủ trương đề cao luận tạng, nhưng điểm khác biệt với
Hữu bộ là chỉ căn cứ vào Pháp uẩn túc luận tương truyền do
ngài Xá Lợi Phất soạn.
- Sau đó, nhân vì
những bất đồng quan điểm trong việc giải thích một bài kệ nói về
bốn quả Thánh (6) trong bộ luận của ngài Xá Lợi Phất, có quan điểm
dùng ý kinh thêm vào nhằm bổ túc nghĩa lý cho bài kệ mà Ðộc Tử bộ
lại phân hóa và thành lập thêm bốn bộ phái độc lập là Pháp Thượng
bộ (Dharmottariyàh), Hiền trú bộ (Dhadrayàniyàh), Chánh lượng bộ
(Sammitiyàh) và Mật lâm sơn bộ (Sandagirikàh). Ngoài những quan
điểm bất đồng trong việc giải thích bài kệ như đã nói ở trên, bốn
bộ phái này đều có một nét chung là vẫn cùng đề cao luận tạng.
- Vào khoảng sau
Phật diệt độ ba trăm năm, lại từ Hữu bộ phân hóa và thành lập thêm
một bộ phái nữa là Hóa Ðịa bộ (Mahìsarakàh). Tân bộ phái này lập
tên bộ phái theo tên bộ chủ (Hóa Ðịa), ngài Hóa Ðịa nguyên là một
Bà La Môn thông hiểu bốn Vệ Ðà, sau xuất gia theo Hữu bộ và chứng
ngộ A La Hán, ngài thường vận dụng tri thức quảng lãm của mình để
giải thích lời Phật dạy và được một nhóm người đồng tình, do đó đã
tách ra khỏi Hữu bộ và lập một bộ phái riêng.
- Từ Hóa địa bộ
tiếp tục phân hóa, có thêm Pháp Tạng bộ (Dharmaguptakàh). Pháp
Tạng (Dharmagupta) là tên của bộ chủ, nói là đệ tử của Tôn giả Mục
Kiền Liên (Moggallàna). Lúc Tôn giả Mục Kiền Liên sinh tiền, Ngài
thường theo thầy mình và được nghe Tôn giả thuyết giảng. Sau khi
thầy của Ngài tịch, Ngài đã kết tập theo ký ức những lời giảng đó
và chia thành năm tạng là kinh, luật, luận, chú và Bồ tát tạng.
Chủ kiến của Ngài đã được một số trong Hóa Ðịa bộ ủng hộ và rồi
tách ra thành một bộ phái độc lập.
- Hữu bộ, về sau
này, vẫn còn tiếp tục phân hóa thêm hai lần nữa. Trong hàng ngũ
của Hữu bộ có một Tỳ kheo chứng quả A La Hán tên là Ẩm Quang
(Kàsyapa), một hôm Ngài tuyên bố rằng, những lời Phật dạy tựu
trung có hai loại: một nhằm đối trị phiền não, và một là để chỉ ra
những bất ổn của các học thuyết ngoại đạo. Ngài Ẩm Quang được
nhiều người theo, rồi lập nên Ẩm Quang bộ (Kàsyapiyàh), lấy tên
Ngài để gọi tên cho bộ phái.
- Trong Hữu bộ
lại nảy sinh quan điểm xem kinh tạng mới là căn cứ giáo lý quan
trọng nhất, như lập trường của Thượng tọa bộ trước đây, điều này
cũng có nghĩa là mâu thuẫn với Hữu bộ, từ đó thành lập một bộ phái
độc lập lấy tên là Kinh lượng bộ (Sautràntikàh) hay còn có tên
khác là Thuyết chuyển bộ (Samkràntivàdàh). Ðây là lần phân hóa
cuối cùng trong hệ thống của Thượng tọa bộ.
- Tóm lại, diễn
tiến của sự phân hóa các bộ phái từ Thượng tọa bộ có thể tóm tắt
trong lược đồ sau:
- Thượng tọa bộ
|
- 1. Thuyết nhất thuyết hữu
bộ, (Hữu bộ)
(I)
|
- 3. Ðộc tử bộ
(II)
|
- 4. Pháp thượng bộ
(III)
|
- 5. Hiền trụ bộ
(III)
|
- 6. Chánh lượng bộ
(III)
|
- 7. Mật lâm sơn bộ
(III)
|
- 8. Hóa địa bộ
(IV)
|
- 9. Pháp ttạng bộ
(V)
|
- 10. Ẩm quang bộ
(VI)
|
-
|
- 11. Kinh lượng bộ
(VII)
|
- 2. Tuyết sơn bộ
(= Thượng tọa bộ) (I)
|
-
|
-
|
- (I, II, III...
VII là ký hiệu của số lần phân hóa)
- c/- Ðặc điểm về giáo
nghĩa của các bộ phái:
- Từ những bất
đồng về giới luật (tán thành và không tán thành về "mười điều phi
pháp"), Giáo hội đã phân hóa ra hai, là Thượng tọa bộ và Ðại chúng
bộ. Trên cơ sở sự phân hóa về tổ chức giáo đoàn, ngoài những điểm
tương đồng trong các vấn đề giáo lý cơ bản, hai bộ trên đã dần dần
hình thành một số điểm dị biệt trong nhận thức về vạn pháp, sự tu
hành, quả vị chứng ngộ... Nhìn một cách khái quát, như đã đề cập ở
phần trước, cả hai bộ đều y cứ vào giáo nghĩa nguyên thủy; tuy
nhiên, Thượng tọa bộ có khuynh hướng bảo thủ, tôn trọng giới luật,
coi trọng truyền thống và nỗ lực nhằm bảo lưu mọi giá trị của
truyền thống, nên có phần nặng về hình thức; Ðại chúng bộ thì có
khuynh hướng cấp tiến, đề cao trí tuệ, có phần chú trọng lý tưởng
hơn là những quy định vốn có trong truyền thống, đặc biệt là về
quy định trong tổ chức giáo đoàn. Những điểm tương đồng và dị biệt
rất tinh tế và tương đối phức tạp, không thể nói ra một cách cụ
thể ở đây, vì rất dài dòng, mà chỉ sơ lược đặc điểm tinh thần như
thế. Xin đơn cử một thí dụ: cả Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ đều
lấy giáo lý Tứ diệu đế làm căn bản, nhưng không đồng nhau trong sự
nhấn mạnh bốn chi phần của giáo lý này. Thượng tọa bộ thì nhấn
mạnh đến Khổ đế và Tập đế, tức là có chủ ý lấy thế giới thực tại
làm trọng tâm; giáo nghĩa của Ðại chúng bộ thì nhấn mạnh Diệt đế
và Ðạo đế, tức là có ý xem trọng thế giới lý tưởng...
- Về mặt tổ chức,
sau khi phân hóa thì Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ hình thành như
hai hệ thống. Tuy nhiên, trong giáo nghĩa của các bộ phái thì
không đơn thuần thừa kế và phát huy theo khuôn khổ của hai hệ
thống trên. Thực tế cho thấy là, có bộ phái phân hóa từ Ðại chúng
bộ nhưng giáo nghĩa lại phần nhiều tương đồng với giáo nghĩa của
Thượng tọa bộ, và ngược lại, có một số bộ phái phân hóa từ Thượng
tọa bộ nhưng giáo nghĩa lại gần gũi với Ðại chúng bộ, hay có bộ
phái dung hợp rồi phát triển thêm những quan điểm giáo nghĩa rất
đặc thù... Ðó là trường hợp của Ða văn bộ, được phân hóa từ Ðại
chúng bộ nhưng giáo nghĩa thì phần nhiều tương đồng với Hữu bộ;
hoặc như Hóa Ðịa bộ, Pháp Tạng bộ, Ẩm Quang bộ đều thuộc Thượng
tọa bộ nhưng giáo nghĩa thì đa phần gần gũi với Ðại chúng bộ...
- Ðối chiếu và
phân tích những đặc điểm giáo nghĩa của các bộ phái, các nhà
nghiên cứu Phật học đã chia hai mươi bộ phái thành các hệ thống,
như hệ thống Ðại chúng bộ, hệ thống Hữu bộ, hệ thống Ðộc Tử bộ, hệ
thống Kinh lượng bộ và hệ thống chiết trung (những bộ phái có sự
ảnh hưởng giáo nghĩa của các bộ phái khác ngoài bộ gốc). Trong đó
có hệ thống Ðộc Tử bộ và Kinh lượng bộ đã phổ biến một số học
thuyết rất đặc thù và gần gũi với tư tưởng của Phật giáo Phát
triển (Mahayana) sau này. Tiêu biểu là thuyết "Bất khả thuyết
tạng" (7) của Ðộc Tử bộ và học thuyết "vô lậu chủng tử" (8),
"Thắng nghĩa ngã" của Kinh lượng bộ (9).
- Nhìn chung, tư
tưởng Phật giáo trong thời kỳ phân hóa các bộ phái là "phong phú
đến phức tạp về học thuyết". Về mặt tư tưởng thì nó góp phần làm
cho tư tưởng Phật giáo thêm phong phú và đồ sộ, vì các bộ phái đều
nỗ lực phát huy, khai triển một phần nào đó của Phật pháp, sự khác
nhau là chỉ ở góc độ nhận thức. Tuy nhiên, tài liệu lịch sử nói về
thời kỳ này thì khá hiếm hoi. Ðã vậy, các nguồn sử liệu lại có đôi
chỗ bất đồng về niên đại cũng như nguyên nhân phân hóa, có lẽ là
do xuất phát từ hạn chế trong quan niệm. Trên đây chỉ là những nét
sơ lược về nguyên nhân, tiến trình phân hóa và đặc điểm giáo nghĩa
của các bộ phái.
- Ðiều đáng chú ý
là suốt mấy trăm năm, trong quá trình phân hóa cũng như sau khi
phân hóa, tuy có những bất đồng về quan điểm nhưng không hề xảy ra
cuộc bạo động nào nhằm áp chế bộ phái đối lập và để biểu dương
thanh thế của bộ phái. Qua đó đã nói lên một trong những đặc điểm
của Phật giáo là tự do tư tưởng. Ðiều này thể hiện rất rõ
trong thời kỳ Phật giáo bộ phái.
- Mặt khác, sau
khi thành lập, các bộ phái phải nỗ lực phát huy tư tưởng nhằm để
giữ vững vị trí của mình. Sự nỗ lực đó đã đem lại kết quả là hệ
thống văn học A Tỳ Ðàm (Abhidhamma) đã hình thành, nổi bật là kho
tàng luận thư của Thượng tọa bộ và Hữu bộ.
-
III. Phật giáo từ triều đại vua A Dục
(Asoka) đến triều đại vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka)
-
1)-
Vai trò của vua A Dục trong sự truyền bá Phật giáo:
- Vua A Dục (trị
vì 269-232 trước TL, khoảng hơn hai trăm năm sau Phật diệt độ) là
người có công thống nhất Ấn Ðộ, xây dựng đất nước trở nên hùng
cường về mọi mặt. Nhà vua là vị lãnh đạo đã áp dụng đạo đức Phật
giáo vào đường lối, chính sách cai trị, và đồng thời, vua A Dục là
một Phật tử hộ đạo vĩ đại bậc nhất trong lịch sử, đặc biệt là lịch
sử truyền bá Phật giáo ra ngoài Ấn Ðộ.
- Sau những cuộc
chiến đẫm máu, dù thắng lợi vẻ vang nhưng nhà vua chợt nhận ra một
điều hệ trọng là cội nguồn hạnh phúc, giá trị của con người không
phải ở bên ngoài mà ở ngay trong chính bản thân của mỗi cá nhân.
Từ một ông vua hung hãn, vua A Dục đã quy y Phật giáo và trở thành
một Phật tử nhiệt thành hộ trì Phật giáo, được lịch sử ca ngợi là
một đấng anh quân vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Ðộ.
- Tự xưng là Phật
tử, nhà vua đã thân hành chiêm bái các thánh tích, và tại mỗi nơi
quan trọng, nhà vua đều cho dựng trụ đá để tưởng niệm Ðức Phật.
Những trụ đá và các sắc lệnh được khắc lên đó sau này là một chứng
tích khảo cổ quý giá, giúp chúng ta hiểu thêm về Ðức Phật và lịch
sử của giai đoạn này.
- Ý thức rõ giá
trị thiết thực của tư tưởng Phật giáo trong việc xây dựng xã hội,
đất nước lâu dài, vua A Dục đã tích cực truyền bá tư tưởng Phật
giáo không chỉ khắp trong lãnh thổ Ấn Ðộ, mà còn ra ngoài nước, cử
các đoàn truyền giáo đến Hy Lạp, Ai Cập, các nước thuộc vùng Ðịa
Trung Hải, Tích Lan (Sri Lanka)... khiến cho thế giới biết đến
Phật giáo và đạo Phật trở thành một trong những tôn giáo, tư tưởng
lớn của nhân loại.
- Một trong những
đoàn truyền giáo do nhà vua cử đi có đoàn của hoàng tử Mahinda, đã
mang kinh điển sau khi đã được kết tập ở Hội nghị kết tập lần thứ
hai, do nhà vua bảo trợ và tổ chức, đến Tích Lan (Sri Lanka) để
sau đó kinh điển này được kết tập ở đây thành tạng Pali, xem như
là một căn cứ văn bản Tam tạng Thánh giáo cổ xưa nhất hiện nay.
- Có một điều
không thể quên là, triều đại của vua A Dục gặp lúc Phật giáo phân
hóa có thể nói là đến cực điểm, tuy vậy chúng ta vẫn không thấy
nhà vua có sự can thiệp vào sự phân hóa các bộ phái và cũng không
thấy nhà vua có thái độ thiên vị một bộ phái nào. Ðặc điểm đạo đức
mà nhà vua khích lệ dân chúng thực hành là con đường trung đạo,
tránh xa những cực đoan. Chính sách cai trị của nhà vua là cởi mở,
không thiên vị người Phật tử hay không Phật tử...
- Tóm lại, Phật
giáo ở đời vua A Dục phát triển rất mạnh mẽ. Phật giáo không chỉ
được truyền bá khắp nơi trong lãnh thổ mà còn truyền bá đến các
nước Hy Lạp, Ai Cập, Syria và hầu hết vùng phía Ðông của bờ biển
Ðịa Trung Hải; các nước Aparantaka, Kamboja thuộc phía Bắc Ấn Ðộ;
Pulinda, Bhoja, Pitinika, Andhra, Cola, Pandya và Sri Lanka
(Tambapanni) ở phía Nam lãnh thổ Ấn Ðộ...
-
2)-
Phật giáo sau triều đại vua A Dục:
- Sau khi vua A Dục qua đời (khoảng
năm 232 trước TL), những người kế vị phần nhiều tin theo Bà La Môn
giáo và Kỳ Na giáo nên Phật giáo không còn được ưu đãi, bảo hộ như
xưa. Khoảng đầu thế kỷ II trước TL, có võ tướng tên là Bổ Sa Mật
Ða (Pusyamitra) tiếm ngôi vua và lập nên một triều đại mới là
Sunga. Pusyamitra là người mộ Bà La Môn giáo và đã bức hại Phật
giáo. Những vương triều kế tiếp đều tin theo tín ngưỡng Bà La Môn,
nên Phật giáo tại vùng Trung Ấn, nơi mà thế lực của các vương
triều trên chi phối, suy yếu dần; tuy nhiên, tại các vùng Bắc Ấn
và Tây Ấn, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển, có nhiều bậc cao
minh du hóa.
- Giai đoạn này
đặc biệt để lại hàng loạt di tích kiến trúc Phật giáo. Ngoài hàng
ngàn ngôi bảo sát được vua A Dục cho xây dựng khắp nơi để thờ
Phật, hiện nay vẫn còn lưu giữ dấu ấn của thời đại này qua những
công trình như tháp Phật ở vườn Nai (Lộc Uyển), Bồ đề đạo tràng,
động Ellora, Ajanta (niên đại khoảng thế kỷ II trước TL)...
-
3)-
Phật giáo ở triều đại vua Ca Nị Sắc Na (Kanishka):
- Vua Ca Nị Sắc
Ca (Kanishka) trị vì Ấn Ðộ sau vua A Dục khoảng ba trăm năm (tức
khoảng đầu thế kỷ thứ II sau TL). Vua là người rất mộ Phật giáo,
công lao của ông đối với Phật giáo được so sánh gần ngang với vua
A Dục.
- Vương triều
Kanishka có thế lực rất hùng mạnh, đã chinh phục sang cả một số
vùng lãnh thổ của nhà Hậu Hán như Kashgar, Varkand, Khotan... Sử
liệu ghi lại rằng, trong các bộ phái, vua Kanishka chuộng Hữu bộ
hơn cả.
- khắc ghi thành
văn bản Tam tạng kinh điển ở Hội nghị kết tập lần thứ tư, như đã
đề cập ở phần trước. Trong thời gian trị vì, nhà vua đã cho xây
dựng nhiều công trình kiến trúc Phật giáo như bảo tháp để tôn thờ
xá lợi Phật khắp nơi trong nước.
- Trong ba mươi
năm trị vì của vua Kanishka, dưới sự hộ trì của người lãnh đạo tối
cao của đất nước, Phật giáo đã phát triển rất mạnh, không thua kém
gì thời vua A Dục trước đó. Tuy nhiên, sau triều đại vua Ca Nị Sắc
Ca, có triều đại thì ủng hộ, có triều đại thì bài xích, nên Phật
giáo cũng thăng trầm, biến thiên theo lịch sử; nhưng lúc phát
triển nhất cũng không thể sánh với tầm ảnh hưởng sâu rộng như dưới
triều đại của vua A Dục và vua Ca Nị Sắc Ca.
-
-
C. Thời kỳ Phật giáo Phát triển
(Mahayana)
-
I- Khái niệm
- Chữ Mahayana
dịch âm Hán-Việt là Ðại thừa, thường được hiểu là cỗ xe (pháp)
lớn. Thuật ngữ này có thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I trước
TL, nhưng đến thế kỷ thứ III sau TL mới được xác định rõ ràng qua
những tác phẩm của ngài Long Thọ (Nagarjuna) với lập trường các
pháp không có tự thể bất biến (tánh Không). Ðại thừa (Mahayana)
cũng có ý chỉ cho những tư tưởng thượng thừa, cao siêu, thâm
thúy...
- Thuật ngữ
Mahayana (Ðại thừa) thường đi đôi với Hinayana (Tiểu thừa) mà
thường bị phân biệt hai phương pháp tu hành: ích kỷ, chỉ vì mục
đích giải thoát cho cá nhân (Tiểu thừa) và vị tha, giúp người giải
thoát đồng thời giải thoát cho mình (Ðại thừa). Các nhà nghiên cứu
Phật học đã chỉ ra đó là một sự nhầm lẫn. Mahayana là khái niệm
chỉ cho khuynh hướng khai triển tư tưởng vô ngã thành một hệ thống
triết học thâm thúy, hoàn hảo, chặt chẽ.
- Ở đây, gọi
"thời kỳ Phật giáo Phát triển" là chỉ cho thời kỳ lịch sử mà tư
tưởng trên hưng thịnh, truyền bá rộng rãi và trở thành một tư
tưởng nổi bật nhất của Phật giáo, khoảng từ đầu thế kỷ thứ III đến
hết thế kỷ thứ VIII sau TL.
-
II- Nguồn gốc của tư tưởng Phật giáo Ðại
thừa (Mahayana)
- Nói một cách
dứt khoát rằng, tư tưởng Phật giáo Ðại thừa đã có từ thời Ðức
Phật. Trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái, tư tưởng này đã hình thành
tương đối rõ ở Ðại chúng bộ và xen lẫn trong giáo nghĩa của các bộ
phái khác. Trước ngài Long Thọ (Nagarjuna) đã có những Thánh tăng
hoằng dương Phật giáo Ðại thừa như Na Tiên Tỳ kheo (Nagasenna),
ngài Thế Hữu (Vasumitra), Mã Minh (Asvaghosa)... chủ yếu là ở vùng
Bắc Ấn.
- Như đã có lần
đề cập, trước thế kỷ thứ III sau TL, tức trước thời đại của ngài
Long Thọ, những bộ kinh quan trọng của Ðại thừa như Bát Nhã
(Prajnàparamita sutra), Hoa Nghiêm (Gandavỳuha), Duy Ma Cật
(Vimàlakirtinirdèsa sutra), Thủ Lăng Nghiêm tam muội (Surangama
samadhi sutra), Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Pundarika sutra) và
một số bản kinh thuộc tư tưởng Tịnh độ đã được phổ biến, nhất là
tại Nam Ấn và Ðông Ấn và đặc biệt là tại Bắc Ấn, những nơi chịu
ảnh hưởng mạnh của Ðại chúng bộ.
- Tuy nhiên, phải đến thời đại của
ngài Long Thọ, tư tưởng này mới được phát triển rực rỡ chưa từng
có trước đó. Tư tưởng này cũng đã sớm tạo nên những ảnh hưởng rất
lớn lên các hệ tư tưởng khác, không những trong nước mà cũng được
truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Tây Tạng, Việt Nam... ngay khi mới du nhập.
- Trên phương
diện giáo lý, những tư tưởng trên không gì khác hơn là sự phát
triển về sau và dồi dào, hệ thống hóa giáo lý Phật giáo Nguyên
thủy; và với lý tưởng Bồ tát, có thể nói, là một khuynh hướng,
phương thức "xã hội hóa" Phật giáo để phù hợp với những thay đổi
của thời đại.
- Bây giờ, chúng
ta sẽ tìm hiểu lịch sử Phật giáo qua những thời đại gắn liền với
tên tuổi của các vị luận sư nổi tiếng, tiêu biểu trong thời kỳ
này.
-
III- Phật giáo ở thời đại của ngài Long
Thọ
-
1)-
Vài nét về ngài Long Thọ:
- Nói đến Phật
giáo Phát triển (Ðại thừa), trước hết người ta thường nhắc đến tên
tuổi của ngài Long Thọ, vì Ngài là người có công trong việc chú
thích các bộ kinh căn bản rồi hệ thống hóa giáo nghĩa và hoằng
dương cho tư tưởng này rất tích cực.
- Ngài sinh vào
đầu thế kỷ thứ III sau TL, tức khoảng bảy trăm năm sau Phật diệt
độ, thuộc dòng dõi Bà La Môn tại Nam Ấn, bẩm tính thông minh xuất
chúng; trước Ngài tu theo ngoại đạo, sau theo Phật giáo, thông
hiểu các giáo nghĩa. Ngài là tác giả của nhiều bộ luận nổi tiếng
như Trung Quán, Ðại Trí Ðộ, Thập trụ tỳ bà sa..., tổng cộng
trên mười ba bộ, chú thích về kinh Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa
Nghiêm...
-
2)-
Tư tưởng của ngài Long Thọ:
- quan trọng nên
Ngài được nhiều tông phái như Tịnh độ, Hoa Nghiêm, Tam Luận
tông... tôn xưng là Tổ khai sáng. Tuy nhiên, có thể nhận ra tư
tưởng chủ đạo của Ngài là triết học tánh Không được trình
bày qua bộ luận bất hủ Trung Quán, đại để là "Tất cả các
pháp là vô ngã hay không. Ðể đạt đến chấm dứt khổ
đau, cần phải chứng ngộ đạo lý không ấy. Niết bàn là không
tánh (vô ngã)".
- Sau thời ngài
Long Thọ, có các nhân vật nổi bật là Ðề Bà (Deva) - đệ tử của Ngài
- và La Hầu La Bạt Ða La (Ràhula Bhadra) - học trò của ngài Ðề Bà.
- Ngài Ðề Bà cũng
là người Nam Ấn, sinh khoảng cuối thế kỷ thứ III sau TL. Ngài là
người xuất chúng, có tài hùng biện, thường được cử đi hàng phục
ngoại đạo và các giáo nghĩa khác khắp nơi. Một số nguồn sử liệu
cho biết, về sau Ngài đã bị ngoại đạo hãm hại. Ngài Ðề Bà là người
kế thừa và phát huy tư tưởng của thầy mình, dựa trên lập trường
Trung Quán luận để viết các bộ luận nhằm xây dựng một hệ thống
lý luận chặt chẽ có mục đích là "phá tà hiển chánh". Ngài La Hầu
La Bạt Ðà La thì cũng sinh trưởng vào khoảng cuối thế kỷ thứ III
sau TL, người Trung Ấn, tiếp tục sự nghiệp của thầy viết các bộ
luận chú thích Trung Quán luận, nhưng tác phẩm của Ngài nay
đã thất truyền. Tư tưởng Phật giáo Ðại thừa do ngài Long Thọ khai
triển truyền bá rộng rãi ở miền Nam Ấn Ðộ, có xu hướng phát triển
về Trung Ấn, có ảnh hưởng rất lớn đương thời.
-
IV- Phật giáo ở thời đại ngài Vô Trước
(Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu)
-
1)-
Các bộ kinh xuất hiện sau thời ngài Long Thọ:
- Sau thời đại
ngài Long Thọ và trước khi hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân ra
đời, bấy giờ có một số bộ kinh hình thành và được truyền bá tương
đối rộng rãi như kinh Thắng Man với tư tưởng Như Lai tạng (Phật
tính) làm trung tâm; kinh Ðại Bát Niết Bàn thuyết minh về Pháp
thân thường trụ, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và Nhất xiển
đề thành Phật; kinh Lăng Già (Lankavatara) với giáo nghĩa nổi bật
là Như Lai tạng và A lại da thức; kinh Giải Thâm Mật với tư tưởng
làm căn bản cho lĩnh vực duy thức học...
-
2)-
Vài nét về ngài Vô Trước và Thế Thân:
- Theo nhiều
nguồn tài liệu, các ngài Vô Trước và Thế Thân là anh em cùng mẹ
khác cha, ra đời sau ngài Long Thọ hơn một trăm năm, tức khoảng
cuối thế kỷ thứ IV sau TL. Ngài Thế Thân lớn hơn em là ngài Vô
Trước khoảng hai mươi tuổi.
- Ngài Vô Trước
đã từng tin theo Bà La Môn giáo, sau xuất gia theo Hữu bộ rồi
nghiên cứu kinh điển Phật giáo Ðại thừa và tích cực truyền bá tư
tưởng này. Tương truyền, Ngài đã được nghe Ðức Di Lặc Bồ tát
(Maitreya) thuyết pháp tại cung trời Ðâu Suất (Tusit) (?). Ngài là
người đã viết nhiều bộ luận, trong đó phân thành hai: một, do Ngài
thuật lại lời Bồ tát Di Lặc; và một, do chính Ngài soạn.
- Ngài Thế Thân
lúc đầu cũng xuất gia theo Hữu bộ, dấu ấn đó để lại qua bộ luận
Câu Xá nổi tiếng, tổng hợp giáo nghĩa của bộ phái này; sau
được anh khuyên, Ngài chuyển sang nghiên cứu và tích cực hoằng
dương tư tưởng Phật giáo Ðại thừa. Ngài là người có một đầu óc phi
thường, tác giả của cả ngàn bộ luận, được mệnh danh là "Thiên bộ
luận sư", trong số đó có những bộ luận làm cơ sở của ngành Duy
thức học, có giá trị như những tác phẩm "kinh điển", như Duy
thức tam thập tụng, Ðại thừa bách pháp minh môn luận, A Tỳ Ðạt Ma
Câu Xá luận...
- Ngài Vô Trước
mất ở tuổi bảy mươi sáu, còn ngài Thế Thân thì thọ đến tám mươi
tuổi. Những tác phẩm chú thích kinh điển của hai Ngài, cùng với
ngài Di Lặc, là những bộ luận bất hủ, rất quan trọng trong lịch sử
Phật giáo.
-
3)-
Ðặc điểm tư tưởng của ngài Vô Trước và Thế Thân:
- Ðối với ngài Vô
Trước, hầu hết những trước tác của Ngài nhằm để thuyết minh cho tư
tưởng "Ai lại da duyên khởi" (Duyên khởi luận), nghĩa là các pháp
trên thế gian đều không ngoài tâm thức con người mà có, và cội
nguồn cho sự hiện hữu của các pháp là thức A lại da (thức thứ tám
- Alaya). Riêng với Thiên bộ luận sư, vì Ngài là một đầu óc quảng
lãm nên tư tưởng của Ngài cũng phong phú; tuy nhiên, về căn bản,
kể từ sau khi Ngài chuyển sang nghiên cứu kinh điển Phật giáo Ðại
thừa, thì tư tưởng của Ngài là tương đồng với lập trường của ngài
Vô Trước, nghĩa là cũng thuộc "Duyên khởi luận".
- Tư tưởng do anh
em các ngài Vô Trước, Thế Thân phát triển chủ yếu phổ biến trước
hết ở Bắc Ấn, có xu hướng ngày càng truyền bá về phía Nam.
-
V- Sự hình thành và hưng thịnh của đại
tòng lâm Na Lan Ðà (Nalanda) - trung tâm của thời kỳ Phật giáo
Phát triển
-
1)-
Sự hình thành hai hệ thống tư tưởng Phật giáo lớn:
- Tư tưởng do
ngài Long Thọ và anh em ngài Vô Trước, Thế Thân phát triển không
lâu sau trở thành hai hệ thống tư tưởng chính của Phật giáo đương
thời, gọi là trường phái Trung Quán và trường phái Du
Già.
- Trường phái
Trung Quán thuộc "Thật tướng luận", do ngài Long Thọ khởi xướng,
xuất phát từ Nam Ấn lan dần xuống phía Nam. Sau ngài Ðề Bà (Deva)
và La hầu La Bạt Ðà La (Rahula Badhra), từ thế kỷ thứ IV trở đi có
các vị luận sư xuất sắc kế thừa và phát huy như các ngài Thanh Mục
(Pingala), Phật Hộ (Buddhapàlita); thế kỷ VI sau TL lại có các
ngài Thanh biện (Bhàvaviveka), Trí Quang, Nguyệt Xứng
(Candrakirti)... tích cực truyền bá, làm cho trường phái này hưng
thịnh, có một vị trí quan trọng trong Phật giáo. Ðầu thế kỷ thứ
VII sau TL lại có các ngài Sư Tử Quang, Thắng Quang, Trí Hộ...
tiếp tục truyền bá và xiển dương tư tưởng của Trung Quán luận.
- Trường phái Du
Già thuộc "Duyên khởi luận", do anh em luận sư Vô Trước và Thế
Thân khởi xướng, xuất phát từ Bắc Ấn rồi lan truyền đến miền Nam.
Sau thời đại các ngài Vô Trước và Thế Thân khoảng hai trăm năm
(tức khoảng thế kỷ thứ VI sau TL, trường phái này xuất hiện nhiều
bậc luận sư tài ba như ngài Thân Thắng (Bandhusri), Hỏa Biện
(Citrabhàna), Ðức Tuệ (Gunamati), Trần Na (Dignàga), An Tuệ
(Sthiramati)... Tiếp theo lại có các Ngài như Hộ Pháp
(Dharmapàla), Giới Hiền (Silabhadra) - vị thầy đã trực tiếp dạy
Duy thức học cho ngài Huyền Trang tại Nalanda... Thanh thế của
trường phái này không thua kém gì trường phái Trung Quán.
-
2)-
Ðại tòng lâm Na Lan Ðà (Nalanda) - giao điểm, nơi hội tụ tinh hoa
của Phật giáo:
- Na Lan Ðà là
một "học viện Phật giáo" có một không hai trong lịch sử, tọa lạc
tại phía Bắc thành Vương Xá (Ràjagaha, nay là Ràjgir), thuộc Trung
Ấn. Nalanda có thể được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ V sau TL.
Trong ký sự của mình, ngài Huyền Trang đã ghi chép rằng, khi đặt
chân đến đây (nửa đầu thế kỷ thứ VII sau TL) thì Na Lan Ðà đã là
một đại tòng lâm quy mô; ngài Nghĩa Tịnh (cuối thế kỷ thứ VII sau
TL) thì mô tả Na Lan Ðà có tám viện, ba trăm phòng, kiến trúc nguy
nga, tráng lệ...
- Với vị trí đặc
biệt đó, Na Lan Ðà là nơi gặp gỡ của hai hệ thống tư tưởng từ Bắc
và từ Nam truyền đến; đây trở thành nơi quy tụ các danh tăng, học
giả Phật giáo lỗi lạc thời bấy giờ. Sử liệu ghi rằng, tại đây,
hàng ngày có đến hàng ngàn người theo học, nghiên cứu và tu tập.
Quy chế tuyển chọn vào Na Lan Ðà cũng rất khắt khe. Vì thế, những
người theo học tại Na Lan Ðà, sau khi hoàn thành chương trình, đều
trở thành các học giả Phật học uy tín.
- Na Lan Ðà trở
nên một trung tâm Phật giáo, đặc biệt là về mặt học thuật, của Ấn
Ðộ. Ðây là nơi đào tạo chất lượng, đồng thời là "diễn đàn" đối
thoại giữa các tư tưởng Phật giáo và giữa Phật giáo với các tư
tưởng khác trong suốt mấy trăm năm.
-
VI- Phật giáo từ thời đại ngài Trần Na
đến ngài Giới Hiền
-
1)-
Phật giáo thời đại ngài Trần Na (Dignàgà):
- Ngài Trần Na là
người Nam Ấn, sinh vào cuối thế kỷ thứ V sau TL. Ngài là người có
sở học bản lĩnh với mọi giáo nghĩa Phật giáo. Nổi bật ở Ngài là
việc tiếp thu tinh hoa của lĩnh vực luận lý học từ triết học Ấn
Ðộ, cải biến thành những nguyên lý mới, xây dựng nền tảng cho luận
lý học Phật giáo. Về tư tưởng, Ngài kế thừa tư tưởng của các ngài
Vô Trước và Thế Thân, thuộc lập trường "Duyên khởi luận".
- Ngài Trần Na đã
viết nhiều bộ luận, đặc biệt là bộ Nhân minh chính lý môn luận
bản, mà sau này đệ tử của Ngài là Hộ Pháp đã viết chú thích
đồng thời soạn thêm một số bộ luận bổ sung làm cho Nhân minh học
(= luận lý học hay lô-gích học) trở thành một lĩnh vực quan trọng
trong Phật học.
-
2)-
Phật giáo thời đại ngài Thanh Biện (Bhavaviveka):
- Ngài Thanh Biện
là người kế thừa và phát huy tư tưởng của ngài Long Thọ. Ngài là
người Nam Ấn, sống vào nửa sau thế kỷ VI sau TL. Thanh Biện không
chỉ là người tinh thông giáo nghĩa Phật giáo mà còn hiểu rõ giáo
nghĩa của một số ngoại đạo, đặc biệt là phái Số luận. Ngài đã viết
nhiều bộ luận để làm sáng tỏ thêm tư tưởng của ngài Long Thọ trong
Trung Quán luận.
- Ngài thường
hoằng hóa tại nướác Dhanakataka, thuộc miền Nam Ấn Ðộ.
-
3)-
Phật giáo ở thời đại ngài Hộ Pháp (Dharmapàla):
- Ngài Hộ Pháp đã
từng học Duy thức học từ ngài Trần Na và là người cùng thời với
ngài Giới Hiền. Vì cầu học, Ngài đã đến Na Lan Ðà để nghiên cứu,
và không bao lâu sau, trở thành một đại học giả của Phật giáo
đương thời. Ngài là tác giả của nhiều bộ luận như Thành duy
thức, Thành duy thức bảo sinh... nội dung nhằm chú giải các bộ
luận của các ngài Thế Thân, Trần Na... Nổi bật là bộ Thành duy
thức luận, sớ giải Tam thập tụng luận của ngài Thế
thân, trở thành một trong những tác phẩm trọng yếu của Duy thức
học. Tương truyền, năm hai mươi chín tuổi, Ngài rời Na Lan Ðà và
đến ẩn tu tại chùa Ðại Bồ Ðề, Ngài mất khi còn rất trẻ, chỉ mới ba
mươi hai tuổi. Tuy vậy, những dấu ấn của Ngài để lại, qua các bộ
luận, đối với lịch sử Phật giáo là rất quan trọng.
-
4)-
Phật giáo ở thời đại ngài Trí Quang và Giới Hiền:
- Những đóng góp
của ngài Trí Quang được đánh giá cao là ở sự phân loại toàn bộ
giáo lý Phật giáo theo ba lập trường, được sắp xếp từ thấp đến
cao: (1) "Tâm cảnh hữu giáo" (quan niệm rằng tâm và cảnh đều thực
có) gồm giáo nghĩa nguyên thủy và bộ phái; (2) lập trường "Tâm hữu
cảnh không giáo" (tâm có nhưng cảnh thì không thực có) gồm giáo
nghĩa của ngài Vô Trước, Thế Thân chủ trương; và (3) "Tâm cảnh câu
không giáo" (tâm và cảnh đều không thực có) gồm giáo nghĩa do ngài
Long Thọ khởi xướng. Ðây là quan điểm phân loại giáo lý (phán
giáo) đầu tiên trong lịch sử.
- Nhằm phản ứng
lại quan điểm trên của ngài Trí Quang và để tuyên dương giáo nghĩa
Duy thức học, ngài Giới Hiền đã nêu lên một thuyết phân loại mới.
Ngài cho rằng, giáo nghĩa cũng gồm ba cấp độ: (1) "Hữu giáo" gồm
giáo nghĩa của nguyên thủy và bộ phái; (2) "Không giáo" là giáo
nghĩa của ngài Long Thọ, ở vị trí trung gian; và (3) là "Trung đạo
giáo" gồm giáo nghĩa do các ngài Vô Trước và Thế Thân khởi xướng,
ở vị trí cao nhất.
- Ngài Giới Hiền
học môn Duy thức từ ngài Hộ Pháp và trở thành một bậc đại luận sư
về lĩnh vực này. Khi ngài Huyền Trang (Ðường Tam Tạng Pháp sư)
sang du học tại Na Lan Ðà thì ngài Giới Hiền đã hơn một trăm tuổi
và là đương kim Viện chủ của đại tòng lâm này. Do đó, sự bất đồng
giữa Ngài và ngài Trí Quang tạo nên một hiện tượng tranh biện lớn
về tư tưởng "Hữu, Vô" trong giới Phật học đương thời, diễn tiến
của nó kéo dài một thời gian sau đó. Phật giáo có lúc lại sa vào
sự cực đoan, rối rắm và phức tạp trong lý luận.
-
VII- Sự hình thành và hưng thịnh của Mật
giáo
- Mật giáo là gọi
tắt của "Bí mật Phật giáo", gồm có hai hệ thống: Chân ngôn thừa
(Mantrayàna), chú trọng lý luận; và Kim cương thừa (Vajrayàna),
chú trọng thực tế. Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì tư tưởng
Mật giáo có từ thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, được biểu hiện qua
những câu chú thủ hộ trong các bộ luật và trong kinh Khổng Tước.
Suốt thời gian rất dài, Mật giáo không thấy xuất hiện. Sự hình
thành như một hệ thống tư tưởng và hưng thịnh của nó gắn liền với
ngôi tự viện Vikramasila, thế kỷ thứ VIII sau TL, dưới triều đại
vua Dharmapala, ở miền Ðông Ấn Ðộ. Ngôi tự viện này là trung tâm
của Mật giáo.
- Mật giáo thường
chú trọng mục đích cầu phước, trừ tai cho nhân thế hơn là hoàn
thiện về trí tuệ thông qua việc giữ giới và thực hành thiền định.
- Karasimha,
637-735), Kim Cương Trí (Vajra Bodhi, 671-741), Bất Không Kim
Cương (Amoghavajra, 705-774), Liên Hoa Sinh (Padmasambhava, cuối
thế kỷ thứ VIII), Atisa (tức Dipankarasrijanàna, cuối thế kỷ thứ
XI)... Ðặc biệt là ngài Liên Hoa Sinh đã truyền bá Mật giáo sang
Tây Tạng để rồi tư tưởng này đâm hoa kết trái sum suê ở đây cho
đến ngày nay; và, ngài Atisa, sau khi sang Tây Tạng, trở thành một
đại dịch giả kinh điển của xứ sở này. Ðiều đáng nói là, tuy Mật
giáo được xuất phát từ Ấn Ðộ, nhưng lại không phát triển mạnh tại
đây, mà đến khi truyền bá ra bên ngoài thì lại phát triển rực rỡ.
-
VIII- Thảm họa của đạo Phật trước sự tàn
bạo của Hồi giáo
- Năm 1203, Ấn Ðộ
bị quân đội Hồi giáo xâm lăng. Nhằm thiết lập một đế quốc Hồi giáo
trên lãnh thổ Ấn, quân đội Hồi giáo đã phá hủy toàn bộ cơ sở vật
chất, tinh thần của Ấn Ðộ. Gánh chịu hậu quả nặng nề nhất là Phật
giáo và Ấn Ðộ giáo. Quân xâm lăng Hồi giáo đã đối xử với Phật giáo
rất khắc nghiệt. Họ đập phá chùa chiền, tu viện, bảo tháp, giết
hại tu sĩ, đốt phá kinh điển... với ý đồ nhằm thủ tiêu Phật giáo
nói riêng và tôn giáo ở bản địa nói chung. Ðây là trang sử đau
thương nhất của Phật giáo, khiến cho Phật giáo gần như vắng bóng
ngay trên quê hương của Ðức Phật hơn nửa thế kỷ.
- Tuy nhiên, ý đồ
tiêu diệt Phật giáo của họ không thể thực hiện được, bởi trước đó
rất lâu, Phật giáo đã truyền bá ra những quốc gia xa xôi ngoài Ấn
Ðộ, và rất hưng thịnh tại các nơi này.
- Mãi đến cuối
thế kỷ XIX, nghĩa là hơn sáu trăm năm sau thảm kịch trên, có một
Phật tử người Tích Lan (Sri Lanka), nhà nghiên cứu Phật học nổi
tiếng Anagarika Dharmapàla, đã sang Ấn Ðộ khởi xướng phong trào
chấn hưng Phật giáo. Từ đó đến nay, Phật giáo được tái hồi sinh,
các thánh tích đã và đang được trùng tu, nhiều trung tâm Phật giáo
được xây dựng làm nơi đào tạo Phật học và sinh hoạt tín ngưỡng cho
Phật tử tại Ấn Ðộ cũng như từ các nước khác đến tu học, chiêm bái.
-
-
Kết luận
- Sau khi Ðức
Phật diệt độ (*), Phật giáo có những ảnh hưởng rất lớn đối với xã
hội và ngày càng được truyền bá rộng rãi trên các miền của lãnh
thổ Ấn Ðộ cũng như ra các nước bên ngoài, đặc biệt là ở thời đại
vua A Dục (Asoka). Giáo lý mà Ðức Phật giảng dạy, như "ngón tay
chỉ mặt trăng", chỉ là một phương tiện để đi đến sự chứng ngộ
trong mỗi cá nhân, mà không phải là giáo điều cứng nhắc, nên sự
nhận thức bất đồng về lời Phật dạy (kinh, luật) là đương nhiên.
- Thời kỳ Phật
giáo Nguyên thủy, với Giáo hội Tăng già gồm đa phần các vị Thánh
tăng; vả lại, trong thời kỳ này, ranh giới truyền bá của Phật giáo
cũng còn hẹp, chỉ có các vùng thuộc vòng đai trung tâm từ Ðông
sang Tây của Ấn Ðộ, tương đối có sự liên hệ mật thiết nên chưa có
những bất đồng gay gắt xảy ra.
- Sau Phật diệt
độ khoảng một trăm năm, ranh giới địa lý truyền bá của Phật giáo
mở rộng, do sự khác biệt về văn hóa cùng với những thay đổi của
điều kiện xã hội đã đưa đến những bất đồng gay gắt trong nhận thức
lời Phật dạy và Phật giáo bị phân hóa thành nhiều (20) bộ phái.
Như trước đã đề cập, thời kỳ này, tình hình Phật giáo trở nên phức
tạp trong tổ chức cũng như trong việc giải thích giáo lý; tuy
nhiên, sự phân hóa không gì khác hơn là nhằm thích ứng để tồn tại,
ở phương diện tư tưởng, nó làm cho Phật giáo phong phú thêm. Ðiểm
nổi bật trong thời kỳ này là những đóng góp vĩ đại của vua A Dục
đối với Phật giáo, đặc biệt là trong sự nghiệp truyền bá chánh
pháp và khảo cổ - lịch sử. Nhờ có việc cử những đoàn sứ giả truyền
giáo đi đến các nước xa xôi, trong đó có thể có nước ta, mà Phật
giáo có điều kiện sớm trở thành một tôn giáo, tư tưởng lớn của
nhân loại; cũng nhờ vào những trụ đá do nhà vua xây dựng tại các
thánh địa đã giúp rất nhiều trong việc xác định niên đại của Ðức
Phật lịch sử.
- Từ khoảng thế
kỷ thứ I trước TL, tư tưởng Phật giáo Ðại thừa (Mahayana) hưng
khởi và đến thế kỷ thứ III sau TL, thời đại ngài Long Thọ, thì
hưng thịnh, mở ra thời kỳ Phật giáo Phát triển. Thời kỳ này xuất
hiện nhiều bậc luận sư xuất chúng, đặc biệt là sự hình thành của
Trung tâm Phật học Na Lan Ðà ở Bihar. Nhờ có Na Lan Ðà nên Phật
học ở thời kỳ này phát triển hoàn bị, hình thành các lĩnh vực
chuyên môn riêng biệt.
- Sự phân kỳ lịch
sử Phật giáo thành ba thời kỳ chỉ là tương đối. Thí dụ trong thời
kỳ Phật giáo Phát triển, các bộ phái vẫn tồn tại song song với các
hệ thống tư tưởng Ðại thừa và chúng tất nhiên sẽ có ảnh hưởng qua
lại với nhau...
- Nhìn khái quát,
Phật giáo Ấn Ðộ sau thời Ðức Phật, luôn có những biến thiên, thăng
trầm. Ðiều này là biểu hiện rất sinh động và thực tế đối với Phật
giáo - một cơ thể sống gồm các đặc tính khế cơ, khế thời và khế
lý, do đó vận động để thích ứng là một sự thật tất yếu. Diễn biến
qua ba thời kỳ của Phật giáo Ấn Ðộ đã thể hiện điều đó. Tuy nhiên,
vấn đề cốt lõi là bản chất giáo lý không hề thay đổi, có lúc phân
hóa dường như phức tạp nhưng chỉ là một tiến trình nhất quán và
liên tục, không có sự gián đoạn hoặc đột ngột, lệch lạc.
- Qua bài học này, hy vọng sẽ giúp
các học viên có một cái nhìn tổng quát, sơ lược về lịch sử Phật
giáo trên quê hương Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong phần kế tiếp,
học viên sẽ được giới thiệu về lịch sử Phật giáo Trung Quốc và
Việt Nam với những cứ liệu gần gũi, mật thiết với chúng ta hơn./.
- -oOo-
- * Tài
liệu tham khảo cho học viên
- 1- Lược sử
Phật giáo Ấn Ðộ, HT TS Thích Thanh Kiểm, Thành hội PG TP HCM
ấn hành, 1995.
- 2- Dị tông
luận của ngài Thế Hữu, Trí Quang thượng nhân dịch, Nxb TP HCM,
1994.
- 3- Vô ngã là
Niết bàn, HT Thích Thiện Siêu, Viện Nghiên cứu Phật học VN ấn
hành, 1990 (tham khảo phần Nguyên ủy các tông phái Phật giáo,
tr.110-148).
-
* Chú thích:
- (1) Tu Ðà Hoàn,
Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
- (2) Lối trùng
tụng phổ biến trong truyền thống Ấn Ðộ thời cổ đại, chỉ đọc lên
bằng trí nhớ chứ chưa có văn bản.
- (3) Gọi tắt là
"Dị tông luận", tác giả là ngài Thế Hữu (Vasumtra), ngài Huyền
Trang dịch sang chữ Hán, Trí Quang thượng nhân dịch ra Việt ngữ,
ấn hành 1994.
- (4) Sđd.
- (5) Dẫn theo HT
Thích Thiện Siêu, Nguyên ủy các tông phái Phật giáo.
- (6) Tu Ðà Hoàn,
Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
- (7) "Bất khả
thuyết tạng": quan niệm có một "thực thể" (Pudgala - Bổ đặc già
la) thường hằng nối kết sinh mạng con người (quá khứ - hiện tại -
vị lai), hiện hữu từ con người phàm phu cho đến cả sau khi thành
Phật, nó không thuộc hữu vi pháp và vô vi pháp (phi nhị tụ).
- (8) Vô lậu
chủng tử: tuy còn là phàm phu nhưng đã sẵn có chủng tử xuất thế -
khả năng đạt đến giải thoát, chứng ngộ tối hậu. Có thể nói, đây là
tiền đề của tư tưởng "Phật tính luận" rất phổ biến ở thời kỳ Phật
giáo Phát triển hưng thịnh.
- (9) Một thực
thể vô thủy vô chung, dung thông cả pháp hữu lậu và vô lậu.
- (10) HT Trí
Quang, Dị tông luận, 1994, tr.37.
- (*) Theo cách
tính Phật lịch hiện nay (2543) là năm 544 trước TL.
-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Trình bày nét đặc
trưng của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy.
- 2- Trình bày nguyên nhân
của bốn Hội nghị kết tập kinh điển. Bạn có suy nghĩ gì về
các nguyên nhân này?
- 3- Tóm tắt các quan niệm
về nguyên nhân phân hóa bộ phái Phật giáo? Có ý kiến cho
rằng phân hóa bộ phái là vượt ra ngoài đặc tính của Phật
giáo, như vậy có đúng không?
- 4- Bạn biết gì về nhân
vật đã có một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật
giáo ra ngoài Ấn Ðộ?
- 5- Trình bày hai hệ thống
tư tưởng nổi bật trong thời kỳ Phật giáo Phát triển
(Mahayana)?
- 6- Ý nghĩa vai trò của
đại tòng lâm Na Lan Ðà trong việc truyền bá Phật giáo?
- 7- Bạn có suy nghĩ gì về
Phật giáo sau khi được giới thiệu lược sử Phật giáo tại quê
hương của Ðức Phật?
|
--o0o--
|
|